Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Khiêm Tốn Học Hỏi Để Hiểu Rõ Ơn Gọi Của Mình

LỄ MỪNG KÍNH THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ


     Napôlêon Bonaparte viết:  ’’Alêxander, Caesar và Hannibal chiến thắng thế giới, nhưng không có bạn.  Đức Giêsu thiết lập vương quốc của Người bằng Tình Yêu; và hiện nay có hằng triệu người sẵn sàng chết vì Người…  Người đã chiếm được trái tim con người, một trách nhiệm mà kẻ chiến đấu không thể thực hiện được.’’
  
     Một vị lãnh tụ chân chính phải thu hút được lòng người. Hai con người đã bị Đức Giêsu chiếm đoạt, đó là một ngư dân xuất thân từ Galillê, tên là Simon và một người khác đầy nhiệt huyết, thuộc nhóm Pharisiêu, xuất thân từ Tarsus, tên là Phaolô.

     Ngày 29 tháng 6, Giáo Hội toàn cầu mừng kính hai nhân vật vĩ đại của Chúa, gọi là Thánh Phêrô và Thánh Phaolô.

     Hai cột trụ của Giáo Hội dạy ta những cách thế phải yêu mến Chúa và dẫn dắt dân Người ra sao.  Các ngài xác quyết ơn Chúa giúp ta biến đổi cuộc sống đời mình như thế nào.
 
     Phêrô, một kẻ nóng nảy, bất thường, không biết rõ Đức Giêsu là ai, nhưng đã được Chúa nâng nhắc thành tảng đá vững chắc, mà Chúa thiết lập Giáo Hội của Người ở trên đó.
 
     Phaolô, một kẻ hung tàn, hăng say ’lùng bắt Chúa’, đã trở nên một nhà truyền  giáo, một Tông Đồ nhiệt thành của Chúa.

     Thâm tâm hai Đấng đã biến đổi hoàn toàn, nhờ hiểu biết sự thật về con người Đức Giêsu.  Thiên Chúa Cha đã cho Phêrô thấy mầu nhiệm vĩ đại mà Người đang thực hiện, đó là việc Thiên Chúa sai Con Một Yêu Dấu của Người xuống thế gian, mặc lấy bản tính con người.  Ngay sau giây phút ấy, Phêrô đã có một cái nhìn khác hẳn đối với Đức Giêsu. Ông nhận thấy nơi con người Đức Giêsu thực sự mang bản tính của Con Đấng Thánh.  Từ nhận xét ấy, ông đã trở nên tảng đá, mà trên đó Đức Giêsu Kitô xây dựng Hội Thánh của Người.

     Phaolô cũng vậy, là một người nhiệt thành, đã hiểu biết Đức Giêsu nhờ được chính Người mặc khải (Gal. 1,12).  Không ai ở trần gian này truyền dạy Tin Mừng cho Phaolô, nhưng ông đã học được từ chính những tiếp cận thực tế với Đức Chúa hằng sống.
     Những diễn tiến hằng ngày trong cuộc sống gắn liền với ơn mặc khải.  Thông hiểu cách sâu xa về sức mạnh của Tin Mừng sẽ giúp ta dễ dàng đáp trả ơn Chúa mời gọi dẫn dắt người khác.  Cha mẹ được ủy quyền lèo lái gia đình.  Họ làm mọi việc theo lòng Chúa ước mong.  Họ khiêm tốn học hỏi để hiểu rõ ơn gọi của mình, đồng thời biết cách sống đúng Tin Mừng. 

     Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ cùng toàn thể dân Chúa cần có một sự hiểu biết dồi dào và gặt hái các kinh nghiệm qúi báu về mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô.  Với lòng khiêm nhường, ta mới có thể nhận được ơn mặc khải của Chúa.  

     Kẻ khiêm tốn cần sự soi dẫn của Chúa.  Ta đừng sợ mình thiếu hiểu biết.  Nhận thức rõ yếu đuối của mình, ta nâng tâm hồn lên Chúa Thánh Thần, xin Người soi sáng và giúp ta mỗi ngày càng vững mạnh trong Đức Tin.
’’Lạy Cha Trên Trời,
Con hân hoan mừng kính
Thánh Phêrô và Phaolô.
Những lời chứng của các ngài khuyên dạy
và khuyến khích con trở thành nhân chứng của Chúa.
Xin giúp con noi theo Tình Yêu
và sự tận hiến của Thánh Phêrô,
cùng với lòng nhiệt thành
và hăng say của Thánh Phaolô.
Xin ban ơn soi sáng và mặc khải
để con tìm được sự hiểu biết mới
về mầu nhiệm Chúa Kitô.
Xin cho con biết tập trung tâm hồn
và trí khôn vào chỉ một mình Đức Giêsu
và Thập Giá của Người mà thôi. ’’
 

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

’’Con Người Đến Để Tìm Kiếm Những Gì Đã Hư Mất’’


SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU


     ’’Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn của lễ.’’  Đó là điệp khúc mà tôi thường nghe nhắc đến trong suốt Mùa Chay.  Không giống các thần minh của những tôn giáo khác, Thiên Chúa của tôi không mang bộ mặt nghiêm khắc, oán giận.  Trái lại, Người đầy tình ái, giầu lòng nhân hậu, bao dung, vì bản tính của Người là Tình Yêu.  Chính Tình Yêu đã khiến Thiên Chúa của tôi từ bỏ ngai Trời để nhập thế, chấp nhận kiếp làm người để được gần gũi, cảm thông và chia sẻ cuộc sống nhân loại…, ngay cả việc chấp nhận cái chết. 
     Có thần minh nào đã sống gần gũi với con người như Chúa của tôi chưa?  Có thần minh nào đã dám chết thay cho con người để minh chứng tình yêu của mình chưa?
     Ôi mầu nhiệm Tình Yêu!  Chỉ có Tình Yêu và chỉ trong Tình Yêu, tôi mới có thể hiểu được ý nghĩa cao siêu của nó. 
     Ai có thể hiểu được, một người cha, dám liều mạng sống, lao mình vào biển cả, giữa cảnh trời đêm tối, mặc cho giòng nước cuốn trôi, với một chút hy vọng mong manh, là sẽ tìm được đứa con đang chìm ngập trong làn sóng bao la.  Thật đúng với cậu tục ngữ Việt Nam:  ’’cá chuối chết đuối vì con.’’ 
     Ai có thể hiểu được hành động ngông cuồng của những cặp nhân tình vượt đèo, lội suối, bất chấp không gian và thời gian vô tận, sẵn sàng chấp nhận muôn vàn hiểm nguy, thử thách, để tìm kiếm nhau, nhưng có thể đã trôi dạt vào thế giới vô định hướng!
     Ai có thể hiểu được, mỗi ngày có rất nhiều người đang lang thang trên các nẻo đường, hè phố, miệng luôn gào thét những bài ca trữ tình, với hy vọng tìm lại được chân dung của người mình yêu, nay đã khuất bóng! 

     Ôi mầu nhiệm của Tình Yêu!  Tình Yêu chứa đầy những khổ đau, cay đắng; nhưng Tình Yêu cũng mang lại sự dịu ngọt, hạnh phúc tràn đầy.  Sức mạnh của Tình Yêu thì vô tận và mãnh liệt hơn cả sự chết!

     Cũng vì thế mà Thiên Chúa đã muốn dùng sức mạnh của Tình Yêu để lôi cuốn và chinh phục lòng người.

     Còn hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh người cha già, ngày đêm thổn thức trông mong, đưa đôi tay rộng mở, sẵn sàng đón nhận đứa con lãng bạt trở về. 

     Khi Đức Giêsu rảo bước tiến vào Giêricô, có một người tên là Giakêu, thủ lãnh nhóm thu thuế; vóc dáng của Giakêu thấp bé, và vì tò mò, muốn thấy mặt Đức Giêsu, nhưng không thể chen chân với một đám dân đông đảo xô đẩy nhau, nên ông đã phải chạy về phía trước và leo lên cây để đón nhìn Đức Giêsu.  Khi đến nơi, Đức Giêsu đưa mắt âu yếm nhìn ông và phán bảo:  ’’Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta muốn lưu lại ở nhà ngươi.’’  Ông vội trèo xuống, vui mừng chào đón Đức Giêsu về nhà.  Mọi người lẩm bẩm:  ’’Ông này đến trọ nhà người tội lỗi.’’  Nhưng Đức Giêsu nói:  ’’Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất.’’
 
     Đối với dân Do Thái thì hạng thu thuế và gái điếm bị liệt vào thành phần sống ngoài lề xã hội, bởi vì bọn thu thuế là hạng người phản dân hại nước, tiếp tay cho ngoại xâm, dưới hình thức sưu cao thuế nặng, hầu làm giầu trên xương máu đồng bào.  Những người này bị dân chúng phỉ báng.  Nhưng, thật sự ngỡ ngàng và khác hẳn với mọi dự tính của con người, Đức Giêsu đã không tỏ ra phản ứng tiêu cực, cũng không đề cập tới qúa khứ lỗi lầm của Giakêu, mà chỉ lấy tình người, dùng lời dịu ngọt để chinh phúc một kẻ tội lỗi:  ’’Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta muốn lưu lại ở nhà ngươi.’’ 
  
     Tình Yêu đã gặp Tình Yêu.  Thiên Chúa đã dùng tình người để đối xử với con người.  Người không dọa nạt, đe loi; không lên án, cũng như không muốn nhắc lại một qúa khứ không mấy tốt đẹp của người khác, khi không cần thiết, để khỏi làm tổn thương đến giá trị và danh dự của họ.
 
     Thiên Chúa luôn mời gọi và dùng Tình Yêu để thu phục nhân tâm.  Thái độ đó khiến Giakêu cảm thấy sửng sốt; vì ông chưa bao giờ gặp được ở nơi người khác; điều ấy đã đánh động lương tâm ông, khiến ông mau mắn đáp trả Tình Yêu để chuộc lại qúa khứ lỗi lầm:  ’’Thưa Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia nghiệp của tôi cho kẻ nghèo khó; nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì thì tôi xin đền trả gấp bốn lần.’’ 
     Đức Giêsu phán bảo:  ’’Hôm nay, nhà này được ơn Cứu Chuộc, bởi người này cũng là con cái Abraham, vì chưng Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất.’’
     Thiên Chúa để lại cho tôi một mẫu gương, một thái độ sống, bởi vì ’’sống là sống với,’’  sống với người khác, chứ không ai sống trơ trọi một mình.  Chính vì thế, tôi phải sống với… đầy tình người, và chỉ có tình người mới có thể thúc đẩy con người sống gần gũi, thông cảm và chia sẻ nỗi thống khổ với người khác.  Rất có thể, khi còn xa cách, dễ tạo trong tôi những thiên kiến, những hiểu lầm, hay những phán đoán khắt khe đối với người khác, nhưng nếu có dịp gần gũi, trao đổi tâm tư, tôi dễ cảm thông với những hoàn cảnh éo le, người khác đang vướng mắc. 
     Một bệnh nhân, trước mắt vị y sĩ, họ chỉ cảm sốt, đau đầu hay dị ứng hành hạ…, nhưng đằng sau căn bệnh thông thường đó, hoặc nguyên nhân chính tạo nên thảm trạng đau thương, có thể là do khủng hoảng tinh thần, hoặc tình trạng bất ổn trong gia đình; ngoài ra còn nhiều yếu tố khác nữa…  Tất cả đều phải được điều trị tận gốc rễ.
     Thiên Chúa đã dùng Tình Yêu để đến với con người, và Người đã dùng Tình Yêu mà đối xử với mỗi người trong chúng ta.
 
     Tôi cũng phải lấy tình người đối xử với kẻ khác.  Đó là một khí giới duy nhất của người chiến sĩ Phúc Âm vậy!  

Hãy Lấy Ân Báo Oán

HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ NGH ỊCH

     Chuẩn bị lên giường nằm nghỉ sau một ngày dài làm việc, bác sĩ Tâm nhận được điện thoại gọi từ nhà thương, xin bác sĩ đến cấp cứu cho một bệnh nhân bị đạn bắn trúng gần chết.
     Ông vội vã thay quần áo và lái xe trở lại bệnh viện.  Khi tới nơi, mở cửa bước vào phòng Cấp Cứu.  Nhìn thấy bệnh nhân, ông sững sờ đứng khựng lại, thầm nghĩ:  ’’Bệnh nhân này chính là người đã giết mẹ ta cách nay hai năm, rồi trốn vào bưng biền…’’

     Lòng căm tức nổi dậy và bị xúc động mạnh, hai tay nắm lại, ông dự định đi ra khỏi phòng và bỏ bệnh nhân đó chết để trả thù; nhưng vì lương tâm chức nghiệp và vì giới răn bác ái Chúa răn dạy, ông nhìn lên tượng Thánh Giá treo trên tường, yên lặng giây lát, rồi điềm tĩnh rửa tay, đeo găng và bắt đầu mổ xẻ cấp cứu bệnh nhân.

     ’’Các con hãy thương yêu kẻ thù của các con nữa.  Nếu chỉ thương những người thương mình thì có công gì?  Những người thu thuế không làm được như thế sao?’’ (Mat. 5,44-46).  ’’Không, các con là con cái Cha trên trời, Đấng làm cho mưa nắng trên mọi kẻ dữ người lành, các con phải bắt chước Người và thương yêu cả những kẻ thù nghịch nữa.’’ (Mat. 5,45).

     Dĩ nhiên tình cảm và bản tính tự nhiên không đòi buộc ta phải niềm nở vui tươi với những kẻ thù nghịch như khi ta đối xử với những người bình thường khác, nhưng ít nhất và khi cần thiết ta nên sẵn sàng tha thứ, không trả thù, không làm hại và nếu được, hãy cầu nguyện cho họ, hoặc rộng lượng hơn, ta hãy làm ơn lành cho họ.  Thực tế khó lắm, không dễ. Tuy nhiên, khó không có nghĩa là không thể làm được.  Với ơn trợ giúp của Chúa, ta mới có thể thực hành được điều Chúa dạy:  ’’Hãy thương yêu và làm ơn cho cả kẻ thù của con nữa.’’ 

     Bác ái là nhân đức siêu nhiên, tự sức ta không thể thực hiện được, ta phải cầu xin ơn Chúa và Người sẽ trợ giúp, vì chính Người muốn và truyền dạy ta phải làm như vậy.

     Một vị lãnh đạo đấu tranh cho nhân quyền, đã cố gắng thi hành giới răn này, cho tới khi bị giết nói:  ’’Tôi không nói tới đức Bác Ái theo tình cảm hoặc sự xúc động.  Thật là vô lý khi bảo một người hãy yêu thương kẻ thù của họ với một thứ tình yêu cảm mến hoặc âu yếm.  Khi đề cập tới đức Bác Ái theo nghĩa thông thường, tôi có ý nói tới một thiện chí, một cố gắng.  Chúng ta phải can đảm và khiêm nhường để lấy ân báo oán.’’

     Với lòng can đảm và khiêm nhường để lấy ân báo oán, chính là thực hiện Lời Chúa qua việc Bác Ái cụ thể.  Được như thế, ta sẽ ’’nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.’’ (Mat. 5,48).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết
noi gương Chúa trên Thập Giá
khi Chúa cầu xin Chúa Cha
tha thứ cho những kẻ đã giết Chúa,
để con cũng biết
yêu thương kẻ thù của con,
như lời Chúa đã truyền dạy.
    



Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Phải Ăn Mừng, Vì em Con đã Chết, nay Sống Lại

NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH 
RỘNG LÒNG THƯƠNG XÓT


     Trong số các dụ ngôn mà Đức Giêsu đã dùng để giảng dạy dân chúng, thì dụ ngôn Người Con Hoang Đàng được kể là quen thuộc và lý thú.  Người Con Hoang Đàng là một dụ ngôn, không những diễn tả tình thương của Thiên Chúa đối với kẻ có tội, mà còn biểu hiện thái độ ngạo mạn của ta đối với hạng người đáng thương… hơn đáng trách.

     Mặc dù rất nhiều người trong chúng ta đã từng biết dụ ngôn này, nhưng với hoàn cảnh hiện nay, dụ ngôn ấy vẫn cần nhắc tới và cùng suy ngẫm.

     Để có thể ý thức lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa đối với ta, là những kẻ tội lỗi; trước hết, ta nên tìm hiểu thái độ của người cha, bởi vì vai trò của người cha trong dụ ngôn này được kể là rất quan trọng.

Thái Độ Của Người Cha và Người Con Thứ.-
      Theo lời tường thuật của thánh sử Luca tại chương 15, từ câu 11 đến 32, thì người con thứ là người thuộc thành phần ích kỷ, chỉ nghĩ đến riêng mình, đòi cho được phần gia tài, không với mục đích khai thác kinh tế, tạo nguồn lợi cho gia đình, nhưng chỉ là để sống cuộc đời phóng túng.  

     Vì thế, chẳng bao lâu sau, chàng đã tiêu dùng hết tiền của; khi nạn đói xảy đến, chàng phải đi chăn heo thuê để kiếm ăn. Đối với người Do Thái, chăn heo thuê là một nghề ô nhục, vì heo là loài vật ô uế nhất.

     Sự suy đồi của người con thứ là biểu tượng của tội lỗi.  Kẻ phạm tội sẽ lâm cảnh khốn khổ hơn, vì họ trở thành kẻ nô lệ.  Chính Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo:  ’’Qủa thật, qủa thật, Ta bảo thật các ngươi, phàm ai phạm tội thì là nô lệ cho tội.’’ (Gioan 8,34).  

     Có một điều lạ là chẳng ai trong chúng ta chịu làm nô lệ kẻ khác, thế mà lại sẵn sàng làm nô lệ tội lỗi!

     Để giải thoát con người ra khỏi ách nô lệ tội lỗi, Đức Giêsu đã lập Bí Tích hòa giải.  Phương pháp thần diệu này giúp ta tìm lại tự do thật sự, đã bị đánh mất, khi sa ngã phạm tội.  Thời nay, rất ít người còn coi trọng Bí Tích giải tội. 

     Khi thấy người con hoang đàng phung phí gia sản của cha đã phải đổ mồi hôi nước mắt tạo dựng nên, ai trong ta chẳng khỏi đau lòng.  Cũng vậy, chính ta đang phung phí ơn Chúa, không một chút nuối tiếc, chỉ vì quên các hồng ân qúi báu Đức Giêsu đã phải trả bằng một giá rất đắt, đó là cái chết của Người trên thập giá, để mua chuộc ta.  

     Vì cảm thương Đức Giêsu, một văn hào Pháp muốn được đặt lên miệng Người một câu:  ’’Ta yêu các con không phải là để làm trò cười!’’   

     Và ông đã thay mặt ta nói:  ’’Lạy Chúa Kitô, con không biết lấy gì đền ơn Chúa đã chịu chết để giải phóng con khỏi ách nô lệ tội lỗi.  Xin cho con biết noi gương Chúa, sẵn sàng hy sinh tính mạng để lôi kéo anh em con khỏi kiếp nô lệ của ma qủi.’’
 
Niềm vui hội ngộ giữa cha-con
Người Con Thứ Trở Về Nhà Cha.-
    Không chịu nổi cảnh cơ bần và ô nhục khi đi làm thuê cho dân ngoại, người con hoang đàng phải tìm đường về.  Để được cha mình đón tiếp, anh đã chuẩn bị sẵn một câu thú tội thật hay, nhưng không phản ảnh đúng tâm trạng của chàng.  Việc chàng hối hận trở về, không diễn tả rõ thái độ gây phiền hà cho cha mình hay tỏ ra là đã phạm lỗi với Trời, nhưng chính vì miếng cơm manh áo.  Cho nên, khi nghe dụ ngôn, ta chớ coi việc trở về của chàng là gương mẫu của sự ăn năn thống hối.
 
     Dù sao, khi chợt thấy bóng chàng từ đàng xa, người cha đã chạnh lòng thương, chạy vội ra ôm chặt lấy con mình. Anh vừa mở miệng xin lỗi, thì cha anh đã ngắt lời, truyền lệnh cho gia nhân mở tiệc ăn mừng.  

     Niềm hoan lạc của người cha trong lúc này khó ai có thể diễn tả trọn vẹn được.  Ông quên hết lỗi lầm trong qúa khứ của con mình, để chỉ quan tâm tới một điều duy nhất là con ông đã trở về bình an, khỏe mạnh.  Dù anh bất hiếu, dù anh hoang đàng, nhưng anh vẫn là con, nên cha anh hằng yêu thương anh như yêu thương người con cả vậy.

     Giống như người con hoang đàng, biết bao lần ta đã làm mất lòng Chúa; tuy nhiên, vì là con Chúa, nên Người hằng quan tâm và yêu thương ta.  Người luôn tha thứ và tẩy sạch tâm hồn ta, nếu ta thật lòng ăn năn sám hối. 

     Qua ngôn sứ Isaia, Chúa phán: ’’dù tội lỗi ngươi như nhiễu điều, Ta sẽ gột trắng như tuyết.’’ .  Thế thì tại sao ta cứ nằm lì trong tội lỗi?  Ta chú tâm tới việc giữ gìn thân xác cho thật sạch sẽ, năng tắm gội, còn phần linh hồn thì sao?  Ta có chuyên cần săn sóc, tẩy uế thường xuyên chăng, hay chỉ một năm mới có một lần, hoặc lâu hơn nữa?

    Thái Độ Của Người Cha và Con Trưởng.-
     Khi em trở về nhà, thì người con cả còn đang ở ngoài đồng.  Biết được lý do cuộc liên hoan, anh cảm thấy tức giận, phân bì với em, vì được cha ân cần tiếp đón, đồng thời còn trách cha là đối xử bất công.  Anh tỏ ra khinh rẻ người em và gọi bằng ’’thằng.’’

     Người cha đã có thái độ thế nào đối với người con trắc nết? Ông không ngần ngại đi ra năn nỉ anh vào trong nhà chia vui với gia đình.  Ông còn kiên nhẫn lắng nghe và đón nhận tất cả mọi bất mãn mà người con cả trút sang ông.  Sau đó ông mới dịu dàng giải thích:  ’’hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha là của con.’’

     Lúc bấy giờ người con trưởng mới khám phá ra rằng, cha mình thật độ lượng.  Thay vì chỉ cần một con dê để làm thịt ăn chơi, vui vẻ với bạn bè, anh còn được hưởng cả gia tài của cha mình.  Như thế, sao lại cho là bất công!  Ngoài ra, người cha cũng không quên nhắn nhủ anh về tình huynh đệ.  Dù đứa em sống hoang đàng, nó vẫn là ’’em’’ của chàng.  Ông dùng tiếng ’’em’’ thay cho ’’thằng con của cha kia…’’…  ‘’phải ăn mừng, vì em con đã chết, nay sống lại.’’ Nếu người cha vui mừng khi gặp lại con mình, thì sao người anh cả không vui mừng khi gặp lại em?

     Dụ ngôn không cho biết phản ứng của người con trưởng ra sao, sau khi nghe những lời phân trần nhã nhặn của cha mình, và  có chịu vào nhà để chia vui với gia đình hay không!

    Người con trưởng biểu tượng cho nhóm biệt phái pharisiêu và ký lục kiêu căng, thường khinh rẻ kẻ tội lỗi, vì họ tự cho mình là  người công chính.

     Còn ta thì sao?  Đứng trước các lỗi lầm của người khác, ta có thái độ thế nào?  Khiêm nhường, khoan dung tha thứ như Đức Giêsu, Thày Chí Thánh, hay ta sẽ khắt khe khinh chê, rồi xa tránh hoặc tìm cách bêu xấu họ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn chăng?

     Một nhà thần học trứ danh mô tả trong tác phẩm nói về phép giải tội đã viết:  ‘’Người Cha trong dụ ngôn này là Thiên Chúa.  Không người cha nào trên trần gian có cách cư xử như Người.  Không người cha nào trên trần gian có tình yêu bao la như Người.  Người con thứ là con của Người, nên dù anh có phung phí những gì Người đã trao ban cho anh, và dù anh trở về trần truồng, Người vẫn tiếp đón anh.  Người vui mừng, bởi vì anh trở về với nhận thức sâu sắc hơn cả sự khôn ngoan của người con trưởng.’’

     Giống như người con thứ, ta hãy đứng lên và trở về làm hòa với Chúa và với tha nhân.  Không gì có thể làm cho Chúa vui lòng hơn, bởi vì chính Người đã nói:  ‘’Ta bảo thật, khi một người tội lỗi ăn năn thống hối, thì ở trên trời sẽ vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn thống hối.’’ (Lc. 15,7).

-  ‘’Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha’’.

-   ‘’Này con, tội con đã được tha rồi.’’

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

’’Lạy Chúa, Xin Đoái Thương Con Là Kẻ Tội Lỗi’’


THỰC THI Ý CHÚA
    Đọc Kinh Thánh Tân Ước, ta nhận thấy Đức Giêsu thường dùng các hiện tượng, các sự kiện xảy ra trong cuộc sống hằng ngày để so sánh với những bài học giáo lý về ơn cứu độ. 

     Hình ảnh người cha sai hai con đi làm vườn nho trong dụ ngôn rất quen thuộc do thánh sử Mátthêu viết tại chương 21, từ câu 28 đến 32 là một thí dụ cụ thể.  Dụ ngôn diễn tả lối sống tương phản giữa những người thu thuế và bọn biệt phái (pharisiêu).
     Những người thu thuế bị dân Do Thái xếp vào thành phần tội lỗi, vì họ cộng tác với người ngoại quốc và không trung thành với luật lệ của cha ông.  Đức Giêsu ghét tội, nhưng Người rất thương những kẻ tội lỗi.
  
     Đức Giêsu tìm cách chinh phục và đón tiếp họ một cách âu yếm, khi họ thành tâm thống hối trở về.  Trong dụ ngôn ’’người pharisiêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện’’ do thánh sử Luca viết, tại chương 18, từ câu 9 đến 14, Đức Giêsu khen người thu thuế khiêm nhường. 

     Người thu thuế Lêvi, tức Mátthêu, khi được Đức Giêsu gọi đã bỏ mọi sự mà đi theo làm tông đồ của Người. (Mat. 9,9; Lc 5,27).  Còn người thu thuế Giakêu ước ao nhìn thấy Đức Giêsu, đã được Người ghé thăm và chúc phúc ngay tại tư gia của ông.

      Pharisiêu là một giáo phái Do Thái, vào thời Đức Giêsu, có chừng 6 ngàn thành viên. Họ chủ trương tuân hành từng câu, từng chữ trong các luật lệ và tập tục của cha ông.  Pharisiêu rất tự mãn và kiêu căng.  Họ tìm nhiều dịp để bắt bẻ, chống đối Đức Giêsu.  Họ thường bị Đức Giêsu cảnh cáo là giả hình, kiêu ngạo, trọng hình thức, vụ lợi… 

     Dĩ nhiên không phải tất cả mọi người thuộc phái pharisiêu là thành phần xấu.  Kinh Thánh Tân Ước nhắc tới Nicôđêmô lén lút gặp Đức Giêsu vào ban đêm (Gioan 3).  Sách Công Vụ Tông Đồ đề cập tới Gamaliel là bậc thày của thánh Phaolô (Cvtđ 22,3; 5,34).
     Trở lại dụ ngôn, ta nhận thấy, chủ vườn nho chính là Thiên Chúa.  Hai người con thuộc hai thành phần khác nhau:  thu thuếpharisiêu.  Những người thu thuế không tuân hành luật Môisen, nhưng sau lại tin Đức Giêsu và thống hối trở về với Tin Mừng. 

     Họ biểu tượng cho người con trưởng trong dụ ngôn, khi thưa ’’con không đi’’,  nhưng sau hối hận, mà đi làm vườn nho cho cha. Pharisiêu giữ luật Môisê rất kỹ, nhưng phủ nhận Chúa Cứu Thế, Đấng mà Môisê đã tiên báo.  Pharisiêu là hình ảnh của người con thứ, ngay lúc đầu đã thưa với cha ’’vâng con đi’’, nhưng thực tế lại không đi làm vườn nho cho cha.

     Vậy chính những người thu thuế đã thực thi ý định của Thiên Chúa, và do đó được phần thưởng: ’’ta nói thật với các ngươi, những người thu thuế và bọn bán dâm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ngươi!  Vì Gioan theo đường chính trực đến với các ngươi mà các ngươi chẳng tin, song bọn thu thuế, phường mãi dâm lại tin; hơn nữa, các ngươi đã mục kích, nhưng cũng chẳng sám hối đền tội mà tin Người.’’ (Mat. 21,32).

     Nếu đem dụ ngôn áp dụng vào thực tế, cá nhân ta thuộc lớp người nào:  Thu thuế hay Pharisiêu?  Trong suy nghĩ, qua cách sống đạo, có thể ta đang mang ít nhiều pharisiêu tính, mà chính ta không khám phá được. 

     Với dăm ba việc thực hành đạo, nhiều khi chỉ là hình thức hời hợt bên ngoài, mà ta đã tự mãn, cho mình là thánh thiện, đạo đức, rồi bắt bẻ, xét đoán, khinh thường những người khác…  Hãy coi chừng! 

     Ước chi mỗi người trong chúng ta, tự đáy lòng, nên mặc lấy tâm  tình khiêm tốn của người thu thuế, và hằng ngày tự đấm ngực - đừng đấm ngực người khác!  Và thưa với Chúa:  Lạy Chúa, xin đoái thương con là kẻ tội lỗi!’’ (Lc. 18,13). 

     Đó cũng là cách thực thi Ý Chúa.     

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

LỄ TRỌNG MỪNG SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ

Ta Đặt Ngươi Làm Ánh Sáng Muôn Dân



       24 tháng 6 hằng năm, Giáo Hội công giáo toàn cầu cử hành Lễ Mừng Kính Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả.  Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả được cử hành trọng thể ngay vào buổi chiều ngày 23 tháng 6, gọi là lễ vọng.

     Nhiều nước ở Âu châu, đặc biệt các quốc gia Bắc Âu, lễ sinh nhật thánh Gioan tảy giả được tổ chức theo tinh thần Kitô giáo Tin Lành. Vào buổi chiều hôm trước, dưới hình thức dân chúng tụ họp tại các nơi công cộng do giới chức địa phương ấn định với một chương trình gồm vài ba bài hát nội dung hướng về mua hè, dăm bảy màn náo hoạt, các món ăn nhanh… và cuối cùng đốt hình nộm ’’mụ phù thủy’’.

     Vậy Gioan Tẩy Giả là ai?  
Gioan tẩy giả là anh em họ hàng với Đức Giêsu.  Theo Tin Mừng Thánh sử Luca thì Gioan tẩy giả nhiều tuổi hơn Đức Giêsu 6 tháng.  Khi chúng ta tổ chức lễ mừng kính sinh nhật thánh Gioan tẩy giả, thì còn đúng nửa năm nữa là đến ngày mừng sinh nhật Đức Giêsu.

     Vì thánh Gioan tẩy giả giữ một vai trò vô cùng đặc biệt trong chương trình cứu chuộc của Chúa, nên việc vào đời của thánh Gioan tẩy giả cũng được chuẩn bị một cách vô cùng đặc biệt.  Bà Êlisabeth, thân mẫu thánh Gioan tẩy giả là người hiếm hoi và đã cao tuổi.  Tuy nhiên, sứ thần Chúa loan báo việc vào đời của Gioan tẩy giả, đồng thời cho biết, ông là hiện thân của ngôn sứ Êlia trở về để chuẩn bị cho việc Chúa đến trong thế gian. 

     Giacaria bị câm, vì thiếu niềm tin vào lời Thiên sứ; nhưng khi đã vâng theo lời nhắn bảo của thiên sứ là đặt tên cho con ông là Gioan, bỗng nhiên tiếng nói lại trở về với Giacaria.

     Giacaria đã dùng tiếng nói để ca tụng Thiên Chúa và công bố ơn cứu độ mà chính con trai ông sẽ là người tiên báo cho nhân loại biết. Mỗi khi Chúa mở môi miệng chúng ta, là Người muốn chúng ta loan truyền lời ca tụng của Gioan, và vì thế, chúng ta nên cảm tạ Chúa vì Người đã đem ơn cứu độ của Người đến cho chúng ta.

     Giacaria tỏ ra không hiểu biết và thiếu niềm tin, vì thế trong suốt thời gian bà Êlisabeth có thai, ông đã suy niệm lời thiên sứ một cách sâu xa, nhờ thế ông đã được Thiên Chúa tỏ lộ cho ông biết vai trò quan trọng, mà con trai ông sẽ nắm giữ trong tương lai.
   
     Trải qua nhiều thế kỷ, Thiên Chúa đã chuẩn bị việc Đấng Cứu Thế (Messia) đến trong thế gian, và nhiều ngôn sứ đã từng tiên báo việc Người sẽ đến. Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng và quan trọng nhất đã tiên báo cách rõ ràng hơn tất cả các ngôn sứ khác về việc Đức Kitô đến trong thế gian. Gioan tẩy giả chuẩn bị con đường Chúa đến bằng cách kêu gọi toàn thể dân chúng hãy ăn năn thống hối tội lỗi mình, đồng thời cảnh báo cho họ biết việc Người sẽ phán xét từng cá nhân.
 
     Sứ điệp của Gioan tẩy giả tập trung hoàn toàn vào Đấng Cứu Thế.  Ngay khi còn là một bào thai trong cung lòng bà Êlisabeth, Gioan tẩy giả đã vui mừng chào đón bào thai trong cung lòng bà Maria, và sau này cảm thấy rất hãnh diện được đóng vai trò làm ’’bạn với vị hôn phu’’. 

     Nhân ngày lễ mừng kính sinh nhật thánh Gioan tẩy giả, muợn lời Giacaria, chúng ta cùng nhau cảm tạ Chúa: 

     ’’Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao:  con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết:  Người sẽ cứu độ bằng cách tha cho họ hết mọi tội khiên.  Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm chúng ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.’’  (Luca 1,76-79).
’’Lạy Chúa,
con cảm tạ, vì Chúa đã cho tôi tớ Chúa 
là Gioan, dọn đường cho Chúa đến.
Xin cho con biết noi gương 
thánh Gioan ty giả sẵn sàng chỉ 
cho người khác tìm đến với Chúa,
   và làm cho Chúa luôn hiện diện 
trong thế gian. Amen.’’