Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13,13-25; - Thánh Vịnh 89,2-3.21-22.25+27;
- Gioan 13,16-20

Nhập Lễ: 
’’Lạy Chúa,khi Chúa đứng đầu dân tộc tiến ra, Chúa lên đường với họ, và ở trong họ, thì đất rung động và trời vỡ lở, halleluia’’ (Thánh Vịnh 67,8-9.20)
Bài Đọc:
’’Từ dòng dõi Đavít, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu’’ (Công Vụ Tông Đồ 13,13-25).
Đáp Ca
                 ’’Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng’’ (Thánh Vịnh 88,2a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Lạy Chúa Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, Chúa đã yêu mến chúng con, và đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng con.  Halleluia’’. (theo Khải Huyền 1,5ab)
Tin Mừng:
’’Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy’’ (Gioan 13,16-20).
Ca Hiệp Lễ:
’’Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, halleluia’’. (Mátthêu 28,20)
 
*****

Đấng Cứu Độ Là Đức Giêsu


Phaolô Nói Với Các Đồng Hương Do Thái tại Antikôniaka


                      Để thi hành trọn vẹn sứ vụ Tông Đồ, Phaolô cũng như bạn hữu của Người luôn sẵn sàng chuẩn bị lên đường.  Trình thuật của Luca trong sách Công Vụ Tông Đồ phản ảnh kế hoạch và hoạt động không ngừng của Giáo Hội sơ khai, trong các chuyến du hành truyền bá Tin Mừng.

                 Muốn thực hiện sứ vụ rao giảng Tin Mừng thêm hiệu năng, dường như có những khi các Tông Đồ phải tập hợp thành từng nhóm nhỏ, thay vì tách riêng, ra đi rải rác từng người.  Chương trình rao giảng của các Tông Đồ dựa theo kết hoạch hợp rồi lại tan.

Tiến trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô diễn biến theo kế hoạch do chính Người tự sắp xếp. Mặc dù Gioan từ giã nhóm để trở về Giêrusalem, các môn đệ khác tiếp tục cuộc hành trình tới Antioch, xứ Pesidian.

Ở đây, theo thói quen, các Ngài tham dự ngày Sabát tại hội đường.  Sau các bài đọc trích từ sách luật và sách tiên tri, các Tông Đồ được giới đặc trách trong hội đường giới thiệu, đặc biệt yêu cầu các Ngài khuyên dậy dân chúng ít lời.

Trải qua nhiều cuộc quấy nhiễu và bất mãn tới cùng cực, khiến nền đạo đức đã bị sa sút trầm trọng, dân chúng cần một sức đẩy nào đó, có thể đem lại cho họ một niềm tin và hy vọng; từ đó, họ sẽ cảm thấy phấn khởi.

Sứ điệp của Phaolô là lời dẫn chứng riêng đối với dân tộc Israel.  Phaolô cho người nghe một tổng lược về lịch sử ơn cứu độ, giúp họ cảm thấy tự hào và hãnh diện, đồng thời thêm hăng say trong cuộc sống hiện tại.

Qua sứ điệp của Phaolô, người Do Thái biết mình là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, rồi đưa họ vào sa mạc để chuẩn bị tiến vào đất hứa; đoạn Thiên Chúa ban cho họ các thẩm phán để cai trị họ, và tiếp theo là ban tặng cho họ một vị vua, như lòng họ mong muốn. Sau khi loại bỏ Saulê, con của Kish, Thiên Chúa đã đặt để Đavít; và từ dòng dõi này, xuất hiện Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu.

Sau buổi diễn thuyết, Phaolô không ngừng gợi lên trong tâm trí họ niềm kiêu hãnh và lòng tôn phục tự nhiên, đối với truyền thống, cũng như đối với Thiên Chúa.  Trong kế hoạch tiêu diệt nhân chủng, người ta thường tìm đủ cách hầu triệt hạ một dân tộc, bằng cách nêu lên các tệ đoan diễn ra trong xã hội liên hệ, hoặc thiết lập một loại công dân hạng hai tại nơi đó.

Vì thế, Phaolô đã khuyên bảo dân chúng Israel nên ý thức điều đó và hãy đứng thẳng người, nâng hẳn đầu lên, hướng mặt về phía trước và hùng dũng tiến bước.  Phaolô cho biết, có Thiên Chúa ở bên cạnh, thì đừng sợ hãi bất cứ điều gì.

Thánh Gioan nói:  ’’Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi’’ (1 Gioan 4,18).  Cũng có lý, khi câu nói kia được đổi ngược lại, và Phaolô biết rất rõ điều đó. Sợ hãi có thể tiêu diệt tình yêu.  Sợ hãi là một ý tưởng thiếu lành mạnh, làm nhụt chí người đem Tin Mừng gieo vãi trong một thế giới tràn đầy đố kị và hỗn loạn.

’’Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm và lòng nhiệt thành, sẵn sàng làm nhân chứng của Chúa trong thế gian.  Xin cho con biết đặt niềm tin ở chính mình, đồng thời biết nâng phẩm giá của người  khác lên.  Xin Chúa mở lòng trí tất cả mọi người để họ có thể đón nhận Tin Mừng cứu độ. Amen’’.

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 11,19-26; - Thánh Vịnh 87,1-7; - Gioan 10,22-30

Nhập Lễ: 
’’Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng, hãy tôn vinh Thiên Chúa, vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng của chúng ta đã thống trị, halleluia’’ (Công Vụ Tông Đồ 19,7.6,)
Bài Đọc:
’’Họ rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cho cả người Hy Lạp’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,19-26).
Đáp Ca
                 ’’Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa’’ (Thánh Vịnh 86,1a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói: ’Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi .  Halleluia’’.
Tin Mừng:
’’Tôi và Cha tôi là một’’ (Gioan 10,22-30).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Kitô đã phải chịu khổ hình và từ cõi chết sống lại, và như vậy Người được vinh quang, halleluia. (theo Luca 24,46.26)

Chiên Của Tôi Thì Nghe Tiếng Tôi




Lần Đầu Tiên Các Môn Đệ Được Gọi Là Kitô Hữu

                 Đọc trình thuật Giáo Hội sơ khai tăng trưởng nhanh chóng, chúng ta cảm thấy thật phấn khởi, đồng thời thúc đẩy mọi người thêm lòng cậy trông vào ơn phù trợ của Thiên Chúa, Đấng ban sự ơn tốt lành và chúc phúc cho các nỗ lực của chúng ta, hầu chúng ta xứng đáng làm chứng nhân của Đức Kitô, nhờ thế, xã hội, nơi chúng ta đang sống có thể theo đà lớn mạnh nhanh chóng như Giáo Hội thuở ban đầu.

                 Đức Giêsu truyền cho các môn đệ rao giảng Tin Mừng, bắt đầu từ Giêrusalem, Giuđêa, Samaria… và cho tới tận cùng trái đất (Tông Đồ Công Vụ 1,8).  Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, số tín hữu tại Giêrusalem đã lên tới trên 5.000 người (Tông Đồ Công Vụ 4,4), và rồi càng ngày càng thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông lẫn đàn bà - rất đông ((Tông Đồ Công Vụ 5,14).

                 Giáo Hội phải trải rộng ra ở nhiều nơi, vì các cuộc bách hại hung hãn nổi dậy, khiến Stêphanô chết vì đạo, nhưng các người Kitô hữu tân tòng, mặc dù mất nhà cửa và các tài sản khác, vẫn tiếp tục hăng say loan truyền Tin Mừng.  Lần theo dấu vết hoạt động của các nhà rao giảng Tin Mừng ẩn danh, trước hết, Luca đặt chân tới Samaria, rồi lần lượt đến Phoenicia (ngày nay gọi là Libanon), Cyprus và Antioch.

                 Antioch là thị trấn lớn thứ ba thuộc đế quốc Rôma.  Thị trấn này được mệnh danh là ‘’Người Đẹp Antioch’’ ‘’Nữ Hoàng Đông Phương’’, vì các biệt thự và những hàng cột thiết kế trong thị trấn.  Thị trấn gồm khoảng một triệu cư dân.

                 Tin Mừng không chỉ được loan truyền ở khắp các nơi thuộc thị trấn Antioch, mà còn lan rộng tới mọi nền văn hóa, bởi vì một số tín hữu gốc Do Thái đến từ Cyprus và Cyrene (thuộc miền Bắc Phi Châu), là những người có nhiều tương quan với Dân Ngoại, nhờ thế họ có thể là thành phần nhân chứng tích cực cho Tin Mừng, khi họ dịp giao dịch với các sắc dân liên hệ.

                 Việc rao giảng Tin Mừng của họ thành công tới độ, tin tức lan truyền về Giáo Hội tại Giêrusalem, nên người ta đã sai Barnaba đi diều tra, để tìm hiểu sự thật.  Nhận thấy quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các tín hữu gốc Do Thái và Dân Ngoại, Barnaba rất vui mừng. 

                 Kết qủa này nhắc Barnaba nhớ tới Giáo Hội lúc ban đầu tại Giêrusalem:  ‘’các tin hữu bán tất cả các vật sở hữu, gom góp chung với nhau, chỉ có một lòng một ý’’ (Tông Đồ Công Vụ 4,32).  Thế rồi, Barnaba đã cùng Saulô, suốt một năm trời khuyến khích, dậy bảo và giúp đỡ tín hữu Antioch trở nên một cộng đoàn trưởng thành.

                 Bài học nào đã dậy Giáo Hội tại Antioch trở nên lớn mạnh?  Bài học căn bản giúp Giáo Hội Antioch lớn mạnh nhanh chóng là nhờ các tín hữu hăng say loan truyền Tin Mừng bằng lối sống đơn sơ, bình dị hằng ngày.  Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn cần học ở nơi cộng đoàn Kitô hữu Antioch mẫu gương yêu thương, đùm bọc và nhiệt tâm dấn thân phục vụ Đức Kitô, đồng thời nỗ lực loan truyền Tin Mừng cách rộng rãi.

                 Nhờ thế, những người chưa nghe biết Chúa, có thể sớm tìm đến nguồn mạch đức tin.  Và từ đó, Giáo Hội sẽ mau chóng bành trướng.  Điều thế gian dễ nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô là chúng ta hết lòng yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.  Chỉ như thế, chúng ta mới xứng đáng tự nhận mình là người Kitô hữu, như các nhà rao giảng Tin Mừng tại Antioch.

‘’Lạy Chúa Giêsu, Chúa ước ao đem mọi người đến với Chúa, bằng lối sống yêu thương và nhiệt tâm dấn thân rao truyền Tin Mừng.  Xin cho chúng con trở nên nhân chứng của Chúa và xứng đáng mang danh Chúa.  Amen’’.

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

 Thứ Hai Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 11,1-18; - Thánh Vịnh 42,1-2.43,3-4; - Gioan 10,1-10

Nhập Lễ: 
’’Chúa Kitô một khi từ cõi chết sống lại, thì không còn chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.- halleluia’’ (Rôma 6,9).
Bài Đọc:
’’Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,1-18).
Đáp Ca
                 ’’Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống’’ (Thánh Vịnh 42,3a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói:  Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.  Halleluia’’.
Tin Mừng:
 ’’Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’’ (Gioan 10,11-18).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Giêsu đứng giữa các môn đệ và phán rằng: ’Bình an cho anh em’’. (Gioan 20,19)

*****

Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con Thờ

 
Tôi Là Cửa Cho Chiên Ra Vào

 
                 Người Do Thái và Dân Ngoại khinh ghét nhau cách thậm tệ trong suốt nhiều thế kỷ, đến nỗi người Do Thái không ngồi đồng bàn ăn với Dân Ngoại, hoặc lui tới tư gia của họ; và người Do Thái coi Dân Ngoại như một lũ ‘’chó’’.  Người Do Thái sùng đạo coi việc liên hệ với Dân Ngoại có thể làm thân xác họ trở nên dơ bẩn. Đó là điều gây trở ngại lớn trong việc thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu là đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc. 

                 Qua bài đọc hôm nay, chúng ta nhận thấy việc Thiên Chúa đã phá vỡ hàng rào ngăn cản vĩ đại này bằng cách nào? Chúa Thánh Thần hoạt động trong Phêrô một cách tài tình và khéo léo. 

Trước tiên, trong một thị kiến liên quan tới các thực phẩm thanh sạch và ô uế; Chúa Thánh Thần nhắn bảo Phêrô nên đón nhận những điều do Thiên Chúa phán quyết; đoạn Chúa Thánh Thần truyền dậy Phêrô đi với ba sứ thần thuộc Dân Ngoại, để có thể hiểu ý nghĩa thị kiến kia một cách rõ ràng hơn; cuối cùng, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên những kẻ đang nghe lời Chúa trong gia đình Cornêliô; điều đó tỏ lộ cho Phêrô biết, Dân Ngoại cũng được chung hưởng ơn cứu độ của Đức Giêsu:  ‘’Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,17).

                 Từ đó, người Kitô hữu gốc Do Thái hiểu rõ rằng, Thiên Chúa có ý định làm cho người Kitô hữu Dân Ngoại và Do Thái hiệp nhất với nhau.  Tất cả các tư tưởng bất chính xưa cũ, nay đã bị loại trừ.  Mọi người hoan hỉ chung hưởng một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần.

                 Đức Giêsu muốn Giáo Hội nên một, bởi vì sự hiệp nhất là cách biểu lộ tình yêu rõ nét nhất, đồng thời phản ảnh tình yêu kết hợp giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Đó cũng là lời chứng rất hợp lý xuất hiện giữa một thế giới luôn luôn chỉ nghĩ tới việc xử dụng chung một thứ vũ khí ‘’xung khắc và bất hòa’’.

                 Sự phân hóa trầm trọng giữa những người Kitô hữu từ nhiều thế kỷ qua, trên một số lãnh vực khác nhau, gây nên nhiều tổn hại trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Lịch sử ghi đậm nét bằng mối thù hận, đến nỗi, anh chị em không ngần ngại chém giết nhau.

                 Trong quãng thời gian mới đây, Giáo Hội xác nhận là Chúa Thánh Thần đang mời gọi các tín hữu Kitô giáo tái hiệp nhất với nhau.  Sắc Lệnh Đại Kết do Công Đồng Vatican II ban hành, đã mở rộng cánh cửa đón chào các buổi đối thọai. Sắc Lệnh minh định rằng Chúa Thánh Thần đã hoạt động ở các Giáo Hội khác nhau, và Người rất đau buồn về tình trạng phân hóa, tạo nên ‘’sự phản nghịch công khai ý định của Đức Giêsu, làm băng hoại trần thế, và gây tổn hại tác vụ thánh là rao giảng Tin Mừng đến tất cả các tạo vật.’’  (Unitatis redingtegratio 1).

                 Trong tông thư ‘’Ut unum sint’’, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi sự tái hiệp nhất.  Người khuyên nhủ tất cả mọi người chúng ta hãy đồng tâm góp sức trong tác vụ này, bằng cách xét định lại thái độ sống của mình, tức là ‘’thay đổi con tim và thánh hóa cuộc sống, đồng thời gia tăng cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô giáo, dưới hình thức tập thể hoặc riêng tư, vì đó là linh hồn của toàn thể phong trào đại kết’’ (UUS, 21).

‘’Lạy Chúa, xin giúp con biết đau buồn trước sự phân hóa Thân-Mình của Chúa.  Xin giúp con tận tâm hy sinh vì Chúa, để nhờ đó, con có thể tiến lại gần anh chị em của con mỗi ngày một hơn.  Amen.’’

Chúa Nhật 4 Phục Sinh - Năm B

Chúa Nhật 4 Phục Sinh  -  Năm B
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 4,8-12; - Thánh Vịnh 118,1+8-9.21-23.26+28-29;
- 1 Gioan 3,1-2; Gioan 10,11-18


Bài Đọc 1:  Công Vụ Tông Đồ 4,8-12  -       Ngoài Người Ra Không Ai
                                                   Đem Lại Ơn Cứu Độ


Ông Phêrô Nói Trước Thượng Hội Đồng 
 
Bài Đọc 2:  1 Gioan 3,1-2  -        Chúng Ta Là Con Thiên Chúa

 
Chúng Ta Được Gọi Là Con Thiên Chúa


Tin Mừng:  Gioan 10,11-18  -     Tôi Chính Là Mục Tử Nhân Lành

 

Tôi Chính Là Mục Tử Nhân Lành


                 Trong Tin Mừng của Gioan, Đức Giêsu sử dụng cụm từ ’’tôi chính là’’ tới bảy lần.  Theo Gioan, đây là một thiết bị thần học có thể làm sáng tỏ sứ mệnh và bản tính của Đức Giêsu.  Mỗi lần nhắc tới từ ngữ ’’tôi chính là’’ là một lần chiều kích sứ mệnh nền tảng của Đức Giêsu được long trọng tuyên dương và nhấn mạnh.  Cụm từ ấy phản ảnh những lời ghi tại chương 3, câu 14, sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Israel.  Những ai nghe Đức Giêsu sử dụng các từ ngữ này có thể hiểu rõ rằng Người đang mang hướng về thần tính.

                 Hôm nay, chúng ta tiếp cận với Đức Giêsu, môt Mục Tử nhân lành.  Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Gioan 10,11).  Nghe những lời ấy, đám thính giả của Đức Giêsu cảm thấy khó chịu.  Hầu hết các mục tử Palestine đều đã hy sinh cuộc sống vì đoàn chiên của mình.  Họ sẵn sàng chịu đựng gian khổ và hiểm nguy để bảo vệ đoàn chiên. Địa hình trắc trở, thời tiết khắc nghiệt và tình trạng sói rừng vẫn là một trong số các đe doạ họ thường xuy ên phải đối đầu.  Nói chung, nguy nan và hiểm trở luôn rình rập n ơi việc làm của họ.  Tuy nhiên, sự tận tâm, tận lực của họ không đến nỗi phải hy sinh mạng sống, vì như thế là vượt ra khỏi bổn phận và khả năng của họ -  đời sống con người được kể là quan trọng hơn một con chiên.  Khác với họ, Đức Giêsu đã hoàn toàn hy sinh cuộc sống cho đoàn chiên của mình.

                 So sánh chúng ta với hình ảnh con chiên thực sự không tương  hợp chút nào, bởi vì con chiên, hơn tất cả, không phải là loài động vật sáng giá nhất! Chiên cần một mục tử.  Chúng rất dễ lạc đường và mau mất định hướng.  Chúng cũng dễ bị kẻ thù tấn công. 

                 Vì cố gắng nghe theo tiếng nói của mục tử, nên chúng ta cũng dám thừa nhận rằng mình giống như những con chiên.  Chúng ta cũng dễ lạc đường vì bị ảnh hưởng của thế giới trần tục.  Chúng ta suy nghĩ và hành động theo chiều hướng trái ngược với Tin Mừng.   Chúng ta có thể cảm nhận rằng mình mất phương hướng và tụt xuống con hẻm đen tối của nhầm lẫn.

                 Đức Giêsu là mục tử nhân lành.  Phần chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành.  Thánh Gioan Chrysotom viết:  ’’Bao lâu chúng ta còn hành xử như những con chiên, thì chúng ta là kẻ chiến thắng; ngay cả khi có hàng chục ngàn con sói bao vây, chúng ta vẫn có thể chiến thắng được.  Nhưng trong giây phút hành động như những con sói, thì chúng ta là kẻ chiến bại, vì chúng ta mất sự hỗ trợ của mục tử.  Nếu mục tử xa lià bạn, là vì bạn không cho phép mục tử biểu lộ quyền lực của mình mà thôi’’.
                 ’’Lạy Chúa Giêsu, Ngài là mục tử nhân lành và Ngài hiến thân vì chúng con, những con chiên của Ngài.  Không được soi dẫn dưới ánh sáng của Ngài, chúng con sẽ lầm đường, lạc lối.  Nhưng nếu được ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng con sẽ nhìn thấy rõ lối đi và được hướng dẫn trên nẻo đường thánh thiện và công chính.  Xin Chúa giúp chúng con luôn biết nghe theo và đáp trả lời mời gọi của Chúa.