Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Thánh Vinh Sơn Phaolô (Vincent de Paul), Linh Mục - Ngày 27 Tháng 9

Thánh Vinh Sơn Phaolô (Vincent de Paul), Linh Mục  -  Ngày 27 Tháng 9
Thánh Vincent de Paul, Sáng Lập Viên
Dòng Nữ Tử Bác Ái
Các bài đọc trích sách; 
- 1 Côrintô 1,26-31; - Thánh Vịnh 111;  Mátthêu 9,35-38.

Phục Vụ Người Nghèo - Cầu Nguyện -  
Và Các Việc Khác

Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô (Vincent de Paul):

Năm 1581, ngày 24/04, sinh tại làng quê Pouy (Landes), nước Pháp.
Năm 1600, thụ phong linh mục tại Château-L’Evêque (Dordogne).
Năm 1604, đậu cao đẳng thần học.
Năm 1608, cư trú tại Rôma.
Năm 1610, linh hướng cho nữ hoàng Margot (Margueritte de  
                   Valois) - người vợ đã ly dị của vua Henry IV - tại Paris.
Năm 1613, tư giáo cho Philippe Emmanuel de Gondi, (con trai thứ
                   ba của Albert).  Linh hướng tại trại giam giữ những
                   người nô lệ theo đạo công giáo.
Năm 1717, linh mục chính xứ tại Châtillon-les-Dombes; sáng lập
                   viên các Tổ Chức Bác Ái dành cho giới nữ.
Năm 1619, trưởng linh hướng các trại giam giữ những người nô lệ
                   theo đạo công giáo.
Năm 1925, sáng lập viên Hội Thừa Sai ‘’La Congrégation de la
                   Mission’’ với mục đích canh tân chức linh mục, cứu   
                   giúp người nghèo và truyền bá Tin Mừng toàn thể nước
                   (Pháp).
Năm 1633, cùng nữ tu Louise de Marillac thành lập Dòng Nữ Tử
                   Bác Ái.
Năm 1660, qua đời ngày 27 tháng 9 tại Saint-Lazare.
Năm 1737, được tôn phong hiển thánh.
Năm 1885, được tôn vinh là đấng bảo trợ các tác vụ bác ái
     Thánh Vincent de Paul và Dòng Nữ Tử Bác Ái:
     Vincent de Paul – sau này là thánh Vincent – thành lập một tu hội, vào năm 1633, và đặt tên là ’’Les Filles de la Charité’’, dịch sang tiếng Việt Nam là ’’Dòng Nữ Tử Bác Ái’’.

     Chữ ’’fille’’ có nghĩa, vừa là ’’con gái’’, vừa là ’’thiếu nữ’’.  Khi đặt tên cho nữ tu hội bác ái này bằng một chữ mang hai nghĩa, không phải là Vicent de Paul không có dụng ý. Vincent de Paul muốn qui tụ một số thiếu nữ thiện chí, can trường, dấn thân trợ giúp các phụ nữ thuộc giới qúi tộc trong công tác từ thiện/bác ái; đó là việc săn sóc những bệnh nhân nghèo.   Xã hội thời bấy giờ coi ’’con gái’’ như là con sen/tớ gái; nhưng thánh Vincent de Paul và Louise de Marillacs - (sinh ngày 12/08-1591 tại Paris, được các nữ tu ĐaMinh giáo huấn, thành hôn năm 1613 với viên sĩ quan Antony LeGras. Trở thành nữ tu, sau khi Antony LeGras qua đời năm 1625. Qua đời ngày 15/03-1660) - quan niệm rằng, họ là hiện thân Đức Giêsu Kitô đóng vai phục vụ, và Đức Giêsu Kitô hoá thân nơi các bệnh nhân nghèo khó.

     Người ta thường gọi cộng đoàn này là ’’Các Nữ Tu Thánh Vincent’’ hoặc ’’Các Nữ Tu Bác Ái’’ hay vắn tắ hơn là ’’Các Nữ Tu’’. 

     Tên chính thức (theo giáo luật) của tu hội là Cộng Đồng Nữ Tử Bác Ái của Thánh Vicent de Paul, Tỳ Nữ của những người nghèo khó; ngôn ngữ thông dụng là ’’Các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent de Paul’’.

     Ngày nay, khi nói tới ’’Các Nữ Tu Bác Ái’’ là người ta hiểu ngay đó là ’’Các Nữ Tu do thánh Vincent sáng lập’’.  Các Nữ Tu thánh Vincent mang trang phục mầu xám, nên được gọi là Các Nữ Tu Mầu Xám (Les Soeurs Grises).

     Bắt đầu từ năm 1685, các nữ tu thánh Vincent mặc áo Dòng mầu xám hoặc xanh, đầu đội khăn trắng-cao-cứng (la cornette). Từ đằng xa, người ta đã có thể nhìn thấy chiếc khăn cứng-to, dấu hiệu rất nổi tiếng của các nữ tu thánh Vincent, suốt chiều dọc lịch sử; mãi đến năm 1964, các nữ tu thánh Vincent mới đổi chiếc  ’’la cornette’’ thành chiếc khăn trùm nhỏ gấp lại.

     Chiến Tranh và Sứ Vụ Bác Ái.-
Chiến tranh giữa Nga, Anh và Pháp vào những năm 1853 – 1856 thực sự bùng phát tại ba cánh: Krim (bán đảo của Nga, giáp ranh biển đen), vùng biển Đông và Thái Bình Dương.  Các quốc gia tham chiến huy động và gửi các nữ tu và nữ y tá, với trang bị cận đại, đến phục vụ tại các quân y viện đặt tại hậu cứ những vùng giao tranh.

     Một số nữ ý tá Nga dẫn đầu, theo sau là một đội nữ tu bác ái, tham dự phục vụ tại khu phòng vệ Sevastopol (một thành phố biển tại Ukraine, dọc bờ biển đen).  Một số nữ tu bác ái thánh Vincent đông đảo hơn cùng với các y tá Anh, dưới sự điều động của Florence Nightinggale (một nữ thường dân quên mình vì nghĩa vụ nhân đạo), đến phục vụ tại các bệnh viện đặt tại Constantinopolis (hoặc Istanbul ngày nay). 

     Số tử vong và thiệt hại trong các trận chiến này được kể là rất cao, vì vũ khí đã được tân tiến hóa.

     Cho đến hiện nay, hầu hết các nước (tân tiến cũng như còn phát triển) trên toàn cầu, đã và đang có các cộng đoàn Bác Ái thánh Vincent de Paul hoạt động để giúp đỡ những kẻ dốt nát, bệnh tật, túng nghèo (tinh thần cũng như vật chất).    

     Là tông đồ phục vụ thành phần nghèo khó, thánh Vicent đệ Phaolô (St. Vincent de Paul) để lại cho hậu thế những lời nhắn bảo sau đây:
     ‘’Chúng ta không nên xét đoán kẻ nghèo khó qua cách ăn mặc, trang điểm, sắc diện bên ngoài, hoặc qua khả năng trí tuệ, bởi vì họ thường là những người vụng về, quê mùa.  Ngược lại, nếu nhận xét kẻ nghèo khó dưới ánh sáng niềm tin, bạn sẽ thấy họ đang thay mặt Con Thiên Chúa, chấp nhận thân phận nghèo khó. Thực vậy, trải qua cuộc thương khó, khuôn mặt Đức Giêsu không còn hình tượng người nữa; Đức Giêsu làm cho Dân Ngoại phải bẽ bàng và Dân Do Thái tủi hổ, mỗi khi Người thực hiện việc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa:  ’Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.’’  Do đó, chúng ta cần phải có cùng tâm tư và hành động như Đức Kitô đã có, là tận tình chăm sóc, giúp đỡ và bảo ban kẻ nghèo hèn.
     ‘’Đức Kitô đã chấp nhận sinh ra trong cảnh khó nghèo và chọn những người nghèo làm môn đệ; chính Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, trong những điều kiện thuận lợi hoặc nguy nan, hiểm trở, đều với ý niệm là làm cho bản thân mình, như lời Người đã nói.  Vì Thiên Chúa yêu thương kẻ nghèo, nên Đức Giêsu cũng yêu thương kẻ yêu thương người nghèo.  Nếu người nọ yêu thương người kia, thì Đức Kitô Giêsu cũng yêu thương tất cả những kẻ yêu thương và phục vụ nhau.  Do đó, chúng ta cũng ước ao được Thiên Chúa yêu thương mình, vì chúng ta quan tâm tới người nghèo, bằng cách thăm hỏi họ, gắng công gắng sức chăm nom kẻ yếu đau, bệnh tật, cùng túng.  Ngoài ra, chúng ta còn phải an ủi, chia sẻ khổ đau, buồn tủi của người khác, hầu trở nên tất cả cho mọi người, như các tông đồ thuở xưa đã cảm nhận như vậy.  Vì vậy, chúng ta phải tận tình san sẻ các nỗi đau buồn với những người lân cận, đồng thời cầu nguyện, xin Chúa ban cho chúng ta trái tim đầy lòng từ bi và nhân hậu để cố gắng giúp đỡ người nghèo khó.
     ‘’Phục vụ người nghèo là bổn phận của mỗi người và phải thực hiện liên tục, không ngừng nghỉ.  Nếu cần dùng thì giờ cùng cầu nguyện với người nghèo hay phân phát thuốc men hoặc bất cứ công tác gì khác, để giúp đỡ người nghèo, chúng ta hãy làm ngay, không chần chừ, bằng một tâm hồn thanh thỏa, dâng lên Chúa như đang thi hành việc đọc kinh, cầu nguyện vậy.  Đừng vì ép buộc hoặc miễn cưỡng mỗi khi làm việc giúp đỡ người nghèo; đừng vì muốn được khen ngợi hoặc ca tụng mỗi khi làm việc giúp đỡ người nghèo; nhưng hãy làm vì muốn tạo cơ hội cầu nguyện liên tục.  Đó là những phương thế rất hiệu nghiệm, trái lại, nếu chúng ta bỏ việc Chúa mà chú tâm làm việc khác thì chẳng được Chúa chấp nhận.
    ´´Nói tóm lại, khi chúng ta bỏ việc cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo khó trong cơn quẫn bách, được kể là chúng ta đã làm những việc ấy cho Chúa vậy.  Việc bác ái chiếm vị thế cao nhất trong các điều lệ, tức là không có việc gì hệ trọng hơn việc bác ái.  Hay nói cách khác, bác ái phải được thực hiện ưu tiên, sau đó mới đến các việc khác.  Chúng ta còn chần chờ gì mà không ra công ráng sức phục vụ người nghèo, và với nhiệt tâm sẵn có, chúng ta quan tâm tìm kiếm những cá nhân bị xã hội bỏ rơi để phục vụ, vì họ đến như những đấng cao trọng và bảo trợ chúng ta.’’