Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Thánh Nữ Đồng Trinh Rosa Thành Lima - Ngày 23 tháng 8

Thánh Nữ Đồng Trinh Rosa Thành Lima - Ngày 23 tháng 8
Các bài đọc trích sách: - Ezekiel 36,23-28;  - Thánh Vịnh 51,12-13.14-15.18-19; - Mátthêu 22,1-14


Ta Sẽ Đặt Thần Khí Mới Vào Lòng Các Ngươi


     Bài đọc hôm nay dẫn ta vào tâm điểm sứ điệp và tác vụ của Ezekiel.  Thiên Chúa biểu dương tên thánh thiện và vĩ đại của Người. Dân tộc Israel đã rời xa Người.  Các dân tộc đã xúc phạm đến quyền năng và làm ô danh Người. 

     Mặc dù thế, Thiên Chúa vẫn muốn tái lập dân Người và phục hồi thánh danh Người.  Dân Israel đang sống trong cảnh lưu đày và tuyệt vọng, nhưng Thiên Chúa không quên ban cho họ kế hoạch tái lập gồm ba điểm.

     Chương trình hành động của Thiên Chúa là muốn Israel tẩy trừ (tức là loại bỏ các thói hư tật xấu và bài bỏ ngẫu tượng), tiếp nhận một qủa tim mới, và đặt Thần Khí Thiên Chúa vào tâm trí, để họ tuân giữ giáo huấn và mệnh lệnh của Người.  Các lời hứa ấy chứng minh lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với dân Người. 

     Nghe lời tiên báo của Ezekiel, ta có thể cảm thấy rất an tâm, bởi vì ta cũng được lãnh nhận cùng một niềm hy vọng như vậy.  Giống như dân Israel, ta dễ dàng lìa bỏ Chúa và làm tổn thương thánh danh Người.  Phương thế cứu chữa Chúa dành cho ta, không khác đường lối Người ứng xử với dân riêng của Người.

     Ba bước phục hồi mà Thiên Chúa đòi dân Israel phải hoàn tất cách nay hàng nhiều ngàn năm, ta cũng vẫn có thể thực hiện được.  Bước phục hồi đầu tiên là sám hối. Nghĩa là ta nhìn nhận các sai lầm đã vấp phạm và xin ơn tha thứ để được thanh sạch.  Giáo Hội ban ân sủng cho ta qua Bí Tích Hoà Giải, nhưng ta phải biết khiêm tốn xin ơn tha thứ vì các lỗi lầm đã vấp phạm.

     Nhờ ân sủng qua Bí Tích Rửa tội, ta đã nhận được một qủa tim mới, nhưng dễ dàng trở nên chai đá và ương ngạnh khi tiếp cận với Chúa và tha nhân.  Thiên Chúa muốn ta có một qủa tim của Người, hầu ta có thể nhìn đời với quan điểm của Người, chứ không theo quan điểm của ta.  Tiếng Hebrew, qủa tim là lev, là tư tưởng sâu kín phát xuất từ tận đáy cảm nghĩ của ta.   Qủa tim của Chúa thì ấm áp và quảng đại! 

     Nhờ ân sủng qua Bí Tích Thêm Sức, ta trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.  Ân sủng Thánh Thần ban thêm sức mạnh để ta sống một cuộc đời trong Thần Khí.

     Hôm nay, ngày kính nhớ thánh nữ đồng trinh Rôsa Lima, một người suốt cuộc đời ước muốn sống trong Thần Linh Chúa và khuyến khích mọi người phản ảnh đường lối của mình.

     Sau đây, chúng ta cùng lược qua tiểu sử thánh nữ Rôsa Lima.         
     Thánh Rôsa thành Lima là vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ La-tinh.
     Thánh nữ sinh ngày 20-04-1586, qua đời ngày 25-08-1617.
     Thánh nữ được Đức Thánh Cha Clement IX tôn phong Á thánh ngày 15-04-1667 (hoặc 1668) tại Rôma, và Đức Thánh Cha Clement X phong hiển thánh ngày 12/04-1671.  Lễ kính nhớ thánh nữ Rosa vào ngày 23 tháng 8 hằng năm.

     Thánh nữ Rôsa Lima mang nhiều danh hiệu khác nhau:  Vòng hoa, chiếc neo, Chúa Hài Đồng Giêsu, Bông Hồng (Hoa Mân Côi), Hội viên Dòng Ba Đa Minh cầm Bó hoa Mân Côi, Hội viên Dòng Ba Đa Minh được Chúa Hài Đồng đồng hành.
 
Thánh Nữ Đồng Trinh Rosa thành Lima

     Các quốc gia, đoàn thể, hiệp hội, cá nhân sau đây nhận thánh nữ Rôsa Lima làm bổn mạng:  Ấn độ, Châu Mỹ La Tinh (đặc biệt tại Pêru); Phi Luật Tân, thị trấn Santa Rosa tại California (Hoa Kỳ); các nhà thêu thùa, may vá; những người trồng hay bán hoa; những kẻ bị miệt thị vì lòng hiếu thảo, và nhiều cá nhân khác trên toàn cầu. 

     Thánh nữ đồng trinh Rôsa Lima sinh tại thủ đô Lima, nước Pêru, trong một gia đình đông con. Cô được đặt tên là Isabel Flores de Oliva vào ngày chịu phép Rửa tội. Thân phụ cô tên là Gasper de Flores, một binh sĩ Tây Ban Nha, và thân mẫu tên là Maria d’Oliva, một người mang dòng máu Mọi Da Đỏ.

     Khi được 3 tháng tuổi, và đang lúc cô nằm trong chiếc nôi giữa sự quây quần của thân mẫu và nhiều phụ nữ khác, bất chợt một bông hồng xinh đẹp xuất hiện trong không gian, và nhẹ nhàng chạm vào mặt cô, rồi biến mất;  vì thế, kể từ ngày ấy, thân mẫu gọi cô là Rôsa (nghĩa là Hoa Mân Côi). 

     Rôsa là cô bé bệnh tật, nhưng càng lớn, cô càng khỏe mạnh và xinh đẹp.  Sinh ra trong một gia đình nghèo, nên cha mẹ cô ước mong, khi khôn lớn, với sắc đẹp kiều diễm và hấp dẫn, cô sẽ kết hôn với một thanh niên giầu có để giúp đỡ gia đình.  Tuy nhiên, ngay từ khi còn rất trẻ, cô đã dành nhiều thì giờ vào những sinh hoạt tôn giáo, ít quan tâm tới thế tục.

     Cô đã giúp các bệnh nhân và những kẻ túng nghèo xa gần trong cộng đồng.  Cô thường đem họ về nhà để trông nom và săn sóc.  Cô may vá, thêu thùa và trồng tỉa để có các vật dụng cụ thể, và hái những bông hoa xinh đẹp, rồi mang ra chợ bán phụ giúp kinh tế gia đình.

Thánh Nữ Đồng Trinh Rosa thành Lima

   Cô chính thức lấy tên là Rôsa, kể từ ngày chịu phép Thêm Sức vào năm 1597.  Rôsa rước Thánh Thể mỗi ngày.  Lúc 20 tuổi, Rôsa được phép mang áo Dòng Ba Đa Minh (dành cho nữ giới) và khấn hứa giữ mình trọn đời đồng trinh.  

     Ngay từ thuở thiếu thời, Rôsa đã tỏ ra là người đạo đức, và thường dùng nhiều thì giờ chiêm ngắm hình ảnh Đức Mẹ Maria và Đức Giêsu hài đồng.  Rôsa đã tận hiến đời mình trong cầu nguyện và hành xác.  Bách Khoa Toàn Thư Công Giáo nhận định rằng:  ‘’Rosa là người rất vâng lời và chăm chỉ, mau tiến bộ nhờ đặc biệt quan tâm tới các mệnh lệnh của cha mẹ, tới việc học hành và gia chánh, nhất là việc may vá, thêu thùa´´.

     Noi gương các nhân đức của thánh nữ Catarina thành Sienna, Rôsa ăn chay và hãm mình nghiêm ngặt mỗi tuần ba lần.  Một ngày kia, mẹ của Rôsa kết một vòng hoa và đội lên đầu con mình để biểu dương với bạn hữu về sắc đẹp lộng lẫy và mỹ miều của cô.  

     Vì biết có người nhìn mình một cách say mê, và khen ngợi, Rôsa liền cắt tóc để đầu trọc; và làm cho mình trở nên xấu xí, bằng cách lấy ớt xoa lên mặt cho đến khi da dẻ sần sùi và đỏ cháy, hầu tránh làm dịp tội cho kẻ khác.  Ngoài ra, Rôsa còn luồn thêm một lớp kẽm gai nhọn dưới vòng hoa do mẹ đã làm và liên tục đội lên đầu để hành xác. 

     Rôsa không muốn bất cứ ai khen ngợi mình, bởi vì Rôsa đã dâng hiến trái tim cho Đức Kitô Giêsu.  Rôsa yêu mến Đức Giêsu đến nỗi mỗi khi nhắc đến Người gương mặt cô sáng chói và cặp mắt long lanh.

     Rôsa đã từng bị ma qủi cám dỗ, đặc biệt là những khi cô cảm thấy vô cùng lẻ loi, buồn phiền và đau khổ, vì dường như Chúa ở cách xa cô qúa.  Tuy nhiên, Rôsa vẫn vui mừng dâng lên Chúa tất cả những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống.

     Rôsa dành nhiều thì giờ suy gẫm về mầu nhiệm Thánh Thể mà cô lãnh nhận hằng ngày.  Rôsa quyết định khấn giữ trinh tiết để phản đối việc cha mẹ buộc cô phải lập gia đình, mặc dù cô đã vâng lời cha mẹ trong mọi sự. 

     Rôsa kể nhiều về các thị kiến và những âm thanh vô cùng khủng khiếp và rùng rợn mà Chúa đã tỏ lộ cho cô biết.  Chính vì thế, Rôsa đã dồn hết tâm lực vào việc chay tịnh và hãm mình, cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và những kẻ tội lỗi ăn năn, thống hối.

     Nhịn ăn mỗi ngày đã biến Rôsa trở thành người ăn chay trường.  Các công tác bác ái và những bận rộn như may vá, thêu thùa để kiếm tiền giúp đỡ gia đình đã chiếm trọn cuộc sống hằng ngày của Rôsa; thì giờ còn lại trong đêm khuya là để cầu nguyện và hãm mình tại một căn hầm do cô tự xếp đặt, hầu đào luyện mình in như một vị ẩn tu và suy ngẫm phép Thánh Thể.

     Linh đạo Dòng ĐaMinh có sức lôi cuốn Rôsa rất mạnh, và chính vì lý do đó, vào năm 1602, Rôsa đã được phép gia nhập tu viện Dòng ĐaMinh mà không phải nộp lệ phí.  ‘’Kể từ đó, cuộc sống của Rôsa lại có thêm nhiều hình thức tự phạt mình thật khắc nghiệt, không khác một vị anh hùng khổ tu, đầu luôn đội một vòng kẽm gai nhọn nằm kín dưới hoa mân côi, và ngang lưng thắt một sợi dây xích bằng sắt.  Nhiều ngày không ăn; khát qúa, Rôsa pha một hai giọt nước với mật thú và thảo mộc đắng mà uống.  Khi không còn chịu thêm được nữa, Rôsa tìm sự nghỉ ngơi trên một chiếc giường, do chính cô làm với những vật liệu hỗn tạp như mảnh đá, mảnh kính, mảnh bình hoa vỡ và gai nhọn.  Rôsa ước ao được nằm trên chiếc giường, mà mỗi lần nghĩ tới, cô cảm thấy vô cùng run sợ.’’

     Suốt 14 năm không ngừng tự hành xác, và trong những ngày dài bệnh tật, đau đớn thể xác cũng như tâm hồn, người anh hùng trẻ tuổi Rôsa Lima thường cầu nguyện:  ‘’Lạy Chúa, xin gia tăng đau khổ cho con, và nhờ đó con thêm lòng yêu mến Chúa hơn.’’ 

     Rôsa Lima qua đời lúc 31 tuổi.  Sau khi chết, người ta không thể mai táng Rôsa ngay vào những ngày kế tiếp được, vì dân chúng thủ đô Lima chen lấn nhau đến chiêm ngưỡng thi hài cô.  Rôsa được an táng tại nghĩa trang Tu Viện Dòng ĐaMinh. 

     Nhận thấy Rôsa đã làm nhiều phép lạ cho những người tin và cầu khẩn Người, Giáo Hội cho phép đưa di hài Rôsa tới đặt tại một nhà nguyện riêng trong thánh đường San Domingo tại thủ đô Lima (Pêru).

     Rôsa là sáng lập viên công tác xã hội tại Pêru.
    Rôsa được phong thánh với tước hiệu Santa Rosa de Lima, và là vị thánh tiên khởi thuộc phía tây bán cầu.  Tất cả những nơi mang tên thánh Santa Rosa tại Tân Thế Giới đều tỏ lòng tôn sùng vị thánh này.  Đức Giáo Hoàng Bêneđictô XVI có lòng tôn kính thánh Rôsa cách đặc biệt. 

     Trước kia, lễ kính thánh Rôsa Lima được tổ chức ngày 30 tháng 8 hằng năm, nhưng sau này lễ kính diễn ra vào ngày 23 tháng 8.  Lễ kính thánh nữ Rôsa là một ngày hội lớn tại thủ đô Lima, và toàn thể dân chúng nước Pêru đều được nghỉ việc.


Kinh Thánh Rôsa.-
     Lạy ơn bà thánh Rôsa là Hoa Mân Côi rất tốt,/ hay xông ra mùi các nhân đức rất thơm tho,/ cho khắp mọi người chúng con./
     Chúng con xin bà thánh Rosa cầu cho chúng con/ đáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa./
     Lạy ơn Đức Chúa Trời có phép vô cùng,/ đã ban ơn cho bà thánh Rôsa nên tốt lành,/ về Đức Đồng Trinh,/ và Đức Nhịn Nhục cho chúng con được soi,/ thì chúng con xin Đức Chúa Trời ban cho chúng con,/ được lòng kính mến và bắt chước Người,/ cho đáng Đức Chúa Trời thương đến chúng con,/ vì Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con./ Amen.

*

Kính chúc lễ mừng thánh bổn mạng Sr. Cát Phương,
(nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vicent de Paul, Úc châu).

Luca Vũ Hùng Minh biên soạn

  


    



     




                                    



  




    

  
  
  
    

     

Đức Maria, Trinh Nữ Vương - Ngày 22 tháng 8

  • Các bài đọc trích sách:
  • - Êdêkiel 34,1-11;
  • - Thánh Vịnh 22 (23);
  • - Luca 1,26-38  

Một Người Con Đã Ban Tặng Cho Ta


     Một ngôn sứ chính trực thường phải nói lên lời đối nghịch với thành phần có thế lực. Kẻ có thế lực hay lạm dụng địa vị và uy quyền; và vì bản tính tự nhiên xấu xa của con người, nên ta không ngại dùng thế lực để làm lợi cho bản thân và gia đình.

     Sự kiện này cũng rất thường xảy ra trong giới lãnh đạo tôn giáo.  Ezekiel trực tiếp chỉ trích các nhà tôn giáo thời bấy giờ đã xử dụng quyền lực để làm giầu và củng cố địa vị của mình.  Mặc dù được ủy thác là người chăn chiên, nhưng họ lại không chăm sóc đàn chiên của mình, hầu tìm cách giúp đỡ những con chiên gặp hoạn nạn, họ nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của con chiên.  Khi bị tan đàn rẽ lối, chiên cần sự hướng dẫn và bảo vệ, nhưng kẻ chăn chiên tảng lờ, mặc dù biết là chiên khó tránh khỏi ác thú.

     May thay!  Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên đàn chiên của mình, ngay cả khi chủ chiên trần thế sao lãng, làm ngơ.  Lòng thương xót của Chúa vô tận, không gì có thể so sánh được.  Chúa giữ trọn lời hứa, sẽ là Đấng chăn chiên tốt lành, tận tâm tìm kiếm những chiên bị lạc, chưa qui về một mối, và băng bó các vết thương cho họ.
 
     Là những người Kitô hữu, ta biết rõ, lời Chúa hứa đã được kiện toàn qua Đức Giêsu Kitô.  Đức Giêsu xác nhận Người là Đấng chăn chiên lành, trái ngược với kẻ chăn chiên độc ác không bào giờ quan tâm tới đàn chiên của mình (Gioan 10).

     Kẻ chăn chiên độc ác mà Ezekiel quở trách ở đây là hạng chỉ biết lợi dụng danh nghĩa, chức vụ để hưởng lợi và ăn trên ngồi tróc, khi thấy đàn chiên lâm cảnh khó khăn, gian khổ thì lẩn tránh.  Đối kháng hành vi, cử chỉ và thái độ của kẻ chăn chiên độc ác, Đức Giêsu kể dụ ngôn về người chăn chiên tốt lành, sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên một nơi để tìm kiếm con chiên bị thất lạc, bởi vì ông thực tâm lo lắng cho số phận của từng con chiên.

     Đức Giêsu còn hành động xa hơn thế nữa, bằng cách tự hy sinh mạng sống chỉ vì yêu thương đàn chiên của mình.  ‘’Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.  Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.  Tôi chính là Mục Tử nhân lành.  Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’’ (Gioan 10,12-15).  Ta phải lấy làm vui mừng vì có một Đấng Chăn Chiên yêu thương mỗi người trong chúng ta đến nỗi đã chết để cứu chuộc chúng ta.

     Lạy Chúa, Ngài là Đấng Chăn Chiên Lành; Ngài đã hiến mạng sống vì đàn chiên của mình.  Xin Ngài cho con cùng đến với Ngài để bước theo Ngài, hầu được Ngài an ủi và cứu vớt, đồng thời dẫn chúng con tới những cánh đồng cỏ xanh là sự sống đời đời.

     Israel đã sản xuất được khá nhiều phụ nữ thánh thiện, những người chị tràn đầy lòng tin của chúng ta.   Bà Ruth, bà Naomi và Đức Maria là chứng nhân tình yêu, dành cho Chúa và đối với tha nhân. 

     Hôm nay, ta được mời gọi tiến sâu vào nội dung bài đọc trích từ Kinh Thánh, để suy niệm về Đức Maria, Nữ Vương Thiên Đàng, mà Giáo Hội dành riêng để kính nhớ vào ngày 22 tháng 8 hằng năm.

Đức Maria, Trinh Nữ Vương 

     Năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập Lễ Đức Maria Nữ Vương (Thiên Đàng) và ban hành tín điều, buộc người Kitô hữu công giáo phải tin rằng, sau khi về trời, Đức Maria được tôn vinh là Nữ Vương Thiên Đàng.

     Thánh Anđrê thành Crete (chết khoảng năm 740) dạy, việc Đức Maria, Nữ Vương - có nguồn gốc từ Thánh Vịnh, chương 45, câu 10: ‘’bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ophia lộng lẫy.’’   Ba nhà thần học vĩ đại của Giáo Hội, Bernard thành Clairvaux, Bônaventura và John Henry Newman đã từng suy niệm về vai trò Nữ Vương của Đức Maria.  Rút từ cảm hứng ấy, hy vọng chúng ta cũng có thể dành thì giờ để chiêm niệm cách sâu xa về địa vị của Đức Maria trong lịch sử cứu chuộc.

     Bernard thành Clairvaux nói:  ‘’Dưới đất cũng như trên trời, không ai có ơn phúc tràn dư hơn Đức Maria.  Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người (1 Cor. 2,9). Đấng ấy có thể tỏ lộ để thế gian biết Người đã chuẩn bị cho người phụ nữ, đã có công đem Người vào trong thế gian và yêu mến Người trên tất cả mọi sự.’’

     Bonaventua viết:  ‘’ Đức Maria là người có phúc hơn các trinh nữ, các đấng giải tội, các đấng tử đạo, các tông đồ, các tiên tri, các tổ phụ, và các thiên thần, bởi vì Mẹ là hoa qủa đầu mùa của các trinh nữ, là tấm gương sáng cho các đấng giải tội, là hoa mân côi của các đấng tử đạo, là đấng cai quản các tông đồ, là lời sấm của các tiên tri, là ái nữ của các tổ phụ, là nữ vương các thiên thần.’’

     Đức Hồng Y John Henry nói:  ‘’Không ai có Quyền Năng hơn Mẹ Người, không ai có công trạng hơn Mẹ. Con Mẹ không từ chối Mẹ bất cứ điều gì Mẹ xin; và vì uy quyền nằm ở nơi ấy.  Mẹ bảo vệ Giáo Hội, nên dù trên cao hay dưới thấp, nam giới hay các tà thần, vương quyền hoặc qủy kế hay sự dữ, cũng không ám hại được chúng ta; đời sống con người ngắn ngủi, nhưng Đức Maria thống trị ở trên cao, một Nữ Hoàng vĩnh cửu’’