Thứ Hai Sau Chúa
Nhật 12 Thường Niên - Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách:
- Sáng Thế 12,1-9;
- Thánh Vịnh 33,12-13.18-10.22; - Mátthêu 7,1-5
Một số giới trẻ ngày nay có thói
quen đeo chiếc vòng tay khắc hàng chữ tất ’’WWJD’’,
nghĩa là ’’What Would Jesus Do? - Đức
Giêsu đã ứng xử ra sao?’’. Hàng chữ này
là hành động, là lời hướng dẫn luân lý trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc đời.
Thực tế, hàng chữ này cần đổi
thành câu hỏi: What Would We Do? Nếu Thiên Chúa cũng kêu gọi chúng ta như Người
đã kêu gọi Abram (mà sau này đổi thành Abraham), được mô tả trong bài đọc hôm
nay, thì chúng ta sẽ ứng xử ra sao?
Trước tiên, chúng ta cần biết,
lúc Thiên Chúa ngỏ lời với Abram thì ông đã 75 tuổi. Bạn nghĩ sao, nếu Thiên Chúa nói với bạn
trong lúc bạn đã 75 tuổi rằng bạn hãy thu dọn tất cả mọi thứ thuộc về mình, rồi
rời bỏ quê hương, lên đường đến một miền đất mà từ trước tới nay bạn chưa từng
nghe biết, và nơi đó bao gồm những cư dân lòng tràn đầy thù nghịch?
Một số tổ phụ và tiên tri lớn đã
tỏ ra nghi ngại khi nghe tiếng Thiên Chúa kêu gọi; điển hình là Môsê (Xuất Hành
3,11) và Giêrêmia (Giêrêmia 1,6). Cả hai
vị đều cảm thấy nghi ngờ khả năng của mình, khi được trao phó các tác vụ thánh. Trái lại, Abram không tỏ lộ một chút ngần ngại,
lo sợ hoặc áy náy trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ biết rằng: ’’Ông
Abram ra đi, như Thiên Chúa đã phán bảo ông.’’ (Sách Sáng Thế 12,4).
Đây là một trong các thí dụ tiêu
biểu nhất trong Kinh Thánh Cựu Ước, nói lên thái độ tuyệt đối vâng lời. Abram được mời gọi thi hành thánh ý Thiên Chúa;
ông hoàn toàn tin vào tình thương và lòng nhân lành của Thiên Chúa, vì thế, cuộc
sống của ông đã thay đổi trọn vẹn theo lệnh truyền của Thiên Chúa.
Đoạn sách hôm nay cũng nói lên
việc ông được tưởng thưởng tối đa, vì đã tin tưởng và tuân hành ý Chúa. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn,
như Kinh Thánh đã chép: ’’Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và làm cho tên
tuổi ngươi được lẫy lừng, nhờ đó ngươi sẽ là một mối phúc lành.’’ (Sách Sáng
Thế 12,2). Chúng ta thấy Thiên Chúa đã
thực hiện đúng lời đã hứa với Abram, vì ngay khi ông đến đất Canaan, Thiên Chúa
liền nó với ông rằng đất này thuộc về con cháu ông.
Đoạn Kinh Thánh này có một giá
trị trọng đại, liên quan tới lịch sử cũng như cuộc sống hằng ngày của nhân loại. Lời mời gọi Abram, niềm tin tuyệt đối của ông
và giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và ông
đã trở thành nền tảng cốt yếu trong việc thiết lập xứ Giuđêa.
Và hồi giáo cũng coi Ibrahim (Abram)
như một người cha đáng kính. Bối cảnh lịch
sử này cũng được nhắc tới nhiều lần trong Cựu Ước, và đặc biệt tại một vài trường
hợp trong Tân Ước, như bài diễn văn của Stêphanô trước Thượng Hội Đồng (Công Vụ
Tông Đồ, 7) và thư của Phaolô gửi tín hữu Rôma.
Thánh Phaolô cho những người tín
hữu Kitô giáo biết một số điểm chính yếu liên quan tới cuộc đời của Abraham, một
mẫu người khiến chúng ta cần noi theo, không vì các việc cả thể ông đã làm, nhưng
chính vì lòng tin của ông. ’’Ông Abraham
đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính’’ (Rôma 4,3; Sách Sáng
Thế 15,6).
Có thể Thiên Chúa chẳng kêu gọi
chúng ta rời bỏ nơi chôn nahu cắt rốn, để đến một xứ xa lạ. Tuy nhiên, Abraham có thể là một gương sống
tiêu biểu cho chúng ta noi theo. Thiên
Chúa hằng kêu gọi chúng ta thực hiện ý Người và bước theo lời mời gọi của Người
– hôm nay và từng ngày. Như Abraham, người
cha của lòng tin, chúng ta cũng có thể đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, bằng
hai tiếng ngắn gọn: ’’Xin Vâng.’’
’’Lạy Chúa, xin ban cho con lòng
tin để con đi theo Chúa đến cứ nơi nào Chúa muốn. Amen.’’
Tin Mừng Năm Lẻ &Năm Chẵn - Mátthêu 7,1-5
Tin Mừng Năm Lẻ &Năm Chẵn - Mátthêu 7,1-5
Đức Giêsu nói: ’’Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán’’ (Mátthêu
7,1). Thế mà, mỗi người trong chúng ta, đã
nhiều lần đoán già, đoán non, từ những việc xảy ra hằng ngày, đến cá nhân nọ, cá
nhân kia; và cuối cùng đưa các nhận xét và phán đoán theo quan điểm riêng của mình.
Chẳng hạn như trước khi ra đường mà thấy bầu trời có mây
màu xám, với nhiều đe dọa, chúng ta thường đem áo mưa hoặc dù theo, vì đoán chừng
trời sẽ mưa. Phụ huynh khuyên dạy con cháu
chớ nói chuyện với người lạ, vì có thể dẫn tới hậu qủa đáng tiếc. Chúng ta cho rằng việc xét đoán như thế được
kể là hợp tình, hợp lý.
Cũng vậy, Đức Giêsu khuyên chúng ta nên sáng suốt và
khéo léo chuẩn đoán các hành vi, cử chỉ của người khác. ’’Anh em
hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên
trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ
sinh hoa qủa nào, thì biết họ là ai?’’ (Mátthêu 7,15-17). Thế rồi, Đức Giêsu bảo chúng ta nên làm gì,
khi Người nói, đừng xét đoán?
Xét đoán mà Đức Giêsu đề cập tới ở đây ám chỉ những người có
khuynh hướng tự cho mình tốt lành hơn kẻ khác, chứ chẳng vì yêu thương tha nhân. Lao động khổ nhọc như Đức Giêsu nơi xưởng mộc,
là một bước đầu tiên giúp chúng ta xa tránh việc xét đoán vô bổ hằng ngày.
Vì mù loà, nên chúng ta thường không nhìn thấy rõ trái
tim mình, nhưng lại tỏ ra thông thạo các vấn đề người khác; mà thực sự, chỉ Chúa
mới có quyền xét xử mỗi người và mọi người.
Đức Giêsu tiếp tục cho biết, chỉ khi nào chúng ta thừa nhận các sai lầm
và yếu đuối của mình, và để Người lấy cái đà ra khỏi cặp mắt chúng ta, thì lúc
bấy giờ chúng ta mới nhìn rõ hơn nơi tha nhân.
Lý do thứ hai khiến chúng ta hay xét đoán việc người
khác là vì chúng ta không quan tâm tới các lỗi lầm của chính mình, cũng như lòng
thương xót vô biên Chúa dành cho chúng ta.
Đức Giêsu khuyên chúng ta nên có lòng từ bi và tỏ ra khiêm tốn trong các
mối quan hệ với mọi người. Điều này chỉ
có được là nhờ lòng thương xót mà chúng ta nhận được từ Chúa thánh Thần.
Khi nói, anh em
xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị xét đoán như vậy (Mátthêu 7,2), có
lẽ Đức Giêsu muốn cho biết cách đơn giản là, nếu chúng ta đối xử với tha nhân cách
khắc nghiệt, thì chúng ta cũng sẽ bị họ đối xử với chúng ta như vậy. Nếu không tỏ lòng thương xót tha nhân, thì
khi gặp mặt Đức Giêsu vào ngày sau hết, sẽ bị Người đối xử với chúng ta cách thậm
tệ hơn nữa.
’’Lạy Chúa, xin thương xót con, theo lượng từ bi của
Chúa. Xin tẩy sạch mọi gian ý từ nơi
con, và xóa bỏ tội lỗi của con! (Thánh
Vịnh 51,1-2).