Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 12,1-9; - Thánh Vịnh 33,12-13.18-10.22; - Mátthêu 7,1-5

 

Abraham Ra Đi Như Đức Chúa Đã phán
 
                 Một số giới trẻ ngày nay có thói quen đeo chiếc vòng tay khắc hàng chữ tất ’’WWJD’’, nghĩa là ’’What Would Jesus Do? - Đức Giêsu đã ứng xử ra sao?’’.  Hàng chữ này là hành động, là lời hướng dẫn luân lý trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc đời.

                 Thực tế, hàng chữ này cần đổi thành câu hỏi: What Would We Do?  Nếu Thiên Chúa cũng kêu gọi chúng ta như Người đã kêu gọi Abram (mà sau này đổi thành Abraham), được mô tả trong bài đọc hôm nay, thì chúng ta sẽ ứng xử ra sao?

                 Trước tiên, chúng ta cần biết, lúc Thiên Chúa ngỏ lời với Abram thì ông đã 75 tuổi.  Bạn nghĩ sao, nếu Thiên Chúa nói với bạn trong lúc bạn đã 75 tuổi rằng bạn hãy thu dọn tất cả mọi thứ thuộc về mình, rồi rời bỏ quê hương, lên đường đến một miền đất mà từ trước tới nay bạn chưa từng nghe biết, và nơi đó bao gồm những cư dân lòng tràn đầy thù nghịch?

                 Một số tổ phụ và tiên tri lớn đã tỏ ra nghi ngại khi nghe tiếng Thiên Chúa kêu gọi; điển hình là Môsê (Xuất Hành 3,11) và Giêrêmia (Giêrêmia 1,6).  Cả hai vị đều cảm thấy nghi ngờ khả năng của mình, khi được trao phó các tác vụ thánh.  Trái lại, Abram không tỏ lộ một chút ngần ngại, lo sợ hoặc áy náy trước lời mời gọi của Thiên Chúa.  Chúng ta chỉ biết rằng:  ’’Ông Abram ra đi, như Thiên Chúa đã phán bảo ông.’’ (Sách Sáng Thế 12,4).

                 Đây là một trong các thí dụ tiêu biểu nhất trong Kinh Thánh Cựu Ước, nói lên thái độ tuyệt đối vâng lời.  Abram được mời gọi thi hành thánh ý Thiên Chúa; ông hoàn toàn tin vào tình thương và lòng nhân lành của Thiên Chúa, vì thế, cuộc sống của ông đã thay đổi trọn vẹn theo lệnh truyền của Thiên Chúa.

                 Đoạn sách hôm nay cũng nói lên việc ông được tưởng thưởng tối đa, vì đã tin tưởng và tuân hành ý Chúa.  Thiên Chúa hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn, như Kinh Thánh đã chép:  ’’Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và làm cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, nhờ đó ngươi sẽ là một mối phúc lành.’’ (Sách Sáng Thế 12,2).  Chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện đúng lời đã hứa với Abram, vì ngay khi ông đến đất Canaan, Thiên Chúa liền nó với ông rằng đất này thuộc về con cháu ông.

                 Đoạn Kinh Thánh này có một giá trị trọng đại, liên quan tới lịch sử cũng như cuộc sống hằng ngày của nhân loại.  Lời mời gọi Abram, niềm tin tuyệt đối của ông và giao ước ký kết giữa  Thiên Chúa và ông đã trở thành nền tảng cốt yếu trong việc thiết lập xứ Giuđêa.

                 Và hồi giáo cũng coi Ibrahim (Abram) như một người cha đáng kính.  Bối cảnh lịch sử này cũng được nhắc tới nhiều lần trong Cựu Ước, và đặc biệt tại một vài trường hợp trong Tân Ước, như bài diễn văn của Stêphanô trước Thượng Hội Đồng (Công Vụ Tông Đồ, 7) và thư của Phaolô gửi tín hữu Rôma.

                 Thánh Phaolô cho những người tín hữu Kitô giáo biết một số điểm chính yếu liên quan tới cuộc đời của Abraham, một mẫu người khiến chúng ta cần noi theo, không vì các việc cả thể ông đã làm, nhưng chính vì lòng tin của ông.  ’’Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính’’ (Rôma 4,3; Sách Sáng Thế 15,6).

                 Có thể Thiên Chúa chẳng kêu gọi chúng ta rời bỏ nơi chôn nahu cắt rốn, để đến một xứ xa lạ.  Tuy nhiên, Abraham có thể là một gương sống tiêu biểu cho chúng ta noi theo.  Thiên Chúa hằng kêu gọi chúng ta thực hiện ý Người và bước theo lời mời gọi của Người – hôm nay và từng ngày.  Như Abraham, người cha của lòng tin, chúng ta cũng có thể đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, bằng hai tiếng ngắn gọn:  ’’Xin Vâng.’’      

                 ’’Lạy Chúa, xin ban cho con lòng tin để con đi theo Chúa đến cứ nơi nào Chúa muốn.  Amen.’’


Tin Mừng Năm Lẻ &Năm Chẵn -  Mátthêu 7,1-5




 
Đức Giêsu nói:  ’’Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán’’ (Mátthêu 7,1).  Thế mà, mỗi người trong chúng ta, đã nhiều lần đoán già, đoán non, từ những việc xảy ra hằng ngày, đến cá nhân nọ, cá nhân kia; và cuối cùng đưa các nhận xét và phán đoán theo quan điểm riêng của mình.

Chẳng hạn như trước khi ra đường mà thấy bầu trời có mây màu xám, với nhiều đe dọa, chúng ta thường đem áo mưa hoặc dù theo, vì đoán chừng trời sẽ mưa.  Phụ huynh khuyên dạy con cháu chớ nói chuyện với người lạ, vì có thể dẫn tới hậu qủa đáng tiếc.  Chúng ta cho rằng việc xét đoán như thế được kể là hợp tình, hợp lý.

Cũng vậy, Đức Giêsu khuyên chúng ta nên sáng suốt và khéo léo chuẩn đoán các hành vi, cử chỉ của người khác.  ’’Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi.  Cứ xem họ sinh hoa qủa nào, thì biết họ là ai?’’ (Mátthêu 7,15-17).  Thế rồi, Đức Giêsu bảo chúng ta nên làm gì, khi Người nói, đừng xét đoán?  

Xét đoán mà Đức Giêsu đề cập tới ở đây ám chỉ những người có khuynh hướng tự cho mình tốt lành hơn kẻ khác, chứ chẳng vì yêu thương tha nhân.  Lao động khổ nhọc như Đức Giêsu nơi xưởng mộc, là một bước đầu tiên giúp chúng ta xa tránh việc xét đoán vô bổ hằng ngày.

Vì mù loà, nên chúng ta thường không nhìn thấy rõ trái tim mình, nhưng lại tỏ ra thông thạo các vấn đề người khác; mà thực sự, chỉ Chúa mới có quyền xét xử mỗi người và mọi người.  Đức Giêsu tiếp tục cho biết, chỉ khi nào chúng ta thừa nhận các sai lầm và yếu đuối của mình, và để Người lấy cái đà ra khỏi cặp mắt chúng ta, thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhìn rõ hơn nơi tha nhân.

Lý do thứ hai khiến chúng ta hay xét đoán việc người khác là vì chúng ta không quan tâm tới các lỗi lầm của chính mình, cũng như lòng thương xót vô biên Chúa dành cho chúng ta.  Đức Giêsu khuyên chúng ta nên có lòng từ bi và tỏ ra khiêm tốn trong các mối quan hệ với mọi người.  Điều này chỉ có được là nhờ lòng thương xót mà chúng ta nhận được từ Chúa thánh Thần.

Khi nói, anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị xét đoán như vậy (Mátthêu 7,2), có lẽ Đức Giêsu muốn cho biết cách đơn giản là, nếu chúng ta đối xử với tha nhân cách khắc nghiệt, thì chúng ta cũng sẽ bị họ đối xử với chúng ta như vậy.  Nếu không tỏ lòng thương xót tha nhân, thì khi gặp mặt Đức Giêsu vào ngày sau hết, sẽ bị Người đối xử với chúng ta cách thậm tệ hơn nữa.

’’Lạy Chúa, xin thương xót con, theo lượng từ bi của Chúa.  Xin tẩy sạch mọi gian ý từ nơi con, và xóa bỏ tội lỗi của con! (Thánh Vịnh 51,1-2).  

Chúa Nhật 12 Thường Niên - Năm B

Chúa Nhật 12 Thường Niên  -  Năm B
Các bài đọc trích sách: -Sách Gióp 38,1.8-11; - Thánh Vịnh 107, 23-31;
- 1 Cotintô 5,14-17; - Máccô 4,35-41
 
Bài Đọc 1:  Sách Gióp 38,1.8-11  -  Hãy Tạ Ơn
                                                         Chúa Nhân Từ
 

Bài Đóc 2:  1 Côrintô 5,14-17  - Cái Cũ Đã Qua,
                                                     Cái Mới Đã Có Rồi

Tin Mừng:  Máccô 4,35-41 -       Sao Nhát Thế? 
                                                     Vẫn Chưa Có Lòng Tin Sao?

              Sóng gió dữ dội thường bất chợt nổi dậy tại biển hồ Galilê.  Hồ nằm thấp hơn mặt nước biển, với các đồi cao bao quanh.  Thời tiết hay thay đổi, khiến nước lúc phẳng lặng, lúc nổi sóng mãnh liệt.  Khi mưa to gió lớn, ngư dân có thể bị nhận chìm theo giòng nước. 
Giữa cảnh cuồng phong, các môn đệ tỏ ra lo lắng, sợ hãi, trong khi Đức Giêsu vẫn ở đằng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ!  Thuyền gần chìm.  Hoảng sợ và hỗn loạn diễn ra trên tầu, còn Đức Giêsu thì ngủ ngon lành.  Điên loạn vì sợ hãi, các môn đệ kêu to:  ’’Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?’’ (Máccô 4,38).
Chúng ta dễ thông cảm với các môn đệ, vì cuộc sống của chúng ta cũng thường bị chao đảo bởi những làn nước hỗn loạn trần tục gây nên.  Nhiều khi chúng ta cảm thấy như đang bị chìm đắm dưới các tình huống và hoàn cảnh éo le buông xuống.
Sợ hãi, âu lo và buồn phiền giăng mắc như các mạng lưới, đến nỗi chúng ta không còn có thể nhìn thấy một tia hy vọng hay một chút ánh sáng xuất hiện ở phía đằng trước…  Đáp lời kêu cầu của các môn đệ, Đức Giêsu lớn tiếng ngăm đe bão tố:  ’’Im đi!  Câm đi.’’ (Máccô 4,39).
Chúa Thánh Thần cũng an ủi và vỗ về chúng ta bằng những lời quyền răn như thế, để ngăm đe sóng gió, xuất phát từ nội tâm mỗi người.  Quyền lực vô hình đã làm những làn sóng tàn bạo tại biển hồ Galilê phải yên lặng, thì cũng chính quyền lực ấy có thể làm bão tố gây xáo trộn tâm trí chúng ta phải yên lặng vậy.
Việc làm phi thường, để chứng tỏ uy quyền của Đức Giêsu, đã làm cho các môn đệ sửng sốt, nói với nhau:  ’’Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh.’’ (Máccô 4,41).  Câu hỏi của các môn đệ minh chứng Đức Giêsu là Chúa thật.
Mỗi ngày trong cuộc sống là dịp để chúng ta tuyên xưng niềm tin:  Đức Giêsu là Vua, là Thầy và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Điều mặc khải này xua đuổi bóng tối âu lo, sợ hãi và ngờ vực; thay vào đó bằng một niềm tin trong thinh lặng, yên tĩnh và bình an.
  Đức tin muốn phát triển và tăng trưởng, đức tin cần được thử thách.  Chúng ta đừng sợ đức tin của mình yếu kém, nhưng nên khiêm tốn nài xin Chúa ban thêm đức tin.  Tiếng kêu cầu khiêm tốn, yếu ớt và chân thành sẽ được Chúa mau chóng đáp ứng.
’’Lạy Thiên Chúa, qua Người Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa đã tỏ lộ cho chúng con biết quyền năng tối thượng của Chúa. Người là Đấng tốt đẹp và vinh quang của Thiên Chúa vô hình.  Người đã dùng Lời để tạo dựng và điều khiển nhịp nhàng tất cả mọi loài.  Xin ban cho con ơn hiểu biết mới về uy quyền và thế lực của Đức Giêsu.  Xin giúp con biết hiến dâng cuộc đời cho Chúa, và trở nên nhân chứng dức tin vĩnh cửu của Chúa.  Amen.’’