Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Thánh Simon và Thánh Giuđa, Tông Đồ - 28 Tháng 10

Các bài đọc trích sách: -  Êphêsô 2,19-22; - Thánh Vịnh 19,1-4; Luca 6,12-19


Tiếng Các Ngài Vang Dội Khắp Hoàn Cầu.


Hôm nay, Giáo Hội mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa
mà tên các ngài được thánh luật chỉ định kính nhớ vào cùng một ngày.
Có lẽ, bởi vì cả hai đấng đều được sai đi và rao giảng Tin Mừng ở
Mesopotamia (Vùng Lưỡng Hà) và Persia (Iran),
nhưng thực tế như thế nào thì chúng ta không biết rõ,
ngoài việc các đấng được tuyển chọn làm tông đồ của Đức Giêsu Kitô
và đã được các thánh sử ghi chép trong Kinh Thánh Tân Ước.


Thánh Simon Tông Đồ, Tử Đạo:
·        sinh tại Cana hoặc Canaan.
·        chết năm 65 hoặc 107 sau Công Nguyên.
·        được giáo hội công giáo, chính thống giáo tây phương, công giáo coptic, giáo hội công giáo chính thống đông phương, Anh giáo, Tin lành Lutheran, Hồi giáo, tôn vinh.
·        phần xương thánh chính được lưu giữ tại nhiều nơi, kể cả Toulouse (Pháp), Đền Thánh Phêrô (Rôma).
·        lễ mừng kính:  28 tháng 10 (Kitô giáo tây phương), 10 tháng 5 (công giáo coptic).
·        biểu hiệu: thuyền, thập giá và cái cưa, con cá (hoặc 2 con cá); cây lao, người bị cưa đôi theo chiều dọc, tay chèo.
·        đấng bảo trợ cho thợ cưa xẻ, thợ thuộc gia.

     Simon được gọi bằng những tên như Simon Zelotes, Simon the Zealot thuộc nhóm qúa khích (Luca 6,15) và (Công Vụ Tông Đồ 1,13), và Simon Kananaos hay Simon Cananeus, là một trong các tông đồ ít tiếng tăm nhất.  Thông tin về Người rất giới hạn, ngoài tên của Người.
Thánh Tông Đồ Simon Nhiệt Thành
     Tên Simon xuất hiện trong tất cả bốn Tin Mừng nhất lãm và sách Công Vụ Tông Đồ, nhưng không ghi chép thêm chi tiết (Luca 6,14-16).

     Truyền thuyết chính thống giáo tây phương cho rằng tiệc cưới của Simon tại Cana (Galillê) có Đức Kitô và các môn đệ của người tham dự, nơi ấy Đức Giêsu đã biến nước trong sáu chiếc chum đầy thành rượu.  Simon được gọi là qúa khích/nhiệt thành là vì khi thấy phép lạ của Đức Giêsu, Người từ bỏ nhà cửa, cha mẹ, và nàng dâu để đi theo Đức Kitô.  Truyền thuyết rằng, sau lễ Ngũ Tuần, Người được sai đi và rao giảng Tin Mừng ở Mauretania (cổ Libya, nay là Marốc và tây Algeria, bắc Phi Châu).  Nhưng một nguồn tin khác rằng, Người là Simon, giám mục thứ hai thành Giêrusalem, mặc dù Người sinh tại Galillê.

Thánh Tông Đồ Simon Nhiệt Thành
     Truyền thuyết gần nhất rằng, Simon thường gắn bó với thánh Giuđa như một nhóm rao giảng Tin Mừng; nên ngày mừng kính vào cùng ngày 28 tháng 10.  Nhiều nguồn tin cho biết, sau khi rao giảng ở Ả Rập, Simon liên hiệp với Giuđa tại Persia (Iran), Armenia hoặc Beirut (Libanon), nơi cả hai đấng bị tử đạo vào năm 65 sau Công Nguyên.  Có lẽ, Người chịu tử đạo vì là giám mục thành Giêrusalem. Tuy nhiên, còn nhiều tin tức khác biệt nhau về cuộc đời rao giảng và về cái chết của Người. 

Thánh Giuđa Tông Đồ, Tử Đạo:
·        -  sinh vào thế kỷ thứ I, sau Công Nguyên, tại tỉnh thuộc Galilê, đế quốc Rôma.
·        -  chết vào thế kỷ thứ I sau Công Nguyên.
·    -  được Giáo Hội công giáo, chính thống giáo phương Đông-Tây-Á châu, cộng đồng  Anh giáo, Luthêran, Hồi giáo, giáo hội Aglipayan (Phi luật tân) tôn kính.
·        -  được phong thánh thời tiền tôn giáo hội (Giáo Hội hiện tại).
·   - thánh tích quan trọng được lưu giữ tại đền thánh Phêrô, Rôma, Reims. Toulouse (Pháp).
·        -  các biểu hiệu: rìu, cây côn, thuyền, tay chèo, huy chương.
·        -  các nơi nhận làm đấng bổn mạng: xứ Armenia (những trường hợp bị tổn hại, thất vọng, bệnh xá), St. Peterburg (nga), Floria, Philuậttân, nha cảnh sát Chicago (Mỹ), …
·        -  Thánh Giuđa là tác giả một lá thư ngắn được ghép trong Kinh Thánh Tân Ước.

Thánh Tông Đồ Giuđa Tadêô
     Giuđa là một trong số 12 tông đồ của Đức Giêsu. Giuđa chính là Tadêô, một tên đệm, cũng có thể là một biệt danh, được ghi trong Tin Mừng, Mátthêu (10,3) và Máccô (3,18), trong khi Luca kêu đích danh Giuđa (Luca 6,16), (Công Vụ Tông Đồ 1,13) và Gioan 14,22).

     Người còn được gọi bằng những tên khác như Giuđa Giacôbê, Giuđa Tadêô, hoặc Giuđa Tadêô hay Lebbaeus.  Đôi khi tên Người bị lẫn là Giuđa (anh em họ hàng Đức Giêsu), nhưng hoàn toàn khác hẳn với Giuđa Iscariot, một Giuđa bội phản Đức Giêsu.
  
     Giáo hội tông toà Armenian tôn kính Tadêô và thánh Batôlômêô như các vị thánh bổn mạng.  Giáo hội công giáo tôn kính Người như thánh bảo trợ trong các trường hợp tuyệt vọng và bị tổn hại.

     Biểu hiệu của thánh Giuđa là cây côn.  Người cũng thường được mô tả qua tượng ảnh với ngọn lửa bốc cháy quanh đầu. Điều này diễn tả sự hiện diện của Người tại buổi lễ Ngũ Tuần, lúc Người cùng với các tông đồ khác đón nhận Thánh Linh. Giuđa là một tên rất phổ thông đối với người Do Thái thời bấy giờ.

     Truyền thuyết cho rằng thánh Giuđa rao giảng Tin Mừng ở xứ Giuđêa, Samari, Idumaea (nam Giuđêa), Syria, Mesopotamia và Libya.  Được biết, Người cũng đặt chân đến Beirut.

     Truyền thuyết rằng, thánh Giuđa sinh trong một gia đình Do Thái, tại một thị trấn thuộc xứ Galilê; sau này, khi những người Rôma tái thiết xong đổi tên là Caesarea Philippi.  Giuđa nói được tiếng Hy lạp và Aramaic, giống như hầu hết những người đồng thời trong vùng ấy, là tá điền buôn bán nông phẩm. 

Thánh Tông Đồ Giuđa Tadêô
     Cũng theo truyền thuyết, thánh Giuđa là con trai của Clêopas và Maria (chị em với Đức Trinh Nữ Maria).  Truyền thuyết rằng Cleôpas đã bị mưu sát chỉ vì tính tình ngay thẳng và hăng say loan truyền sự sống lại của Đức Kitô. Sau khi Maria qua đời, bà đã làm nhiều phép lạ cho những ai kêu xin.

     Người dân Armênia tin rằng Giuđa và Batôlomêo là những vị đầu tiên đem Tin Mừng đến cho họ, nên dân chúng đã xây Thánh Đường các Tông Đồ tại Armenia để vinh danh các Đấng.

     Dân Armenia kể rằng thánh Giuđa đã chịu tử đạo tại Beirut (thuộc xứ Syria, dưới quyền thống trị của đế quốc Rôma) vào khoảng năm 65 sau Công Nguyên, cùng với tông đồ Simon (nhiệt thành/qúa khích); hai Đấng thường liên kết chặt chẽ với nhau.

     Sau khi đã chết một thời gian, di hài thánh Giuđa được chuyển từ Beirut tới Rôma và đặt tại hầm mộ Đền Thờ Thánh Phêrô, để các tín hữu kính viếng.  Hiện nay xương thánh Giuđa được lưu giữ trong cùng ngôi mộ có di hài tông đồ Simon (nhiệt thành/qúa khích), nằm ở cánh trái Đền Thờ Thánh Phêrô, phần dưới bàn thờ chính của thánh Giuse.
     Thánh Giuđa và thánh Simon, cầu cho chúng con.  Amen.

     Đứng trước những quyết định quan trọng cần phải cầu nguyện thật nhiều.
     Qủa thật, trước khi tuyển chọn và chỉ định 12 người làm tông đồ, Đức Giêsu đã phải cầu nguyện với Chúa Cha suốt một đêm.  Chúng ta không biết Đức Giêsu cầu xin và đàm đạo với Chúa Cha như thế nào đối với quyết định quan trọng như vậy. 

     Nhưng có một điều đáng ghi nhận là những người được Đức Giêsu chỉ định làm tông đồ không ai nổi danh, không ai giầu có, không ai tài cao học rộng, đặc biệt là không ai có khả năng thiên phú.

     Nếu trao cho chúng ta tuyển chọn 12 người mà Đức Giêsu đã chỉ định, thì chắc chắn không ai có thể được liệt kê ưu tiên trong danh sách xếp hạng của chúng ta. Chúng ta thường quan tâm nhiều tới tài đức, qúa khứ, gia phả, học vấn, sức khỏe, vân…vân…

     Đức Giêsu coi những yếu tố nêu trên không có giá trị trong việc tuyển chọn các tông đồ! Các ông là những người thuộc thành phần vô danh tiểu tốt, thất học, tầm thường.  Nhưng Đức Giêsu đã chuyến hóan các ông thành những tông đồ can đảm, hăng say và nhiệt thành rao giảng sứ điệp đời sống mới và Tin Mừng.
 
     Giống như các tông đồ, chúng ta cũng được sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả những người chúng ta gặp gỡ.  Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình chứ không bằng lời nói.  Có thể, vì chúng ta xấu hổ, do dự, rụt rè trong việc chia sẻ với người khác về niềm hy vọng của mình. 

     Hôm nay, chúng ta có thể xin thánh Simon cũng như thánh Giuđa cầu cùng Chúa ban cho tất cả mọi người trong chúng ta ơn trở thành chứng nhân và sẵn sàng tham gia vào việc rao truyền Tin Mừng của Chúa. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khuyên nhủ mọi người hãy sốt sắng thi hành ơn gọi tông đồ và rao giảng của mình trong  nỗ lực loan truyền lời Chúa:

không kể đến vấn đề tuyệt vời ra sao, thì cuối cùng chứng nhân cũng trở nên vô hiệu, nhưng ý nghĩa của Tin Mừng đã được làm sáng tỏ -  điều mà thánh Phêrô gọi là việc tính sổ ’’cho niềm hy vọng ở nơi bạn’’.  Ý nghĩa của kẻ làm chứng cho một người sẽ được làm sáng tỏ, đó là việc rao giảng Đức Giêsu cách minh bạch và rõ ràng. Tin Mừng được chúng ta rao giảng sớm muộn sẽ được người đời nhắc tới.  Chẳng có Phúc Âm chính thực, nếu tên, Vương quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazaréth, Con Thiên Chúa, không được rao giảng. (evangelii nuntiandi 22).
’’Lạy Chúa Cha,
Chúa tỏ mình ra cho chúng con
qua việc rao giảng của các
tông đồ Simon và Giuđa. 
Nhờ lời cầu bầu của các Đấng,
xin ban cho Giáo Hội Chúa mỗi ngày
càng phát triển và thêm nhiều người
 tin yêu Chúa. Amen.’’ 

Chúa Nhật XXX Thường Niên - Năm B

Các bài đọc trích sách: - Giêrêmia 31,7-9; - Thánh Vịnh 126,1-6; - Do Thái 5,1-6; - Máccô 10,46-52



Lòng Tin Của Anh Đã Cứu Anh


     Người hành khất mù lòa Bartimê dậy chúng ta cách nhìn.  Giống như anh mù, chúng ta cũng cần đức tin của mình lớn mạnh trước khi có thể thực sự nhìn thấy.
  
     Thoạt đầu, chúng ta cũng có những lời nói về Đức Giêsu, giống như anh mù Batimê đã tuyên xưng Người là Đấng Messiah, Con Vua Đavít.
 
     Qua đến bước thứ hai, thì đức tin của chúng ta lại trở thành vấn đề cá nhân.  Đó là lúc chúng ta nhận biết mình yếu đuối, nên cần tới một nhu cầu chính đáng.  Và đó cũng là lúc chúng ta phải xác tín, Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, có thể chữa lành chúng ta và đem đến cho chúng ta một cuộc sống mới. 

     Đang đắm chìm trong tội lỗi và tâm hồn trống vắng, nếu chúng ta gặp gỡ Đức Giêsu và được Người đụng chạm tới đời sống của chúng ta, lúc bấy giờ chúng ta sẽ có thể bắt đầu cuộc hành trình trên con đường làm môn đệ Người, giống như anh mù Bartimê vậy.

     Bao lâu chúng ta chưa gặp gỡ Đức Giêsu và chưa trở thành môn đệ Người thì chúng ta vẫn là kẻ mù lòa.  Trên lãnh vực này hay lãnh vực khác, cặp mắt của mỗi người trong chúng ta vẫn chưa mở ra, và chính vì thế, chúng ta rất cần được Đức Giêsu chữa lành, hầu chúng ta có thể trưởng thành như các môn đệ của Người.

     Có lẽ chúng ta nên nhìn thẳng vào chính mình bằng một thái độ chân thành.   Chúng ta nên nhìn nhận tội lỗi của mình dưới một luồng ánh sáng rõ ràng hơn.  Hoặc có lẽ chúng ta phải cần tới một nhu cầu khẩn thiết như những người con được Chúa rất yêu thương và thành tâm kêu xin Người cứu giúp.

     Thiên Chúa luôn ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành phúc lộc, nhưng nhiều người trong chúng ta không bao giờ có thể nhận ra điều đó. Để có thể nhìn thấy chính mình một cách rõ ràng, chúng ta cần lập lại lời của người hành khất mù lòa Bartimê:  ’’Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được.’’

     Hoặc có lẽ chúng ta cần mở cặp mắt sáng hơn để nhìn thấy rõ ràng những ngang trái, lừa đảo, gian dối, đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng chúng ta cần nhìn các sự việc kia bằng một thái độ lạc quan. Hay nói cách khác, chúng ta nên nhìn mọi người chung quanh bằng một nhãn giới chính trực. 

     Nếu bị mù loà, chỉ vì ích kỷ, tự ái, danh lợi riêng tư, thì chúng ta không thể nhìn người khác như anh chị em của mình được; và dĩ nhiên, chúng ta cũng không thể nhìn thấy Đức Kitô đang hiện diện trong họ. ’’Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được.’’

     Nếu chúng ta có thể nhìn được chính mình, ngoại cảnh và những người chung quanh bằng cặp mắt đức tin, thì chúng ta mới có thể buớc gần gũi Đức Giêsu hơn trên con đường làm môn đệ của Người.  Bartimê ném áo choàng và để các dụng cụ ăn xin lại trên vỉa hè.
  
     Bây giờ anh mù đã có thể nhìn thấy và nhận ra Đức Giêsu, nên anh có thể bỏ lại phía sau tất cả cuộc đời cũ của mình.  Anh giã biệt tất cả những gì đã từng níu kéo anh lại đằng sau.  Anh chỉ còn một ý định duy nhất là theo Đức Giêsu suốt chặng đường thương khó của Người.
  
     Bartimê đã học được qua cuộc đời khổ cực; và vì đã gặp gỡ Đức Giêsu rồi, nên anh không còn sợ hãi gì khi được đồng hành với Người và đụng chạm với những khổ đau trên con đường làm môn đệ. 
''Lạy Đức Giêsu,
xin mở cặp mắt cho con,
 để con nhìn thấy Chúa.
Xin ban cho con nguồn sáng của Chúa,
hầu con có thể đồng hành với Chúa
trên con đường làm môn đệ Chúa.  Amen.''