Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ - Năm A

Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Êdêkien 34,11-12; - Thánh Vịnh 23,1-3a.3b-4.5.6; 
- 1 Côrintô 15,20-26.28; - Mátthêu 25,31-46


Lòng Nhân Từ Và Ân Sủng Chúa Theo Tôi

Người Ngự Trên Ngai Uy Linh Của Người

                 ‘’The Prince and Pauper – Hoàng tử và kẻ bần cùng’’ là một câu truyện của Mark Twin, mô tả hai thanh niên Anh quốc, cách nay 300 năm.  Hai thanh niên này, vừa là bạn thân của nhau, vừa lại giống nhau như anh em sinh đôi.  Một cậu tên là Edward, hoàng tử tiểu vương Wales, còn cậu kia thì nghèo túng đói rách, tên là Tom Canty.

                 Một hôm, hai cậu quyết định đổi lối sống cho nhau để đùa giỡn, mua vui!  Edward mặc bộ quần áo rách rưới của Tom, rồi đi lang thang trong các xóm nghèo ở Luân Đôn, sống chung với những trẻ thất học và ăn xin.  Sau một thời gian, cả hai cậu đều chán trò chơi vô vị đó!

                 Thế rồi, Edward, trong bộ quần áo tả tơi rách rưới, đến nói với viên cảnh sát rằng, chính cậu là hoàng tử Wales.  Cảnh sát bắt và nhốt cậu vào nhà tù.  Đúng lúc Tom chuẩn bị để được tấn phong lên ngôi vua, thì Edward trở về hoàng cung, và cố gắng thuyết phục các quan chức rằng, chính cậu mới là hoàng tử.  Nhờ kinh nghiệm đó, mà sau này Edward đã trở thành một nhà lãnh đạo nhân từ và công minh.

                 Nội dung câu truyện trên tương tự hoàn cảnh giữa Đức Giêsu và mỗi các nhân chúng ta.  Đức Giêsu là hoàng tử, Con một Thiên Chúa, nhưng Người đã đổi địa vị của chúng ta, là những kẻ nghèo khổ.  Người mang thân xác yếu hèn của chúng ta, và làm cho chúng ta trở thành hoàng tử, bằng cách mặc cho chúng ta chiếc áo ân sủng của Người, và còn chia sẻ với chúng ta sự sống của Người nữa.

                 Vừa là Thiên Chúa và cũng vừa là con người, nên Đức Giêsu biết rõ những đau khổ của nhân loại.  Khi mặc lấy thân xác yếu hèn của con người; Đức Kitô thực sự đã đón nhận tất cả mọi đau khổ, mà mỗi người chúng ta phải gánh chịu; để rồi, giống như hoàng tử Edward, Đức Giêsu cũng hết lòng yêu thương và giúp đỡ những kẻ sống trong cảnh thiếu thốn và khổ cực.

                 Đức Giêsu đã về trời, và được Chúa Cha tấn phong làm Vua vũ trụ.  Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những trang sử quan trọng, diễn tả cuộc đời Đức Kitô.  Đức Kitô đã gặp gỡ chúng ta, và đem chính bài trắc nghiệm tinh thần bác ái, để hỏi mỗi người chúng ta cho biết, chúng ta đã làm gì cho những kẻ đang cần tới sự giúp đỡ của chúng ta.  Vui mừng đối với những ai đã biết thương giúp kẻ khác, và buồn thay cho những ai chẳng bao giờ quan tâm tới các nhu cầu cấp bách của tha nhân!

                 Có bao giờ, chúng ta cho kẻ đói khát ăn uống chưa?  Có bao giờ chúng ta thăm viếng, an ủi kẻ bệnh tật, ốm đau, tù đầy, cô đơn, buồn chán, thất vọng chăng?  Và chúng ta đã làm gì cho những kẻ đói khát phần tâm linh?  Nếu mỗi người trong chúng ta đã chẳng làm gì, hay làm qúa ít, thì có một ngày, chúng ta sẽ nghe tiếng xua đuổi của Đức Vua Giêsu:  ‘’Hãy đi cho khuất mắt Ta.’’

                 Và, nếu chúng ta đã làm hết sức mình rồi, thì chúng ta sẽ được Vua Giêsu âu yếm và bảo:  ‘’Các ngươi hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dọn sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thiên lập địa.’’  Dường như chúng ta còn đang trải nghiệm giây phút ngỡ ngàng, thì Đức Vua Giêsu bèn nói tiếp:  ‘’Bởi vì, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một người trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy.’’

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra Chúa nơi những người anh em của con, trong đời sống hằng ngày, để mỗi khi con đối xử, hay làm việc gì cho họ, thì cũng là đối xử hoặc làm cho chính Chúa vậy. Amen.’’ 

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 11,4-12; - Thánh Vịnh 144,1.2.9-10; - Luca 20,27-40


Chúa Dạy Tôi Nên Người Thiện Chiến

Hai Nhân Chứng Đến Tuyên Sấm
(Hai Cây Ôliu Và Hai Cây Đèn)

                 Câu truyện do một nhân chứng sống kể lại rằng:  ‘’Chúng tôi tổ chức một buổi cắm trại cuối tuần cho giới trẻ trong giáo xứ học hỏi Lời Chúa, ở một nơi khá xa.  Chúng tôi đang vui vẻ sinh hoạt với nhau, thì biến cố rùng rợn bất chợt xảy đến:   Một toán binh lính thánh chiến Hồi giáo tìm kiếm chúng tôi.  Họ kéo Roi ra bên ngoài, đoạn một người thuộc đội quân thánh chiến chất vấn Roi:  ‘’Mày là ai?’’  Roi trả lời:  ‘’Tôi là một binh sĩ của Đức Kitô.’’

                 Người đàn ông đặt câu hỏi rút dao găm, rạch một nhát dài nơi tay trái Roi.  Anh thanh niên lập lại câu hỏi:  ‘’Mày là ai?’’.  Roi đáp lại: ‘’Tôi là một trong các binh sĩ của Đức Kitô.’’. Người lính thuộc đội quân thánh chiến lấy dao đâm Roi lần thứ hai, để lại vết thương lớn trên vai bên phải cậu thanh niên.  Đoạn người đàn ông thuộc đội quân thánh chiến đặt cùng một câu hỏi lần thứ ba.  Mặc dù câu trả lời có vẻ buồn rầu, nhưng thái độ rất trịnh trọng:  ‘’Thưa ông cậu – tôi không có thể nói gì khác hơn – tôi là một binh sĩ của Đức Kitô.’’  Chiếc dao găm lúc lắc một hai giây, đoạng xé toang buồng dạ dầy của Roi ra.  Roi lớn tiếng kêu:  ‘’Giêsu…’’  Khi đầu gối Roi khụyu xuống, tên đao thủ phủ rạch nát cuống họng Roi.  Như thế là Roi đã chết vì đạo.  Lúc chịu chết vì đạo tại Ambon ở Inđonêsia, thì Roi Pontoh mới chỉ 15 tuổi.’’ 

Qua bài suy niệm hôm nay, chúng ta thấy thành phần nam nữ đã và đang bị bách hại vì đức tin trên khắp toàn cầu không phải là ít.  Họ là những người hoạt động nơi tiền đạo, thay mặt chúng ta hứng chịu các hình phạt khủng khiếp, chỉ với mục đích duy trì kiếp sống của người Kitô hữu.

                 Trong tông thư Ut unum sint, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định, vai trò của các vị tử đạo vì niềm tin luôn là dấu chỉ hiệp nhất, hy vọng và chứng nhân tình yêu Thiên Chúa:  ‘’Chứng nhân tử đạo đông đảo thuộc thế kỷ hiện đại, gồm mọi thành viên Giáo Hội, bao gồm cả các cộng đoàn giáo sĩ không thuộc Giáo Hội công giáo, tạo khí lực cho lời mời gọi của Công Đồng Vatican II, và nhắc chúng ta nhớ tới bổn phận của mình là lắng nghe và thực hành lời khuyên dậy của Công Đồng.  Các anh chị em trong đức tin của chúng ta đã hiệp thông dâng hiến sự sống mình vì vương quốc Thiên Chúa, đó là những tấm gương cao qúi nhất mà mỗi phần tử dân Chúa nên cố gắng vượt thắng gian nguy, hiểm trở vì lợi ích Nước Trời.’’ (Ut unum sint 1).

                 ‘’Chúng con cảm tạ Chúa vì được làm chứng nhân của các vị tử đạo, vì các ngài chứng tỏ cho chúng con biết, Đức Kitô không những xứng đáng để chúng ta sống cho Ngài, mà còn xứng đáng chết cho Ngài nữa.’’ 

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 10,8-11; - Thánh Vịnh 119,14.24.72.103.111.131; - Luca 19,45-48


Con Coi Trọng Luật Chúa Truyền Ban

Cầm Lấy Mà Nuốt Đi

                Tin Mừng, đúng hơn là cuốn sách trong bài đọc hôm nay, vừa ngọt ngào vừa đắng cay.  Chúng ta cảm thấy thật sự phấn khởi khi tội lỗi được tha thứ, và đón nhận ân sủng Thánh Thần, với hy vọng chiếm hữu cuộc sống vĩnh cửu – ngọt ngào.  Tuy nhiên, chúng ta cũng còn phải vác thập giá, chết đi cái tôi của mình và tìm kiếm lối hẹp – đắng cay.

                 Chúng ta cũng cần nuốt cuốn sách - tức là Lời Chúa.  Dei Verbum là tài liệu liên hệ tới Kinh Thánh do Công Đồng Vatican II phát hành, viết:  ‘’Sức mạnh và uy quyền của Lời Chúa có thể phục vụ, như một phương tiện nuôi dưỡng và gia tăng năng lực cho Giáo Hội, nhờ thế đức tin nơi con cái Giáo Hội càng thêm vững mạnh, vì đó là lương thực cho linh hồn, và là nguồn mạch đem lại sự sống đời đời’’ (đoạn 21). 

Kinh Thánh ngọt ngào như mật ong, nhưng sứ điệp Tin Mừng có thể là đắng cay.  Tại sao lại như vậy?  Bởi vì Kinh Thánh, tức là Lời Chúa, có một sức mạnh tuyệt vời: ‘’Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi:  xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người’’ (Do Thái 4,12).

Nếu cho phép, Lời sẽ công khai hóa tội lỗi ở nơi tâm hồn chúng ta.  Gioan được ủy nhiệm công bố Tin Mừng cho dân mình – Ngài biết, khi đã tiêu hóa sứ điệp, thì Ngài có thể hiểu được Lời một các trọn hảo.  Khi cầu nguyện bằng Lời Chúa, học hỏi và nuốt (Lời) Kinh Thánh, chúng ta cũng có thể hiểu sứ điệp ấy cách viên mãn.
Giống như Gioan, chúng ta cũng được ủy nhiệm rao giảng Tin Mừng trong đời sống hằng ngày. Tin Mừng phải được công bố trên khắp toàn cầu, nhưng, trước khi tiến vào thế gian, chúng ta cần chia sẻ Lời Chúa cho những người thân cận nhất, như bạn bè, bằng hữu và đồng nghiệp...!

Chúng ta không có quyền thay đổi Tin Mừng, bởi vì từ nguyên thể, nội dung sứ điệp Tin Mừng là: Thiên Chúa đã sai Con mình xuống trong thế gian; Người Con đã chịu chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta; Đức Giêsu là danh thánh duy nhất trong thiên đàng cũng như ở dưới đất, nhờ thế mà chúng ta được cứu rỗi; có một thiên đàng và cũng có một hỏa ngục, có một cuộc phán xét; và Đức Giêsu sẽ trở lại.

Phần đắng cay trong Tin Mừng có lẽ là:  khốn cho chúng ta, nếu chúng ta không chia sẻ cho người khác những gì mà Đức Giêsu đã đem lại chiến thắng nơi chúng ta - khốn cho chúng ta lắm!


‘’Lạy Chúa, Tìn Mừng của Chúa thật ngọt ngào:  đó là niềm hy vọng độc nhất của nhân loại.  Xin ban cho con ý thức ơn gọi của mình là chia sẻ và loan báo Tin Mừng của Chúa đến mọi người cách hăng say và nhiệt thành.’’

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Th Năm Sau Chúa Nht 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 5,1-10; - Thánh Vịnh 149,1-2:3-4.5-6a+9b; - Luca 19,41-44


Ngài Xứng Đáng Lãnh Nhận Cuốn Sách

 
Sư Tử Xuất Thân Từ Chi Tộc Giuđa

                 Gioan cống hiến chúng ta một thị kiến rùng rợn về Đức Kitô đang ngự ở trên thiên đàng trong cương vị Đấng Cứu Thế quang vinh.  Gioan buồn rầu và đau đớn, rồi khóc lóc vì không ai được coi là  xứng đáng mở cuốn sách.  Một Kỳ Mục yên ủi, và  chúng ta biết rõ vị lão thành ấy muốn nói với ai:  ‘’Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giuđa, Chồi Non của Đavít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong’’ (Khải Huyền 5,5). 

                 Đức Giêsu là Đấng có thể mở cuốn sách và bài tân ca được hát dâng tiến Người – một bài ca chiến thắng và vui mừng; một bài ca chiến thắng, và một bài ca cứu chuộc chúng ta.  Đức Giêsu, nhờ sự chết và sống lại, đã mở cửa thiên đàng cho chúng ta được vào.  Người đã mở cửa Trời cho chúng ta.

                 Cuộc sống Nước Trời là vui mừng, do hoa trái và ân phúc cứu độ mà Đức Giêsu đã hoàn tất trên thập giá vì chúng ta.  Chúng ta phải tập sống như những công dân Nước Trời - nhiều người trong chúng ta chỉ tập trung vào cuộc sống đời này, mà ít nghĩ tới đời sau.  Chúng ta thường gắn liền với cuộc sống trần thế hơn là Nước Trời – vậy, chúng ta nên có một cái nhìn Nước Trời, vì Nước Trời là số phận đời đời của chúng ta!

Thánh Nữ Têrêsa Lisieux nói:  ‘’Nước mà tôi đang sống, không phải là quê hương thực của tôi; Nước ấy nằm ở một nơi, tôi hằng mong đợi sẽ tới.’’  Thánh Gioan Vianney nói:  ‘’Nhà chúng ta ở trên trời.  Dưới trần thế, chúng ta giống như lữ khách đang tạm trú tại một khách sạn. Khi xa nhà, chúng ta luôn nghĩ tới ngày trở về nhà.’’ 

Hãy cùng nhau nghĩ tới thiên đàng như một căn nhà của chúng ta, để qua những năm tháng dài tại trần gian, luôn hướng lòng về nơi ấy.  Đời sống người Kitô hữu sẽ ít giá trị hơn, nếu chúng ta lơ là trước sự kiện đó. Tuy nhiên, chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần khai mở mầu nhiệm thị kiến phúc lộc, để có thể hiểu rõ lòng Chúa thương xót chúng ta như thế nào, xuyên qua bài đọc hôm nay.

Từ phiá đằng sau bức màn thế giới này, chúng ta nhìn sang thế giới bên kia - một thế giới, mà Đức Giêsu Con Chiên Thiên Chúa, Sư Tử của chi tộc Giuđa, Chồi Non của Đavít, phát sinh danh dự, vinh quang và tôn vinh, vì Người thật xứng đáng như thế.

              ‘’Vinh dự và hạnh phúc của bạn lớn lao biết bao, vì được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa, để được chia sẻ niềm vui cứu rỗi và ánh sáng ngàn đời với Đức Kitô, Đức Chúa và là Thiên Chúa của bạn… hầu thỏa mãn niềm vui bất diệt tại vương quốc Trên Trời, với người công chính và các bạn hữu của Thiên Chúa. (Thánh Cyprian).

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 4,1-11; - Thánh Vịnh 150,1-2.3-4.5-6; - Luca 29,22-28


Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng

Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng

                 Chưa ai đã từng nhìn thấy Thiên Chúa.  Những cá nhân viết Kinh Thánh đã cố gắng hết sức, trong việc xử dụng ngôn ngữ giới hạn của con người để viết thành lời.  Các ngài đã dùng các từ ngữ lý thú nhất mà loài người được ban tặng, tỉ dụ như – vinh quang, thánh, khiếp sợ, uy nghi, quyền tối thượng, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi -  nhưng chắc chắn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót đáng kể.

                 Thị kiến của Gioan về một cái ngai Thiên Chúa, đã từng bắt gặp ở nhiều nơi trong Kinh Thánh Cựu Ước:  Ngôn sứ Mikhagiơhu đã nhìn thấy Đức Chúa ngự trên ngai (1 Vua 22,19); Trên đỉnh Núi Sinai, Môsê đã thấy Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống với dân chúng, đang nghênh đón Người (Xuất Hành 19,16-19).  Các thị kiến về Thiên Chúa của Isaia và Êdêkien cũng thật khiếp sợ (Êdêkien 1,14-26; Isaia 6,1-3).  Ý nghĩa các thị kiến nêu trên đã được tóm gọn hoặc hoàn tất hay mang tới một kết cục nơi thị kiến của Gioan, qua bài đọc hôm nay.

                 Nhưng, tất cả các thị kiến kia chứa đựng ý nghĩa gì?  Một số người nghĩ rằng, hai mươi bốn vị Kỳ Mục là mười hai tộc trưởng Israel, và mười hai tông đồ - thay mặt cho toàn thể dân Thiên Chúa, từ khắp các thế hệ.  Một số người khác nhìn thấy bốn lính gác, ám chỉ bốn đức tính của Thiên Chúa hay bốn thành phần do Thiên Chúa. Thời Trung Cổ, thiên thần, sư tử, bò và phượng hoàng được coi là biểu tượng của từng tác giả Kinh Thánh.

                 Mỗi thị kiến đều có thêm nhiều lớp ý nghĩa khác nhau thật phong phú và súc tích.  Óc tưởng tượng qúa độ phác họa nên một căn phòng của một vị thống lãnh chuyên chế đầy cao sang và quyền uy tại Miền Trung Đông, trong khi biển cả, chân đèn và hương khói, không những chỉ gợi lại ngôi đền thờ thời Cựu Ước, cùng những bài thánh ca, hướng về bình nước Rửa tội, nến và hương trong phụng vụ của chúng ta.  

                 Bài Kinh Thánh hôm nay nói với chúng ta ở nhiều từng lớp  khác nhau.  Tuy nhiên, từ ngữ chủ yếu là ‘’thánh’’ vẫn chưa mất.  Ngày đêm đoàn ngũ thiên thần không ngừng tung hô:  ‘’Thánh, thánh, thánh, Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến’’ (Khải Huyền 4,8).  Điều này giúp chúng ta hiểu rõ chúng ta có liên hệ thế nào với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thật xứng đáng cho chúng ta  thờ phượng, ca ngợi và tôn vinh. Chúng ta không thể làm cách nào khác hơn để tương giao với Thiên Chúa, ngoài việc đóng vai một tạo vật liên kết với Đấng Tạo Hóa, bởi vì Thiên Chúa qúa khác biệt, vô cùng thánh thiện và hoàn toàn đáng tôn kính.

                 ‘’Mọi ca ngợi, danh dự và vinh quang là của Đức Vua, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.’’    

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 3,1-6, 14-22; - Thánh Vịnh 15,2.3.4.5; - Luca 19,1-10


Kẻ Sống Vẹn Toàn, Luôn Làm Điều Ngay Thẳng

Này Đây Ta Đứng Trước Cửa Và Gõ

                 Xácđê là thị trấn thủ đô vương quốc Laođikia, nơi được gọi là Thổ Nhĩ Kỳ.  Đó này là một thành phố khá phồn thịnh và phong phú, thiết kế hầu hết bằng các vật liệu duy nhất xuất phát từ nghề buôn bán lông chiên.  Tọa lạc cách hồ nước nóng có chứa hóa chất calcium, Laođikia cũng là nơi nổi tiếng về ngành dệt; ngoài ra, địa điểm ấy còn là một trung tâm ngân hàng quan trọng và một trường y khoa đang đà phát triển.

                 Dường như tiện nghi vật chất của hai thị trấn này đã đóng góp vào việc cắt giảm hoặc xóa bỏ những tiếng đồn không mấy tốt đẹp về các địa phương liên hệ.  Thực vậy, Giáo Hội tại Laođikia đã từng bị khiển trách là thành phần ngạo mạn, vô tâm, thiếu tự giác:  ‘’Ngươi nói, tôi giầu có, tôi đã làm giầu, tôi chẳng thiếu thốn gì; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng’’ (Khải Huyền 3,17). 

                 Sứ điệp mang nội dung gay gắt gửi tới Xácđê và Laođikia với dụng ý khuyên dạy dân chúng nên thành tâm, sám hối và trở về với Chúa, và như thế Chúa sẽ đưa mắt hướng tới họ.

                 Sám hối – metanoia -  là một nguyên tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu.  Tuy nhiên, nhiều nhân vật thời hiện đại coi tội lỗi và xa lìa Chúa là việc làm thông thường, không giống như cuộc sống tâm linh đã qúa lỗi thời và xưa cũ của thập niên 1950!

                 Dù sao, tội lỗi là tội lỗi; không thay đổi; chúng ta là những kẻ tội lỗi; chúng ta sai phạm, sa ngã; chúng ta cần ơn Chúa để được chữa lành, hầu có thể đứng dậy và tái lập cuộc sống mới.  Tội lỗi không phải là trở lực đối với Thiên Chúa; miễn là chúng ta thật lòng sám hối là đủ.  Thiên Chúa không ép buộc chúng ta phải xa tránh tội lỗi - thực vậy, nhờ ân sủng Thần Linh mà tự giác đã xuất hiện nơi các Giáo Hội Xácđê và Laođikia, trước đó thiếu vẫn.  Với lời lẽ khôn ngoan và sáng suốt, thánh Augustin Hippo viết: ‘’Trước tiên, chúng ta phải tỉnh ngộ, rồi Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta.’’ 
              
                 Sám hối hay tỉnh ngộ là một trở ngại đáng kể.  Các đấng giải tội cho biết, trước khi đón nhận bí tích hoà giải, nhiều cá nhân liên hệ thường xưng thú:  ‘’Thưa cha con không làm mất lòng ai, con không giết bất cứ ai, hoặc con không phạm tội ngoại tình...’’  Họ thuộc thành phần đáng khen, nhưng, sự thật, tội lỗi nằm trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người, chứ không chỉ ở nơi trí tưởng tượng của chúng ta; và nhu cầu cần được chữa lành cũng như ân sủng thì không bao giờ thiếu. 
 
                 ‘’Sám hối trải dài từ việc thật lòng ăn năn các lỗi lầm hiển nhiên chúng ta đã vấp phạm như giết người, ngoại tình, hiếp dâm, chửi rủa, trộm cắp, bằng cách nhìn nhận rằng, nếu yêu mến, chúng ta đã không có những hành động như nêu trên, ‘’phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân’’ (1 Gioan 3,15), một cái nhìn thèm khát, xấu xa là phạm tội ngoại tình, và yêu chuộng làm sáng danh mình là ăn cắp vinh quang Thiên Chúa.’’  (Thánh Gioan Chrysostom).

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 33 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyển 1,1-4; 2,1-5a; - Thánh Vịnh 1,1-2.3-4+6; - Luca 18,35-43


Ngươi Đã Để Mất Tình Yêu Thuở Ban Đầu

Ngươi Đã Để Mất Tình Yêu Thuở Ban Đầu

Sách Khải Huyền được hoàn thành giữa thời kỳ Giáo Hội tiên khởi đang bị bách hại khốc liệt. Hầu hết các học giả đều cho rằng niên hiệu sách Khải Huyền ghi khoảng năm 95, đúng thời điểm phát động cuộc bách hại vào khoảng giữa các năm 81 và 96, dưới triều đại Domitian.

                 Giới thẩm quyền Rôma buộc toàn dân phải thờ phượng hoàng đế, và vì thế các tín hữu Kitô giáo đã tôn vinh Đức Giêsu, với mục đích phản kháng việc sùng bái Xêda như một vị Chúa, hầu giảm bớt bầu khí căng thẳng, hành vi thù nghịch và chống đối.

                 Có lời khuyên các tín hữu tại Ximiếcna, không nên mở những cuộc chống đối kế tiếp (Khải Huyền 2,10), và Hội Thánh ở Philađenphia sẽ được gìn giữ khỏi  một giờ thử thách sắp xẩy đến trên mặt đất (Khải Huyền 3,10).

                 Chúng ta được biết Antipas đã hy sinh mạng sống mình (Khải Huyền 2,13), cùng với một số cá nhân khác (Khải Huyền 6,11).  Chính Gioan cũng bị đầy ra hải đảo Pátmôn, một thuộc địa của Rôma, dùng làm nơi trừng phạt các tội phạm, vì những hoạt động, với tư cách là một nhà truyền giáo và rao giảng Tin Mừng (Khải Huyền 1,9). 

                 Giữa thời điểm bị bách hại vô cùng khốc liệt ấy, nhiều người cho rằng tử đạo (Khải Huyền 2,14-15) là cách giải quyết tốt nhất; tuy nhiên điều này dĩ nhiên còn cần tới sự sửa sai và hối cải nội tâm:  người tín hữu được mời gọi sống can đảm, thành tín và hy sinh tuyệt đối.

                 Sách Khải Huyền chứng minh sự thật, cho biết, máu các thánh tử đạo là hạt giống Giáo Hội ươm trồng.  Mục đích của Gioan là cổ võ, an ủi và khuyến khích các tín hữu giữ vững niềm tin, dù phải trả giá đắt.

                 Gioan dùng ngôn từ đặc biệt thuộc ‘’loại khải huyền’’, phong phú mầu sắc và điển dụ.  Một khuôn mẫu độc đáo hay đặc thù của sách Khải Huyền là thường dùng con số 7 - được nhắc tới cả thảy 72 lần. Có bảy Hội Thánh (Khải Huyền 1,4, 11), bảy cây đèn vàng (Khải Huyền 1,12), bảy ngôi sao (Khải Huyền 1,16), bảy ấn (Khải Huyền 5,1), bảy sừng và bảy mắt (Khải Huyền 5,6), bảy hồi sấm (Khải Huyền 10,3), bảy đầu (Khải Huyền 12,3), bảy vương miện (Khải Huyền 12,3), bảy thiên thần (Khải Huyền 15,6) bảy tai ương (Khải Huyền 15,6), bảy chén vàng (Khải Huyền 15,7), bảy qủa núi (Khải Huyền 17,9) và bảy vua (Khải Huyền 17,10).  Thời xưa, số bảy được xếp vào loại: vẹn toàn, hoàn mỹ và ân phúc cuối cùng.

                 Gioan được biết đến như một tông đồ tình yêu.  Gioan hiểu rõ, tình yêu tinh tuyền có thể trổi vượt tất cả các nhân đức quan trọng khác, và mọi khó khăn và trở ngại đều bị tình yêu không chế cả. Tình yêu luôn vững mạnh giữa các tình hưống khó khăn, cũng như trước sự khổ cực, hoặc bị cái chết đe dọa từng ngày.

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp con đừng bao giờ bỏ Chúa – là tình yêu độc nhất và khai mở đời con - dù trong hoàn cảnh éo le và sợ hãi nhất.’’