Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Barúc 4,5-12.27-29; - Thánh Vịnh 69-33-37; - Luca 10,17-24

 
Chúa Nhận Lời Kẻ Nghèo Khó

 
Nhiều người Israel tỏ ra thất vọng, khi bị bắt đưa vào sống trong cảnh lưu đầy tại Babylon.  Họ cho rằng, Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người. Họ đã bị sức mạnh của ngoại bang xâm chiếm, và ép buộc họ phải rời bỏ xứ sở, Thiên Chúa hứa ban cho họ.  Nội dung bài đọc hôm nay, trích từ sách Barúc, cho chúng ta biết, Thiên Chúa an ủi dân Người, đang lúc họ sầu khổ; Người bảo họ hãy can đảm và nhẫn nhục, vì không bao giờ Người bỏ rơi họ.  Thiên Chúa không có ý định tiêu diệt họ, nhưng chỉ muốn sửa phạt, vì các lỗi lầm của họ. 

Suốt giòng lịch sử, họ thường tỏ ra lơ đễnh, không nhớ tới một Thiên Chúa đã làm cho họ qúa nhiều điều tốt lành, mà họ đành tâm phụng thờ các thần minh khác.  Bây giờ, Thiên Chúa giáng tai họa trên họ, nhưng chỉ là cách, có thể dẫn đưa họ vào con đường sám hối và tái tuân phục. 

Tác giả đặt lời rên rỉ vào miệng Giêrusalem, để nàng than khóc, về sự bất trung của con cái mình, khiến họ phải đón nhận nhiều đắng cay và gian khổ.  Nhưng, nàng chỉ tạm than khóc thế thôi, rồi lại tuyên bố:  ‘’Mẹ trông đợi Đấng Vĩnh Hằng sẽ giải thóat con, và Người là Đấng Thánh, đã ban cho mẹ niềm vui, vì nghĩ đến Đấng Vĩnh Hằng, sắp tỏ lòng thương xót với chúng con.’’ (Barúc 4,22).  Thiên Chúa sửa phạt dân Người, nhưng Người sẽ đem đến cho họ niềm vui, nếu họ trở về với Người.

Khi gặp khó khăn trong cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ là Chúa đã từ bỏ mình.  Chúng ta cho rằng, đau khổ chẳng mang lại ý nghĩa gì, hoặc chúng ta đã chuốc lấy đau khổ vào mình, vì đã không tuân hành các giới răn của Chúa.  Tuy nhiên, dù trong trường hợp nào, chúng ta nên noi theo tấm gương can đảm của Israel. 

Chúng ta có thể chắc chắn và tin rằng, Thiên Chúa không quên chúng ta, và nếu Người dẫn đưa chúng ta qua khỏi đau khổ, cốt là cho chúng ta, cuối cùng, tìm được vui mừng và hoan lạc hơn trước mà thôi.  Nếu cuộc sống lúc nào cũng diễn ra cách tốt đẹp, xuôi chảy, an bình, hạnh phúc, chưa hẳn chúng ta luôn nghĩ tới Chúa; nhưng nếu gặp khó khăn, hy vọng chúng ta sẽ hướng về Chúa, nguyện xin Người nâng đỡ và phù trợ.

Dĩ nhiên, đau khổ không phải là sự kiện ai cũng ước mong, nhưng Thiên Chúa có thể biến đổi đau khổ thành niềm vui viên mãn, nếu chúng ta cho phép Người hoạt động trong chúng ta.   Thiên Chúa nói với chúng ta, in như Người đã nói với dân lưu đầy Israel là hãy cậy trông vào ơn cứu độ, và trở về với Người bằng một tâm tình đã đổi mới. 

Khi kêu cầu Chúa, Người sẽ nhớ tới chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh và niềm an ủi.  Thiên Chúa là Đấng nhân từ, hay thương xót, và sẽ cất bỏ mọi đau khổ, phiền muộn ra khỏi cuộc đời chúng ta, và thay vào đó bằng niềm vui bất tận, trong ơn cứu độ của Người. 

‘’Lạy Chúa, chúng con cảm tạ, vì Chúa luôn trung thành với chúng con, và lòng thương xót của Chúa không bao giờ cạn.  Trong lúc gặp khó khăn, thử thách, xin Chúa ban cho chúng con ơn can đảm và niềm cậy trông, vì chúng con biết, Chúa sẽ đem đến cho chúng con sự an bình và hoan lạc trọn vẹn, nếu chúng con tìm gặp Chúa bằng tâm hồn khiêm hạ.  Amen.’’


Nguồn Gốc Kinh Mân Côi

Nguồn Gốc Kinh Mân Côi



     Căn cứ vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất, một của Á Thánh Alan de la Roch, trong cuốn “De Dignitate Psalteri”, và một của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort, tron cuốn “Bí Mật Kinh Mân Côi”, thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Đức Thánh Cha Gregory XII cũng cho rằng: “Kinh Mân Côi được chính Thánh Đaminh thiết lập để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và để cầu xin Rất Thánh Trinh Nữ bầu cử.”

     Vào thế kỷ 11 và 12, tại tỉnh Albi thuộc miền nam nước Pháp, có một lạc thuyết do bè rối Albigensê chủ trương là nhị nguyên. Thuyết này cho rằng Chúa Giêsu là một tạo vật được thần sai đến để giải thoát linh hồn con người bị giam cầm trong thể xác. 
     Theo thuyết nhị nguyên thì Linh hồn con người cũng được thần lành dựng nên và xác thịt được thần đữ dựng nên để giam cầm Linh hồn. Sau bao nhiêu nỗ lực mà vẫn thảm bại để chinh phục bè Albigensê rối này, thánh Đaminh rút vào một khu rừng gần thành phố Toulouse nức Pháp để cầu nguyện. Trong thời gian này Thánh nhân khóc lóc, ăn chay và phạt xác mong làm nguôi cơn giận của Chúa. Ngài đã thực hành việc khổ hạnh thân xác cho đến nỗi bị ngất lịm đi. 
     Chính lúc đó Đức Mẹ cùng ba Thiên Thần theo hầu đã hiện ra với Thánh Nhân mà nói:  ''Đaminh yêu dấu, con có biết Ba Ngôi Thiên Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?''
     Thánh Đaminh đáp: ''Ôi lạy Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì ngay sau Chúa Giêsu, Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi cùa chúng con.''
     Bấy giờ Đức Mẹ nói: ''Mẹ muốn cho con biết rằng, trong loại trận chiến này, khí giới cần phải dùng bao giờ cũng là Thánh Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng cùa Tân Ước. Do đó, nếu con muốn giảng dạy cho các linh hồn cứng lòng và đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Thánh Vịnh này của Mẹ''.
     Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.  Cho dù chúng ta không biết chắc có thật Đức Mẹ đã ban và dạy thánh Đaminh Kinh Mân Côi hay không, song chúng ta cũng có thể tin được sự kiện này thật đã xảy ra. Ở nơi, chính Đức Mẹ trong hai lần hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 và Fatima năm 1917 đã cầm trong tay tràng hạt Mân Côi, như để xác nhận là chính Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy lần hạt Mân Côi, một kinh mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong Thông Điệp “Trong Thánh Năm (Mense Maio)” rằng: “Rất đẹp lòng Đức Mẹ và được Đức Giáo Hoàng khuyến giục nhiều nhất”.
Lần hiện ra tại Lộ Đức Mẹ đã lần hạt Mân Côi với chị Thánh Bernadette bằng việc dùng ngón tay đưa từng hột chuỗi theo mỗi Kinh Kính Mừng chị đọc. Sau mỗi chục kinh thì Mẹ đọc chung với chị Kinh Sáng Danh.

     Trong cả 6 lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Trong lần hiện ra thứ ba, Đức Mẹ đã xin các em thêm vào sau mỗi chục kinh lời nguyện: “Ôi Chúa Giêsu của chúng con, xin tha thứ cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin dẩn đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần hơn hết.”
Trong bài giảng tại Fatima ngày 13/5/1982, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã nói về Kinh Mân Côi đối với Đức Mẹ như sau: “Lời kêu gọi thống hối bao giờ cũng được gắn liền với cầu nguyện. Hợp với truyền thống của bao thế kỷ, Đức Mẹ của sứ điệp này đã đề cập đến Kinh Mân Côi, một kinh có thể được khẳng định là Kinh của Mẹ Maria, một kinh mà Mẹ đặc biệt cảm thấy gắn liền với chúng ta.”

     Thực ra, theo cuốn Ciudad de Dios của đáng kính Maria D’Agreda viết trong thế kỷ 17 về cuộc đời của Đức Mẹ, như được Đức Mẹ tỏ cho biết, thì Kinh Mân Côi được bắt đầu nhen nhúm từ lúc Đức Mẹ tạ thế, qua lời xướng hoạ của các Thiên Thần từ trời xuống.

Xướng: Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ.
Đáp: Một Trinh Nữ trước khi sinh Con, đang khi sinh Con và sau khi sinh Con.

     Thế là từ đó người ta bắt đầu bắt chước lời xướng hoạ này cho đến khi Đức Mẹ truyền dậy Kinh Mân Côi cho Thánh Đaminh. Năm 1569, Thánh Giáo Hoàng Piô V đã chính thức công nhận Kinh Mân Côi với kết cấu của kinh như hiện dụng, sau khi thêm lời nguyện: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử Amen.” vào phần cuối của kinh Kính Mừng, và kinh Sáng Danh vào sau mỗi chục kinh.