Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

PHONG THÁNH CHO HAI GIÁO HOÀNG: GIOAN XXIII VÀ GIOAN PHAOLÔ II


PHONG THÁNH CHO HAI GIÁO HOÀNG
GIOAN XXIII VÀ GIOAN PHAOLÔ II

                 Trong thánh lễ Vọng Phục Sinh, tại vương cung thánh đường thánh Phêrô, vào buổi chiều tối thứ bảy và nhân dịp ban phép lành Tòa Thánh cho thành phố Rôma và thế giới, Chúa Nhật Phục Sinh năm 2014, Đức Thánh Cha Francis, thủ lãnh trên một tỉ tín hữu công giáo, thông báo: Chúa Nhật 27 tháng 4 năm 2014, Người sẽ chủ sự lễ phong thánh cho 

Đức Thánh Cha Francis Và Cộng Đồng Giáo Dân


Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đấng cai quản Giáo Hội từ năm 1978 đến 2005 và
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, cai quản Giáo Hội từ năm 1958 đến 1963, Đấng đã có sáng kiến khai mở Công Đồng Vatican II, một biến cố trọng đại với mục đích canh cải Giáo Hội.


Hàng vạn người sẽ tụ hội về Rôma để tham dự lễ phong thánh.  Đây là lần đầu tiên hai Giáo Hoàng được phong thánh vào cùng thời điểm, và cũng là lần đầu tiên phong thánh cho giáo hoàng, kể từ năm 1954.
Hai Vị Thánh Hiện Đại Dành Cho Thế Giới Hiện Đại
                 Ngày 5 tháng 6 năm 2013, Đức Giáo Hoàng Francis đã loan báo là Người sẽ chủ lễ phong thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, được tổ chức vào ngày 27 tháng 4 năm 2014, khiến toàn thể thế giới rung động.


                 Đức Giáo Hoàng Franis chấp nhận phép lạ thứ hai, tức là bướu não (aneurysm -  khiến máu không lưu thông bình thường được ở phần não) của chị Floribeth Mora, một phụ nữ Costa Rica (thuộc Nam Mỹ), do lời cầu bầu của vị Giáo Hoàng rất đáng mộ mến, gốc BaLan, tạ thế vào năm 2005. 


Phép lạ đầu tiên là việc chữa lành cho chị Maria Marie Simon-Pierre, một nữ tu người Pháp, đã phải chịu khổ cực vì chứng bệnh ’’run tay - Parkinson’’ từ lâu, do lời cầu bầu của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người cũng đã mang tật bệnh này lúc còn tại thế.  Hai phụ nữ nêu trên nài xin Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cầu cùng Chúa chữa lành cho họ, và đã được nhậm lời.


Mặc dù Vatican chỉ thừa nhận một phép lạ do lời cầu bầu của Giáo Hoàng Gioan XXIII, tuy nhiên, Giáo Hoàng Francis đã đặc cách phép lạ thứ hai, nhân kỷ niệm 50 năm, ngày Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mạc Công Đồng Vatican II, và cho rằng việc làm của Giáo Hoàng Gioan XXIII nói lên sự thánh thiện ở nơi Người.



Giáo Hoàng Gioan XXIII
Giáo Hoàng Gioan XXIII
                 Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi vào đời, mang tên Angelo Giuse Roncalli, Đấng kế vị ngôi toà thánh Phêrô từ năm 1958 đến 1963.  Trước khi lên ngôi Giáo Hoàng, Người là một nhân viên phục vụ ở nhà thương và là tuyên úy quân đội trong những năm đại chiến thứ nhất bùng nổ tại Ý.  Người đã từng là một nhà ngoại giao của Vatican, giúp di tản những người Do Thái ra khỏi vùng chiếm đóng của quân đội độc tài Nazi tại các nước Đông Âu, đến nơi trú ngụ an toàn.

Sau khi Giáo Hoàng Piô XII qua đời, Hồng Y Roncalli được bầu làm Giáo Hoàng Gioan XXIII.  Ở ngôi vị Giáo Hoàng, Đức Gioan XXIII đã tiếp cận rộng rãi với thế giới, Công Giáo cũng như Cộng Sản và tất cả mọi thành phần trong nhân gian.  Người xử dụng ngôi vị Giáo Hoàng như một phương tiện thu góp dân chúng từ khắp nơi về với chủ chiên là Đức Giêsu Kitô. 


                 Mặc dù, theo truyền thống, là một nhà lãnh đạo tinh thần, nhưng Giáo Hoàng Gioan XXIII không lơ là trước các trào lưu cách mạng văn hoá đang trên đà bành trướng dữ dội trong thế gian vào thời điểm ấy, đồng thời ước ao giúp Giáo Hội trực tiếp mời gọi và chữa trị các vết thương trong cộng đồng nhân loại.  Người nhậy cảm trước những sai lầm mà Giáo Hội trần thế đang thực hiện và gánh chịu, nên quyết tâm thực hiện một chiến lược mở rộng cánh cửa Giáo Hội để tiến tới việc thay đổi vũ trụ.  Công Đồng Vatican II năm 1962 của Giáo Hoàng Gioan XXIII là một hành động dũng cảm, mời gọi trùng tu và cải thiện mục vụ, dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.

Giáo Hoàng Gioan Phaolô II



Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
                 Vào năm 1979, trong lúc Giáo Hội đang trải qua nhiều băn khoăn trước Công Đồng Vatican II còn họp dở dang và tình trạng bàn luận về tông thư Humanae Vitae (Sự Sống Con Người) của Giáo Hoàng Phaolô VI, thì một nhân vật được chọn vào Ngôi Vị thánh Phêrô. 


Đó là Gioan Phaolô II, lúc vào đời mang tên Karol Wojtyla, trở thành vị Giáo Hoàng không phải là người Ý, kể từ 450 năm qua.  Là thi sĩ, kịch sĩ, nhà soạn kịch, triết gia, nhà ngữ học, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người BaLan, sống sót qua các cơn khủng khiếp suốt Đệ Nhị Thế Chiến, và đã chứng kiến tất cả những cảnh rùng rợn do chế độ độc tài Nazi và Cộng Sản gây nên.


Người đã âm thầm và kín đáo học hành để tiến tới chức linh mục, đồng thời liên tục tránh né sự lùng bắt khắc nhiệt của các đội quân tàn sát Nazi, và sau khi chịu chức, Người phục vụ tại nước BaLan dưới cảnh chiếm đóng của Sôviết, rồi sau này với tư cách là Tổng Giám Mục Kraków. 


Được tuyển c làm Giám Mục Tối Thượng, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trở thành một ngọn hải đăng của hy vọng và vui mừng cho thế giới Tự Do, và dường như nhà nước Sôviết bắt đầu run sợ trước bóng dáng đang lớn mạnh của Người.  Là người trẻ trung, năng động, khôn ngoan, cởi mở và dễ dàng biểu lộ thiện chí tối đa, vị Giáo Hoàng này đã mau mắn tìm được khả năng thu hút các ham muốn cá nhân theo định hướng con người và giới truyền thông hiện đại. 

Người rất tinh thông trong việc xử dụng các kinh nghiệm và những đau khổ của mình để điều hành Giáo Hội cũng như khi nói với thế giới trần tục về sự thánh thiện và phẩm giá con người.  Gioan Phaolô II phải đương đầu với sức mạnh của hỏa ngục và sự chết bằng cách lấy sự  khôn ngoan, vui sống (joie de vivre), biểu lộ trên khuôn mặt tích cực tỏa sáng với lòng nhân hậu của Đức Kitô.


                 Khác với các Đấng tiền nhiệm, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chuyển hoán các thói xấu của Vatican II thành thói quen tốt.  Các tài liệu đã được thông qua với những cải tiến sắc bén có khả năng bẽ gẫy chính sách độc tài Cộng Sản bằng lời tuyên bố: tự do tín ngưỡng là một quyền căn bản của con người. Tiếng bản xứ được xử dụng hiện nay là một hình thức phổ biến, đem sự hiểu biết đến với nhân dân, và vì thế đa số có thể tham gia vào việc thánh hóa cuộc sống mình và coi việc lao động như một phương thức cầu nguyện. 


Vào thời Cộng Sản sụp đổ bằng cuộc cách mạng ôn hòa của Người, thì một nền văn hóa trẻ trung sinh động bao quanh Gioan Phaolô II và các phong trào ồ ạt phát động, giống như Việc Chúa – Opus Dei – nổi lên rầm rộ.


                 Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật sự linh hoạt, Người là một vị Giáo Hoàng du hành nhiều nhất trong lịch sử Giáo Hội và là tác giả của mười bốn tông thư.  Người bênh vực Humanae Vitae và rao truyền việc chống lại nền văn hóa sự chết và chủ nghĩa duy vật.  Người đích thân tha thứ cho kẻ mưu sát mình tại Công Trường thánh Phêrô.  Người xin lỗi nhân dân Do Thái vì đã lên tiếng phỉ báng và ngược đãi họ trong nhiều thế kỷ.  Trong quan hệ thân tộc với cảnh phiền não, Người đã thăm viếng Auschwitz tại BaLan.  Người cầu nguyện tại Bức Tường Phía Tây thành Giêrusalem.  Người là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm một giáo đường Hồi giáo, trong nỗ lực duy trì đối thoại liên tôn.  Tuy nhiên, các sứ vụ liên quan tới du hành, chính trị và bất cứ lý do nào khác mà Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thực hiện, đều tạo nên cho Người thành một nhân vật có thần ân, không phải vì Người là một nhân vật hiện đại, nhưng Người là một vị thánh hiện đại.

Các Vị Thánh Hiện Đại Dành Cho Thế Giới Hiện Đại
                 Giáo Hoàng Gioan XXIII và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong thánh vào mùa xuân này không hướng nhiều tới các nền triết học, mà là những người đồng thời, nhưng đối với người có niềm tin thì đó là chuyện theo tập tục.  Các Ngài không phải là số nhiều trong thế giới hiện đại, vì các Ngài chỉ là những vị thánh hiện đại trong thế gian.  Mặc dù Giáo Hoàng Gioan được những người Công giáo thuộc cánh tả ưa thích, còn Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được những người Công giáo thuộc cánh hữu mến yêu, thiên đàng vẫn là mục tiêu chung của Công giáo – và Giáo Hội cần có hai cánh để bay, như lời nhắn bảo của Đức Giáo Hoàng Francis.


                 Quyết định phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng vào cùng ngày, phù hợp với thể thức tiếp cận của Đức Thánh Cha Francis đối với các phe phái trong đàn chiên của mình.  (Nên nhớ rằng đây là thể cách mà thành viên Dòng Tên đã chọn thánh Phanxicô thành Assisi và thánh Phanxicô Xavier làm quan thầy của họ).  Việc phong thánh này được xem là cách thế biểu hiện một tình yêu trong cộng đồng Giáo Hội, chứ không xét theo tính cách ngoại tại.  Mọi người Công giáo nên ý thức rằng, mặc dù hai vị Giáo Hoàng khác biệt nhau về ý thức hệ và thể cách mục vụ, nhưng chủ tâm thống nhất của các Ngài là gìn giữ Giáo Hội được hiệp nhất qua các cơn bão tố hiện đại. 


Mặc dù những người Công giáo theo hướng tự do chào đón Đức Gioan XXIII như một nhà vô địch thuộc chủ nghĩa cấp tiến, và những người Công giáo thuộc phe bảo thủ tôn vinh Đức Gioan Phaolô II như một vị anh hùng theo lối cổ truyền của họ, phương cách giáo dục học của Giáo Hoàng Francis cho biết, tất cả mọi người Công giáo đều thuộc về Công giáo -  tất cả chúng ta đều là một.  Việc phong thánh này là dấu chỉ vinh thắng của một Giáo Hội Chiến Đấu, và không phải chỉ trong khuôn viên một đồn trại của chúng ta. 


Sự khác biệt chia thành những người cấp tiến và bảo thủ dường như không có giá trị bằng Đức Tin nối kết họ với nhau.  Lý do phong thánh cho hai nhân vật rất khác biệt nhau này không chỉ đơn giản là vì cả hai vị đều ngay thẳng trong lãnh vực chính trị và những nguyên tắc căn bản của các Ngài, nhưng vì cả hai vị đều là những người ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và can đảm phục vụ Giáo Hội của Người.


                 Giáo Hoàng Gioan XXIII và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong thánh vì các Ngài không sợ làm thánh.  Giáo Hoàng Francis biết rõ điều này, và việc chính thức phong thánh cho các Ngài là một thông điệp gửi đến cho tất cả mọi người. Đây là những thời gian đáng sợ hãi, khiến người Công giáo phải nỗ lực làm tốt để nhớ tới vai trò gương mẫu của họ trong Đức Kitô, vì không những họ là những người thuộc thời hiện đại, mà còn phải là những vị thánh thời hiện đại.

’’Đừng sợ!’’
                 Giáo Hoàngg Gioan Phaolô II thường nhắc đi nhắc lại lời khuyến khích này của Chúa chúng ta.  Nhiều người vẫn còn nhớ câu nói với giọng đứt quãng và yếu ớt, nhưng đầy sinh động của Người trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới tổ chức tại Torôntô năm 2002:  ’’Giáo Hoàng già rồi, nhưng các bạn còn trẻ’’.  Đoạn Người ngưng lại, tập trung sức lực, và kêu lên như một tiếng sét: ’’Đừng sợ!’’ Mong rằng những lời này sẽ đổ đầy tâm hồn chúng ta, mỗi giây phút chúng ta tưởng nhớ và tôn vinh hai vị Thánh Giáo Hoàng này.  Trong cuốn sách của Người mang tự đề:  ''Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng'', thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết:

                 ''Có lẽ hơn bao giờ hết, chúng ta cần tới lời của Đức Kitô Phục Sinh:  ’Đừng Sợ!’ Sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, người ta vẫn chưa hết sợ hãi vì nhiều lý do với những cảm nhận khác nhau, nên cần tới lời khích lệ này…   Con người cũng như tất cả các nước trên thế giới cần nghe những lời này.  Lương tâm của mọi người cần lớn mạnh và nên ý thức rằng Người vẫn tồn tại và nắm giữ vận mệnh thế giới đang chuyển động này; Người cầm giữ các mầm mống sự chết và sự dữ; Người là Alpha (nguyên thủy) và Omega (chung kết) của lịch sử nhân loại – đó là lịch sử của từng cá nhân hay tập thể. Và Người là Tình Yêu – Tình Yêu trở nên con người, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại, Tình Yêu không ngừng hiện diện giữa nhân loại.  Đó chính là Tình Yêu trong Phép Thánh Thể.  Đó là nguồn hiệp nhất vô tận.  Chỉ một mình Người có thể ban sự an toàn tối hậu khi nói ’’Đừng Sợ!’’