Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Do Thái 11,1-2.8-19; - Thánh Vịnh: - Luca 1,69-75; - Máccô 4,35-41


Bài ĐọcDo Thái 11,1-2.8-19 -    Chúc Tụng Đức Chúa 
                                           Là Thiên Chúa                           

‘’Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.’’ (Do Thái 11,1).  Chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta đặt niềm tin và hy vọng ở nơi Người.  Điều này trái với triết lý hiện sinh và khoa học.  Chúng ta thường nói:  ‘’Nhìn thấy mới tin được!’’ 

Ngày nay, người ta luôn đòi một chứng minh hoặc một bằng cớ hay một sự thật hiển nhiên.  Người ta cho rằng đức tin là một ý tưởng có tính cách điên rồ, vì  đức tin được ví như một người mù đi vào vùng tối tăm.  Người ta gọi những kẻ có đức tin là thành phần bị cuộc đời bỏ rơi, nên phải tìm lối thoát hoặc một nơi nương tựa chắc chắn hơn.  Tóm lại, người ta nói rằng, đức tin chỉ dành cho những kẻ mềm yếu.

Có lẽ cũng đúng, nếu nói rằng đức tin Kitô giáo giống như kẻ mù nhảy vào trong vùng tối tăm; thì còn đúng hơn, nếu nói rằng một bước chân can đảm nhẩy vào vùng ánh sáng của Đức Kitô.  Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử nhân loại, thì chúng ta có đầy đủ các dữ kiện để chứng minh về sự hiện hữu của Đức Giêsu trên mặt đất này, hơn cả nhân vật Julius Caesar. 

Nội dung tác phẩm ‘’The Antiquities of the Jews’’ phát hành khoảng năm 94 sau Công Nguyên, và tác phẩm ‘’The Animals of Tactus’’, xuất bản khoảng năm 115 sau Công Nguyên của sử gia Do Thái Flavius Josphus, đều hướng về Đức Giêsu.  Trong văn thư gửi hoàng đế Marcus Ulpius Trajan, khoảng giữa các năm 111 và 113, Pliny Trẻ, đô đốc thành phố Bithnia cho biết, một số dân chúng gồm nhiều ca đoàn ‘’tụ tập nhau lúc tảng sáng vào một ngày đã ấn định trước, để hát những bài thánh ca tôn vinh Đức Kitô như một Thiên Chúa.’’ 

Các nguồn tư liệu có tính cách tự do và lịch sử này - và còn nhiều nữa -, chứng minh rằng Đức Giêsu đã đi vào thời gian và không gian, đồng thời đụng chạm tới lịch sử nhân loại.  Đức tin của nguời Kitô hữu dựa trên nền tảng lịch sử loài người.  Thiên Chúa muốn như vậy, và Người ước ao chúng ta nhận được sự bảo đảm và an toàn với những gì mình hy vọng.

Abraham đã sống bằng niềm tin.  Người là tổ phụ của chúng ta trong đức tin, vì Người có một quan hệ sống động với Thiên Chúa.  Người có thể nhận được sự soi dẫn của Thiên Chúa, và vì thế Người đã hoàn toàn hưởng ứng lời kêu gọi sống với niềm tin của mình.  Abraham có một tầm nhìn hướng về quê hương vĩnh cữu, vượt ra ngoài giới hạn của vũ trụ này.  Abraham học suy luận trong đức tin.
 
Đức tin và suy luận bổ túc cho nhau; không gây căng thẳng hoặc xung khắc giữa đức tin và suy luận.  Suy luận thông truyền cho đức tin, và đức tin soi sáng cho từng suy luận của chúng ta.  Chúng ta được kêu mời để sống một cuộc đời trong đức tin. Muốn sống bằng đức tin, chúng ta cần đào luyện tâm hồn thành một ‘’vật thể’’ mang nhãn giới chiếm đoạt hạnh phúc nước trời như Abraham.  Chúng ta chớ nhìn nước trời dưới khía cạnh khác với điều Đức Giêsu đã nhắn bảo rằng, Người là cửa ngõ dẫn chúng ta tới bến bờ vinh quang.

Chúng ta gửi tiền ở ngân hàng, vì chúng ta tin vào sự ngay thẳng, chính trực của viên quản lý.  Chúng ta di chuyển bằng máy bay, vì chúng ta tin vào sự an toàn tối đa.  Chúng ta cậy nhờ chính phủ và những người có bổn phận với dân với nước, vì chúng ta tin vào an sinh xã hội.  Chúng ta gửi con cái đến trường, vì chúng ta tin các vị nghiêm sư lão luyện với nền học vấn cao minh.  Nhờ sức mạnh của ân sủng Bí Tích Rửa tội, chúng ta có thể thi hành ơn gọi sống đức tin bằng cách phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Thánh Thomas Merton nói:

‘’Trên tất cả mọi sự, đức tin là chìa khóa duy nhất mở cửa đi vào thế gian. Ý nghĩa về sự hiện diện của con người cũng như mọi vấn nạn cần giải quyết để đem lại cho chúng ta hạnh phúc mà không thể tìm thấy ở bất cứ con đường nào khác.’’


Tin Mừng:  Máccô 4,35-41  -      Anh Em Vẫn Chưa Có Lòng Tin Sao