Thứ Bảy
Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Do Thái 11,1-2.8-19;
- Thánh Vịnh: - Luca 1,69-75; - Máccô 4,35-41
Bài Đọc: Do Thái 11,1-2.8-19 - Chúc Tụng Đức Chúa
Là Thiên Chúa
‘’Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng
chứng cho những điều ta không thấy.’’ (Do Thái 11,1). Chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta đặt
niềm tin và hy vọng ở nơi Người. Điều
này trái với triết lý hiện sinh và khoa học.
Chúng ta thường nói: ‘’Nhìn thấy mới tin được!’’
Ngày nay, người ta
luôn đòi một chứng minh hoặc một bằng cớ hay một sự thật hiển nhiên. Người ta cho rằng đức tin là một ý tưởng có
tính cách điên rồ, vì đức tin được ví
như một người mù đi vào vùng tối tăm.
Người ta gọi những kẻ có đức tin là thành phần bị cuộc đời bỏ rơi, nên
phải tìm lối thoát hoặc một nơi nương tựa chắc chắn hơn. Tóm lại, người ta nói rằng, đức tin chỉ dành
cho những kẻ mềm yếu.
Có lẽ cũng đúng,
nếu nói rằng đức tin Kitô giáo giống như kẻ mù nhảy vào trong vùng tối tăm; thì
còn đúng hơn, nếu nói rằng một bước chân can đảm nhẩy vào vùng ánh sáng của Đức
Kitô. Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử
nhân loại, thì chúng ta có đầy đủ các dữ kiện để chứng minh về sự hiện hữu của
Đức Giêsu trên mặt đất này, hơn cả nhân vật Julius Caesar.
Nội dung tác phẩm ‘’The Antiquities of the Jews’’ phát
hành khoảng năm 94 sau Công Nguyên, và tác phẩm ‘’The Animals of Tactus’’, xuất bản khoảng năm 115 sau Công Nguyên
của sử gia Do Thái Flavius Josphus, đều hướng về Đức Giêsu. Trong văn thư gửi hoàng đế Marcus Ulpius
Trajan, khoảng giữa các năm 111 và 113, Pliny Trẻ, đô đốc thành phố Bithnia cho
biết, một số dân chúng gồm nhiều ca đoàn ‘’tụ
tập nhau lúc tảng sáng vào một ngày đã ấn định trước, để hát những bài thánh ca
tôn vinh Đức Kitô như một Thiên Chúa.’’
Các nguồn tư liệu
có tính cách tự do và lịch sử này - và
còn nhiều nữa -, chứng minh rằng Đức Giêsu đã đi vào thời gian và không
gian, đồng thời đụng chạm tới lịch sử nhân loại. Đức tin của nguời Kitô hữu dựa trên nền tảng
lịch sử loài người. Thiên Chúa muốn như
vậy, và Người ước ao chúng ta nhận được sự bảo đảm và an toàn với những gì mình
hy vọng.
Abraham đã sống
bằng niềm tin. Người là tổ phụ của chúng
ta trong đức tin, vì Người có một quan hệ sống động với Thiên Chúa. Người có thể nhận được sự soi dẫn của Thiên
Chúa, và vì thế Người đã hoàn toàn hưởng ứng lời kêu gọi sống với niềm tin của
mình. Abraham có một tầm nhìn hướng về
quê hương vĩnh cữu, vượt ra ngoài giới hạn của vũ trụ này. Abraham học suy luận trong đức tin.
Đức tin và suy luận
bổ túc cho nhau; không gây căng thẳng hoặc xung khắc giữa đức tin và suy
luận. Suy luận thông truyền cho đức tin,
và đức tin soi sáng cho từng suy luận của chúng ta. Chúng ta được kêu mời để sống một cuộc đời
trong đức tin. Muốn sống bằng đức tin, chúng ta cần đào luyện tâm hồn thành một
‘’vật thể’’ mang nhãn giới chiếm đoạt
hạnh phúc nước trời như Abraham. Chúng
ta chớ nhìn nước trời dưới khía cạnh khác với điều Đức Giêsu đã nhắn bảo rằng,
Người là cửa ngõ dẫn chúng ta tới bến bờ vinh quang.
Chúng ta gửi tiền ở
ngân hàng, vì chúng ta tin vào sự ngay thẳng, chính trực của viên quản lý. Chúng ta di chuyển bằng máy bay, vì chúng ta
tin vào sự an toàn tối đa. Chúng ta cậy
nhờ chính phủ và những người có bổn phận với dân với nước, vì chúng ta tin vào an
sinh xã hội. Chúng ta gửi con cái đến
trường, vì chúng ta tin các vị nghiêm sư lão luyện với nền học vấn cao
minh. Nhờ sức mạnh của ân sủng Bí Tích
Rửa tội, chúng ta có thể thi hành ơn gọi sống đức tin bằng cách phó thác hoàn
toàn vào Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Thánh Thomas
Merton nói:
‘’Trên tất cả mọi
sự, đức tin là chìa khóa duy nhất mở cửa đi vào thế gian. Ý nghĩa về sự hiện
diện của con người cũng như mọi vấn nạn cần giải quyết để đem lại cho chúng ta
hạnh phúc mà không thể tìm thấy ở bất cứ con đường nào khác.’’
Tin Mừng: Máccô 4,35-41 - Anh Em Vẫn Chưa Có Lòng Tin Sao