Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN - Năm B

Các bài đọc trích từ sách:   Jer. 23,1-6; Tv. 23; Eph. 2,13-18; Maccô 6,30-34

Đến Một Nơi Thanh Vắng Mà Nghỉ Ngơi



     Đức Giêsu thấy dân chúng không hiểu rõ ý Chúa Cha, là muốn họ có một cuộc sống an bình và hạnh phúc, ’’nên Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.’’ (câu 34).  Để thỏa mãn các nhu cầu tâm linh của họ, Đức Giêsu đã hướng dẫn, săn sóc và hết lòng yêu thương họ.  Nhờ đó Người có thể chứng tỏ cho họ biết Người là Đấng Chăn Chiên mà Thiên Chúa hứa sẽ gửi đến cho dân Người, qua lời tiên báo của ngôn sứ Jeremia. (Jer. 23,5-6).
 
     Vậy Đức Giêsu đã dạy dân chúng những điều gì?  Điều căn bản trong giáo huấn của Người là khuyên dạy cho dân chúng biết, Người đến để thiết lập vương quốc Thiên Chúa ở trần gian này, và Người cũng cho họ hiểu thêm, những ai tin vào Người có thể sẽ được vào vương quốc Thiên Chúa, và cuộc sống của họ sẽ được bình an với Chúa và với tha nhân.
 
     Sau khi về trời, Đức Giêsu đã sai Thánh Thần Chúa đến trong Giáo Hội để dạy bảo các tín hữu hiểu biết rõ ràng về sự bình an trong vương quốc Thiên Chúa. 
 
     Thứ nhất, trong vương quốc Thiên Chúa, mọi người, không phân biệt nam-nữ, được tự do đến cùng Chúa Cha (Eph. 2,18), bởi vì khi chịu chết trên thập giá máu Đức Giêsu đã đổ ra để rửa sạch oán hận và thù ghét do tội lỗi của ta gây nên, tạo bất hòa với Thiên Chúa.  Nhờ cái chết của Đức Giêsu, mà Người đã giúp ta giao hòa với Chúa Cha, đồng thời rửa sạch mọi tội lỗi của ta và ban cho ta ơn tha thứ.  Vì thế, trong Đức Kitô, ta được Chúa Cha tiếp nhận và trở nên bạn hữu với Người.  Chúa Cha săn sóc, yêu mến và nuôi dưỡng ta.  Ta có thể sống dưới thánh nhan Chúa Cha, như những người con yêu qúi của Người.  Sự bình an với Thiên Chúa là sự bình an đích thực trong vương quốc Thiên Chúa.
 
     Thứ hai, trong vương quốc Thiên Chúa, tất cả mọi người có thể sống an bình bên nhau.  Máu Đức Giêsu đã đổ ra để san bằng mọi cản trở và tiêu diệt sự thù ghét giữa người này với người khác, nước nọ với nước kia, do tội lỗi gây nên. 
 
     Ngoài ra, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tất cả mọi người tập hợp trong Một Người Mới Duy Nhất nơi chính Bản Thân Chúa Giêsu Kitô. (Eph. 2,15-16). Máu Đức Giêsu đã tiêu diệt sự thù ghét, tranh giành, oán giận và sợ hãi giữa chúng ta, để mọi người sống an hòa với nhau trong tình nghĩa anh em.
 
     Sống bình an và hòa thuận liên kết bên nhau chính là sự an bình trong vương quốc Thiên Chúa.
 
    Ta hãy lấy làm vui mừng vì được mời gọi vào vương quốc Thiên Chúa để sống trong an bình với Chúa!  Hãy cầu xin Chúa ban cho ta ơn được sống với mọi người trong sự bình an nơi vương quốc Thiên Chúa.

’’Lạy Chúa Giêsu, kết hợp với Chúa, con có thể sống trong sự bình an nơi vương quốc Thiên Chúa.’’       

50 Năm - Sau Công Đồng Vatican II.2

MÙA XUÂN MỚI
Nhiều người cho rằng triều đại Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô được đánh dấu bằng việc
đón mừng Đại Năm Thánh 2000 và theo đuổi thánh kiến Công Đồng Vatican II.
Đức Giáo Hoàng coi Công Đồng Vatican II như một ân huệ Chúa ban cho Giáo Hội
để chào mừng Mùa Xuân Mới của Tân Thiên Niên Kỷ.
Các tông thư và diễn từ của ngài tạo vẻ lạc quan cho người tín hữu, nhờ thế họ tin tưởng
rằng những đau khổ và thử thách hiện nay là để chuẩn bị cho một tương lai
 huy hoàng và rực rỡ.  Từ viễn ảnh ấy, ta có thể cảm thấy hoa trái của Công Đồng Vatican II
đều nằm ở tương lai.  Kết qủa thực tiễn nhất có thể thấy là công tác canh cải phụng vụ,
những cấu trúc mới trong các buổi nghị thảo và đối thoại,
 thay đổi cách thức huấn luyện tại chủng viện, tự do trong việc nghiên cứu
môn Kinh Thánh và thần học, mở rộng cửa đón nhận các truyền thống khác thuộc Kitô giáo.
Các thay đổi cụ thể làm cho đời sống Giáo Hội có nhiều cơ hội phát triển.
Những hoán cải đích thực đòi hỏi ở thời gian - trước tiên là sự đổi mới tư duy nơi mỗi người.
Như thế, ta đã có được cái nhìn về tương lai của một Giáo Hội qua cuộc sống mới.
Những dấu hiệu này khiến  ta cảm thấy lạc quan trông đợi ở ngàn năm mới,
vì Chúa vẫn tiếp tục canh tân Giáo Hội của Người. 


Ân Huệ Tròn Đầy Nơi Người Kitô Hữu Giáo Dân.-
     Suốt chiều dọc lịch sử thế kỷ XX, ta nhận thấy vai trò và tước vị của người Kitô hữu giáo dân mỗi ngày càng được nhắc tới.  Công Đồng Vatican II  cho biết, tước vị này phát sinh từ Bí Tích Rửa tội và thêm sức.  Cụm từ ’’Phúc Âm Hóa’’ đến từ tông thư ’’Evangelii nuntiandi’’ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, và sau đó đem sử dụng trong ngôn ngữ học Công Giáo.  Văn kiện do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết vào năm 1988 có đoạn nói về ’’tác vụ và vai trò của người Kitô hữu giáo dân’’ (đoạn 23).
     Hiểu rõ vai trò của Chúa Thánh Thần, ta mới thấy tầm mức quan trọng của các ân huệ:  ’’trong thời đại của chúng ta, không thiếu những ân huệ đã được nhìn thấy, biểu lộ nơi người người giáo dân, giới nam cũng như giới nữ.’’ (đoạn 24).
     Nhiều phong trào tân lập xuất hiện trong Giáo Hội, mà thủ lãnh là giáo dân; họ đóng một vai trò đặc biệt trong việc giáo dục, thông tin, mục vụ, công bố Tin Mừng.  Người Kitô hữu giáo dân là chứng nhân rõ nét nhất của Đức Kitô; họ có mặt giữa lòng thế giới với đủ mọi ngành nghề và trong nhiều môi trường hoạt động khác nhau, như chính trị, thương mại, văn hóa, kinh tế, công tư chức, nghệ thuật, truyền thông… 
     Công Đồng Vatican II minh xác, họ là thành phần rất có giá trị và tối hệ trọng.  Vai trò chứng nhân của họ bằng lời nói và việc làm, nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, như lời nhắn bảo của thánh Phêrô tông đồ: ’’Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.’’  (1 Pet. 3,15).
     Người Kitô hữu giáo dân đạo đức thời nay hiểu Kinh Thánh nhiều hơn những người Kitô hữu thuở xưa.  Quan tâm nhiều tới Kinh Thánh, người công giáo sẽ được Lời Chúa nuôi dưỡng trong cuộc sống hằng ngày.  Việc canh tân ấy biến giáo dân thành những người tín hữu năng động.   

Sám Hối
     Giáo Hội đã được Công Đồng Vatican II chuyển đổi từ một người mang tâm trạng đắc thắng và bảo thủ thành một nhân vật khiêm nhu và trong sáng.  Ta có thể nhìn thấy hoa trái của sự chuyển hóa này qua lời mời trong tông thư Tiến Về Ngàn Năm Thứ Ba (Tertio milennio adveniente), vào năm 1994, và tông thư  về Hiệp Nhất (Ut unum sint), vào năm 1995, của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi toàn thể Giáo Hội Công Giáo.  Đức Thánh Cha nêu lên nhiều ý kiến mới trong các tài liệu liên quan tới sự Hiệp Nhất, lấy vấn đề đối thoại để trắc nghiệm lương tâm con người.  ’’Sau các sai lầm đã vấp phạm, khiến chúng ta trở nên phân hóa trong suốt dòng lịch sử nhân loại, nhưng sự hiệp nhất Kitô giáo vẫn có thể trở lại như trước, miễn là chúng ta khiêm nhường nhìn nhận đã sai lầm, đã chống phản sự hiệp nhất, và vì thế cần sám hối.  Không chỉ sai lầm cá nhân cần được tha thứ và quên lãng, nhưng sai lầm liên hệ tới xã hội đã đóng góp vào việc gia tăng phân hóa, cũng cần được tha thứ và quên lãng.’’ (Ut unum sint 34).
     Suy xét lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ta có thể thấy rõ tác động và  đặc tính của Chúa Thánh Thần là ’’chứng minh các sai lầm của con người.’’ (Gioan 16,7-11).  Nhiều cuộc thảo luận ôn hòa đã diễn ra, chứ không chỉ dùng các văn kiện kêu gọi thống hối suông mà thôi.  Trong lúc Giáo Hội công giáo đang chuẩn bị đáp trả lời kêu gọi thống hối và hoà giải của Đức Thánh Cha về những sai lầm đã qua, gây nên tình trạng phân hóa, có lẽ Chúa Thánh Thần đã thực hiện một việc kỳ diệu bất ngờ, là làm cho bức tường Bá Linh sụp đổ vào năm 1989.
     Việc đối xử với dân Do Thái trong nhiều thế kỷ đang trở thành đề tài chính, buộc Giáo Hội Công Giáo phải tự kiểm điểm lại quyết định của mình.  Lịch sử mang ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy Giáo Hội canh tân.  Lầm lỗi chính là việc góp phần chống phản Israel, phủ nhận dân tộc Do Thái, vì cho rằng dân tộc này đã bị Thiên Chúa loại trừ.  Hành động của Giáo Hội làm cho người Do Thái  không trở lại, mà còn nâng cao đặc tính Do Thái giáo của họ.  Kết qủa là dân Do Thái và Dân Ngoại không thể hòa giải với nhau được, hầu có thể trở thành ’’một người mới’’ (Eph. 2,15), trong sự hiệp nhất với thân mình Đức Kitô. Với lý do trên, nhiều học giả đặc trách về hiệp nhất xác định rằng, sự phân hóa đầu tiên xảy ra sau ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chỉ vì hai từ ngữ Đền Thờ (Synagogue) và Thánh Đường (Church).  Việc làm này gây tổn hại lớn lao trong việc hiệp nhất Kitô giáo, vượt ra ngoài trí tưởng tượng của ta.
     Một thách đố khác tương tự đòi hỏi Giáo Hội Công Giáo cũng như giáo phái Tin Lành phải đương đầu, đó là việc các tín hữu Tin Lành lấy tinh thần Phúc Âm làm ưu tiên số một.  Đây là nguyên nhân tạo nên những căng thẳng to lớn tại các quốc gia mà ngưòi Kitô hữu công giáo và Chính Thống ồ ạt bỏ hàng ngũ để gia nhập Giáo Hội Tin Lành hoặc Giáo Hội Ngũ Tuần (Giáo Hội Phục Hưng Thần Ân). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, người Kitô hữu công giáo cũng như Tin Lành vẫn tìm hiểu và học hỏi những đặc điểm riêng của nhau, mặc dù bên này đổ lỗi cho bên kia là có xu hướng bảo vệ truyền thống và tôn trọng nền luân lý Kitô giáo qúa nghiêm ngặt, do đó họ không thể hợp tác được; trái lại, bên công giáo lại thú nhận là học được từ phiá Tin Lành và Nhóm Ngũ Tuần cách thức Phúc Âm Hóa cuộc sống; nhiều tín hữu bên Tin Lành thừa nhận là đã học được từ bên phía công giáo một ’’thế giới huyền bí’’ và vẻ tôn nghiêm trong lúc cử hành phụng vụ.

Người Nghèo và Kẻ Bị Đàn Áp.-
     Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội công giáo chú trọng đặc biệt tới người nghèo.  Các Đức Giáo Hoàng không ngừng nói đến trách nhiệm của ta đối với những người đau khổ và bị đàn áp.  Thế giới mỗi ngày càng thêm bất ổn, cuộc sống luôn luôn bị đe doạ, do đó kẻ nghèo túng và khốn khổ tiếp tục gia tăng.  Tuy nhiên, một số tu hội, điển hình như Hội Nữ Tử Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta sáng lập, hoặc tổ chức Nữ Tử Bác Ái do thánh Vicent de Paul thành lập, đã và đang hiến dâng trọn cuộc đời cho đa số quần chúng sống cảnh đói nghèo.  Nhờ hồng ân Năm Thánh và các đặc sủng của Chúa Thánh Thần, sẽ giúp cho việc tận hiến của các nữ tu đạt được nhiều thành qủa trong những năm kế tiếp.

Đức Maria Với Kỷ Nguyên Mới.-
     Trái tim người Kitô hữu công giáo rất gần gũi với Đức Maria.  Đó là một bằng chứng cụ thể cho thấy người đàn bà được mệnh danh là Đức Nữ Đồng Trinh, mà Thiên Chúa đã tuyển chọn như một khí cụ trong mầu nhiệm nhập thể, có một giá trị đặc biệt, đáng được tôn vinh và kính trọng.  Một số biến cố xảy ra trong suốt thế kỷ XX liên quan tới vai trò của Đức Mẹ đã gây nên nhiều dằng co căng thẳng.
     Một số người qủa quyết rằng thế kỷ XX là thế kỷ của Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội, ban hành năm 1950; một số người khác lại nghĩ rằng, thế kỷ XX là thế kỷ của những sắc lệnh thừa nhận các lần Đức Mẹ hiện ra, thí dụ như ở Fatima vào năm 1917.  Một số người khác nữa chỉ muốn, thế kỷ XX là thế kỷ của Hiệp Nhất, khi Công Đồng Vatican II quyết định dùng giáo điều Thánh Mẫu học đặt trong văn kiện của Giáo Hội.
     Tuy nhiên, các căng thẳng liên hệ đã sớm được giải quyết, và ta có thể tin chắc rằng Chúa Thánh Thần luôn luôn gìn giữ sự thánh thiện và lòng tôn kính của Giáo Hội đối với Đức Maria, đồng thời giúp người Kitô hữu hiểu biết thâm sâu về vai trò của Đức Mẹ đã được mô tả trong Kinh Thánh, để mọi người tôn vinh và kính trọng. Nhờ đó, ta sẽ có một cái nhìn rất rõ về vai trò của Đức Mẹ, người đã đáp lời mời của Thiên Chúa, thay thế dân tộc Do Thái, cưu mang và đem Đấng Messiah của Israel, và Đấng Cứu Độ nhân loại, vào trong thế gian.  Và cũng nhờ đó, ta có thể cảm nhận được Đức Maria cùng với Giáo Hội, là những khí cụ thiết thực của Chúa, đã và đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến.  Văn kiện của Công Đồng Vatican II đề cập tới Giáo Hội lữ hành chuẩn bị đón vương quốc sắp xuất hiện (chương VII) và về Đức Mẹ (chương VIII).  Một Giáo Hội đã được Chúa Thánh Thần canh tân, mới có thể thốt lên lời ’’Maranathal - Lạy Chúa, xin hãy đến -.  Chỉ người phụ nữ chất chứa niềm khát vọng Đấng Messiah của dân tộc Israel mới xứng đáng dành được chỗ đứng riêng biệt mà thôi.

50 Năm - Sau Công Đồng Vatican II.1

CÔNG ĐỒNG DÀNH CHO THIÊN NIÊN KỶ
Biến cố nổi bật nhất của Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ XX là Công Đồng Vatican II
diễn ra từ năm 1962 đến năm 1965.  Kể từ năm 1965, đời sống Giáo Hội Công Giáo được
quản trị bằng thần kiến và các giáo huấn cũng như những quyết định của Công Đồng.
Vì thế, ta không thể hiểu hết tầm mức quan trọng của Công Đồng Vatican II,
nếu chỉ nhìn vào thế kỷ XX.  Công Đồng Vatican II chấm dứt một kỷ nguyên
hậu Phong Trào Cải Cách Kitô Giáo Tây Phương đã do Công Đồng Trent
khởi xướng từ năm 1545 đến 1563.


Mở Cửa Tiến Tới Hiệp Nhất.-
    Thái độ chuyển đổi tại Công Đồng Vatican II chứng tỏ Giáo Hội Công Giáo muốn tiến lại gần các Giáo Hội Kitô Giáo khác.  Khi Giáo Hội Công Giáo phủ nhận Phong Trào Cải Cách Tin Lành, tức là khai mở một giai đoạn thù nghịch giữa hai bên.
     Những điều trong suốt 400 năm qua anh em Tin Lành quan tâm tới, thì lại bị Giáo Hội Công Giáo nghi ngờ, thí dụ như, anh em Tin Lành rất chú trọng tới Kinh Thánh, mời gọi mỗi cá nhân tín hữu phải có lòng tin duy nhất vào Đức Giêsu, xác nhận mọi Kitô hữu đều có thể lãnh chức tư tế (mục sư), mỗi cá nhân Kitô hữu phải tự quyết về hành động của mình theo lương tâm.
     Cùng một chiều hướng tương tự, thí dụ những điều Giáo Hội Tin Lành từ khước thì những người Kitô hữu Công Giáo tin và lấy làm rất vinh dự, như việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria và Bí Tích Thánh Thể, cũng như vấn đề trọng kính Đức Giáo Hoàng và quyền bính bao trùm vũ trụ của ngài.  Căn rễ giúp người Kitô hữu Công Giáo có một nền tảng đức tin là học hỏi Giáo Lý Công Giáo liên quan tới các thực hành nêu trên, nhưng bị người Kitô hữu Tin Lành bác bỏ và cho rằng nền tảng của người Kitô hữu là đức tin.
     Quyết định của Công Đồng Vatica II là tìm một giải pháp tiến tới sự hiệp nhất Kitô giáo.  Có thế nói, đây là một cuộc cách mạng do tác động của Chúa Thánh Thần.  Công Đồng dạy, nếu Giáo Hội muốn đổi mới thì cần phải tiến tới sự hiệp nhất.
     Kỷ nguyên chống Phong Trào Cải Cách Tin Lành rõ ràng đã đi vào dĩ vãng, qua lời tuyên cáo ghi trong sắc lệnh Hiệp Nhất:  ’’Chúa Kitô kêu gọi Giáo Hội, trên đường lữ hành, vì là một tập hợp những con người, nên Giáo Hội luôn luôn phải canh tân.’’ (Unitastis redintegratio 6).
 
     Thay vì một Giáo Hội bảo thủ và đắc thắng, ta thấy xuất hiện một Giáo Hội khiêm nhu, qua lời kêu gọi sám hối, do những lầm lỗi gây ra trong qúa khứ, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ.

Điểm Then Chốt của Công Đồng Vatican II.-
     Vatican II được gọi là Công Đồng canh tân.  Để tiến tới canh tân, Giáo Hội phải có một cuộc sống đặt Đức Kitô và Thiên Chúa Ba Ngôi làm nền tảng.  Văn kiện nòng cốt của Công Đồng Vatican II về Giáo Hội bắt đầu bằng một đoạn mô tả từng nhân vật thuộc Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:  ‘’Từ nay trở đi, Giáo Hội hoàn vũ được nhìn nhận như một con người phát xuất từ sự Hiệp Nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.’’ (Lumen Gentium 4).
     Canh tân phải được hiểu rằng, ta là con cái của Chúa Cha, ta sẽ được Chúa Thánh Thần đến ngự trị, khi ta liên kết với Đức Giêsu Kitô trong Mình và Máu Thánh của Người, tức là Giáo Hội.  Vì thế, cần xác định điều Công Đồng Vatican II nhấn mạnh là mỗi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh (Lumen Gentium, 4).
 
     Đó là điều từ trước tới nay vẫn bị phủ quyết và cho rằng người muốn nên thánh phải thuộc thành phần giáo sĩ hoặc tu sĩ.  Trong khi xác định lại đặc tính của những người mang tác vụ thánh, Công Đồng khước từ việc xếp loại những người Kitô hữu bằng hai giai cấp: trên là giáo sĩ và tu sĩ, dưới là giáo dân.
     Nhiều chi tiết được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh, nói lên tước vị cao trọng của tất cả những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa tội.  Các giám mục rất quan tâm và khuyến khích giáo dân tích cực tham gia đời sống và sinh hoạt của Giáo Hội.
     Điếu thứ nhất là việc người Kitô hữu giáo dân sốt sắng tham gia các lễ nghi phụng vụ; đó là cách thi hành tác vụ tư tế dành cho tất cả những người đã chịu phép Rửa tội: ‘’Giáo Hội vô cùng ước mong các tín hữu tham gia tích cực vào các nghi thức phụng vụ, vì đó là cách nói lên đặc tính của người Kitô hữu, một giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, một dân tộc thánh, một dân tộc đón nhận ơn cứu độ.’’ (1 Pet. 1,9,4-5), ‘’nhờ thế tâm trí họ liên kết với phép Rửa tội.’’ (Sacrosanctum concilium 14).
     Điều thứ hai nhấn mạnh tới ơn gọi của người Kitô hữu giáo dân tham gia tích cực sứ mạng của Giáo Hội.  Quan niệm ngày xưa cho rằng người giáo dân thi hành sứ vụ tông đồ với tư cách trợ giúp hàng giáo phẩm mỗi khi cần mà thôi.  Ngày nay, Hội Đồng Giám Mục coi sứ vụ tông đồ giáo dân như là cội rễ phát sinh từ phép Rửa tội:  ‘’giáo dân là những người được tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Đức Kitô; vì thế, là những người ở trong Giáo Hội và giữa lòng thế giới, nên họ có một sứ mạng riêng đối với toàn thể Dân Chúa.’’ (Apostolicam actuositatem 3).

Canh Tân Trong Kinh Thánh.-
     Các giám mục tại Công Đồng Vatican II muốn Lời Chúa trở thành cội nguồn vững mạnh hơn trong đời sống Giáo Hội.   Trước tiên phải đề cập tới các lễ nghi phụng vụ:  ‘’Kinh Thánh giữ một vai trò trọng yếu trong lúc cử hành phụng vụ… Kinh Thánh làm tăng thêm ý nghĩa các nghi thức truyền thống Đông cũng như Tây.’’ (Sacrosanctum concilium 24).  Trong lãnh vực học hỏi, ‘’Kinh Thánh là môn học chính yếu của khoa thần học thánh.’’ (Dei Verbum 24).  ‘’Tất cả các tín hữu nên thường xuyên đọc Kinh Thánh kèm theo lời cầu nguyện riêng, như thế, tức là có một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và người tín hữu.’’ (Dei Verbum 25). Nòng cốt việc canh tân Giáo Hội là vấn đề quan tâm đặc biệt tới Kinh Thánh.  Giáo lý công giáo dạy rằng:  ‘’Nơi Kinh Thánh, Giáo Hội không ngừng tìm được lương thực và sức mạnh cho mình, bởi vì Giáo Hội đón nhận Lời ấy không phải như lời của con người, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa.’’ (GLCG số 104). Chỉ Lời Chúa mới ban sự sống đích thực, mang đến cho ta nguồn hạnh phúc bất diệt từ Thiên Chúa Ba Ngôi.

Đặc Sủng và Tác Vụ.-
     Khi Giáo Hội nhấn mạnh tới ơn gọi nên thánh đối với tất cả mọi người Kitô hữu công giáo đã chịu phép Rửa tội, thì Giáo Hội cũng dạy rằng, mỗi người Kitô hữu phải giữ một vai trò trong đời sống Giáo Hội.  Muốn hoàn thành sứ mạng được trao phó, ta cần có các đặc sủng hay những ân huệ của Thiên Chúa.  ‘’Các đặc sủng phải được đón nhận với lòng biết ơn từ người đón nhận các đặc sủng ấy và bởi tất cả các thành viên của Giáo Hội.’’ (GLCG số 800).
     Thánh Phaolô tông đồ nói:  ‘’Thần Khí tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì lợi ích chung.’’ (1 Cor. 12,7).  Ban huấn từ cho các phong trào giáo dân tân lập nhân ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1998, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói:  ‘’Tại Công Đồng Vatican II, Giáo Hội tái khám phá chiều kích ơn đặc sủng là căn rễ của Giáo Hội.’’
     Cùng chiều hướng tái khám phá các đặc sủng, kể từ Công Đồng Vatican II, Giáo Hội nảy sinh nhiều ơn huệ và tác vụ khác nhau, thí dụ như trong lãnh vực phụng vụ, giáo dục và giáo lý, phục vụ người nghèo túng và đau khổ.  Vai trò của hàng giáo sĩ là nuôi dưỡng và chuyển đạt các ân huệ của Chúa, chia sẻ các tác vụ thích hợp cho giáo dân thi hành.  Một thân thể lành mạnh bao gồm tất cả các bộ phận và tứ chi hoàn toàn sống động.

Phục Vụ Thế Giới.-
     Công Đồng Vatican II cũng nhấn mạnh tới vai trò của người phục vụ trong thế gian.  Một số giám mục, đặc biệt là các giám mục từ thế giới đệ tam, đề cập nhiều tới ‘’Giáo Hội của người nghèo.’’ ‘’ Như Đức Kitô thi hành công cuộc cứu chuộc nơi người nghèo và bị đàn áp thế nào, Giáo Hội cũng được mời gọi đi theo đường lối ấy, nếu Giáo Hội muốn chuyển ban hoa trái ơn cứu độ cho nhân loại.’’ (Lumen Gentium 10).
     Công Đồng Vatican II tìm cách tái lập trong Giáo Hội tinh thần phục vụ, tức là theo gương sống của Đức Giêsu ‘’đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ.’’ (Mac. 10,45).  Như Đức Giêsu đến không phải để lên án, nhưng là để cứu rỗi, Giáo Hội cũng không lên án những kẻ hành động độc ác, nhưng kêu gọi với mục đích phục vụ tất cả mọi người.  ‘’Trong Hiến Chế Mục Vụ của Giáo Hội trong thế giới hiện đại diễn tả trọn vẹn tầm nhìn của Giáo Hội.’’ (Gaudium et spes).
     Trong ‘’Hiến Chế Mục Vụ’’ các giám mục giới thiệu với xã hội và toàn thể vũ trụ một tầm nhìn về kế hoạch của Thiên Chúa.  Đức Giêsu là Alpha và là Omega - là khởi đầu và là toàn thành trong tất cả mọi sự việc -.  ‘’Chúa là mục đích của lịch sử nhân loại, là tiêu điểm của mọi khát vọng văn minh, là trung điểm và là niềm vui của mọi tâm hồn, là sự viên mãn của mọi ước mong.’’ (Gaudium et spes 45).
   
Giáo Hội Trên Đường Lữ Hành.-
     Xét tới phạm vi canh tân và hoán cải của Công Đồng Vatican II, ta có thể nói, Giáo Hội mới chỉ thi hành được tới khoảng giữa ‘’tầm nhìn’’ này.  Khi khảo sát về bất cứ lãnh vực nào trong đời sống Giáo Hội, thí dụ như phụng vụ, Kinh Thánh, vai trò của người Kitô hữu giáo dân, hiệp nhất, giáo lý, phục vụ người nghèo và bị đàn áp, ta thấy rất rõ là Giáo Hội thực sự đã đi sâu vào con đường canh tân, nhưng muốn đạt tới mức thu hoạch to lớn, hoa trái cần phải chín đỏ.