CÔNG ĐỒNG DÀNH CHO THIÊN NIÊN KỶ
Biến cố nổi bật nhất của Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ XX là Công Đồng Vatican II
diễn ra từ năm 1962 đến năm 1965. Kể từ năm 1965, đời sống Giáo Hội Công Giáo được
quản trị bằng thần kiến và các giáo huấn cũng như những quyết định của Công Đồng.
Vì thế, ta không thể hiểu hết tầm mức quan trọng của Công Đồng Vatican II,
nếu chỉ nhìn vào thế kỷ XX. Công Đồng Vatican II chấm dứt một kỷ nguyên
hậu Phong Trào Cải Cách Kitô Giáo Tây Phương đã do Công Đồng Trent
khởi xướng từ năm 1545 đến 1563.
Mở Cửa Tiến Tới Hiệp Nhất.-
Thái độ chuyển đổi tại Công Đồng Vatican II chứng tỏ Giáo Hội Công Giáo muốn tiến lại gần các Giáo Hội Kitô Giáo khác. Khi Giáo Hội Công Giáo phủ nhận Phong Trào Cải Cách Tin Lành, tức là khai mở một giai đoạn thù nghịch giữa hai bên.
Những điều trong suốt 400 năm qua anh em Tin Lành quan tâm tới, thì lại bị Giáo Hội Công Giáo nghi ngờ, thí dụ như, anh em Tin Lành rất chú trọng tới Kinh Thánh, mời gọi mỗi cá nhân tín hữu phải có lòng tin duy nhất vào Đức Giêsu, xác nhận mọi Kitô hữu đều có thể lãnh chức tư tế (mục sư), mỗi cá nhân Kitô hữu phải tự quyết về hành động của mình theo lương tâm.
Cùng một chiều hướng tương tự, thí dụ những điều Giáo Hội Tin Lành từ khước thì những người Kitô hữu Công Giáo tin và lấy làm rất vinh dự, như việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria và Bí Tích Thánh Thể, cũng như vấn đề trọng kính Đức Giáo Hoàng và quyền bính bao trùm vũ trụ của ngài. Căn rễ giúp người Kitô hữu Công Giáo có một nền tảng đức tin là học hỏi Giáo Lý Công Giáo liên quan tới các thực hành nêu trên, nhưng bị người Kitô hữu Tin Lành bác bỏ và cho rằng nền tảng của người Kitô hữu là đức tin.
Quyết định của Công Đồng Vatica II là tìm một giải pháp tiến tới sự hiệp nhất Kitô giáo. Có thế nói, đây là một cuộc cách mạng do tác động của Chúa Thánh Thần. Công Đồng dạy, nếu Giáo Hội muốn đổi mới thì cần phải tiến tới sự hiệp nhất.
Kỷ nguyên chống Phong Trào Cải Cách Tin Lành rõ ràng đã đi vào dĩ vãng, qua lời tuyên cáo ghi trong sắc lệnh Hiệp Nhất: ’’Chúa Kitô kêu gọi Giáo Hội, trên đường lữ hành, vì là một tập hợp những con người, nên Giáo Hội luôn luôn phải canh tân.’’ (Unitastis redintegratio 6).
Thay vì một Giáo Hội bảo thủ và đắc thắng, ta thấy xuất hiện một Giáo Hội khiêm nhu, qua lời kêu gọi sám hối, do những lầm lỗi gây ra trong qúa khứ, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ.
Điểm Then Chốt của Công Đồng Vatican II.-
Vatican II được gọi là Công Đồng canh tân. Để tiến tới canh tân, Giáo Hội phải có một cuộc sống đặt Đức Kitô và Thiên Chúa Ba Ngôi làm nền tảng. Văn kiện nòng cốt của Công Đồng Vatican II về Giáo Hội bắt đầu bằng một đoạn mô tả từng nhân vật thuộc Thiên Chúa Ba Ngôi như sau: ‘’Từ nay trở đi, Giáo Hội hoàn vũ được nhìn nhận như một con người phát xuất từ sự Hiệp Nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.’’ (Lumen Gentium 4).
Canh tân phải được hiểu rằng, ta là con cái của Chúa Cha, ta sẽ được Chúa Thánh Thần đến ngự trị, khi ta liên kết với Đức Giêsu Kitô trong Mình và Máu Thánh của Người, tức là Giáo Hội. Vì thế, cần xác định điều Công Đồng Vatican II nhấn mạnh là mỗi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh (Lumen Gentium, 4).
Đó là điều từ trước tới nay vẫn bị phủ quyết và cho rằng người muốn nên thánh phải thuộc thành phần giáo sĩ hoặc tu sĩ. Trong khi xác định lại đặc tính của những người mang tác vụ thánh, Công Đồng khước từ việc xếp loại những người Kitô hữu bằng hai giai cấp: trên là giáo sĩ và tu sĩ, dưới là giáo dân.
Nhiều chi tiết được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh, nói lên tước vị cao trọng của tất cả những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa tội. Các giám mục rất quan tâm và khuyến khích giáo dân tích cực tham gia đời sống và sinh hoạt của Giáo Hội.
Điếu thứ nhất là việc người Kitô hữu giáo dân sốt sắng tham gia các lễ nghi phụng vụ; đó là cách thi hành tác vụ tư tế dành cho tất cả những người đã chịu phép Rửa tội: ‘’Giáo Hội vô cùng ước mong các tín hữu tham gia tích cực vào các nghi thức phụng vụ, vì đó là cách nói lên đặc tính của người Kitô hữu, một giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, một dân tộc thánh, một dân tộc đón nhận ơn cứu độ.’’ (1 Pet. 1,9,4-5), ‘’nhờ thế tâm trí họ liên kết với phép Rửa tội.’’ (Sacrosanctum concilium 14).
Điều thứ hai nhấn mạnh tới ơn gọi của người Kitô hữu giáo dân tham gia tích cực sứ mạng của Giáo Hội. Quan niệm ngày xưa cho rằng người giáo dân thi hành sứ vụ tông đồ với tư cách trợ giúp hàng giáo phẩm mỗi khi cần mà thôi. Ngày nay, Hội Đồng Giám Mục coi sứ vụ tông đồ giáo dân như là cội rễ phát sinh từ phép Rửa tội: ‘’giáo dân là những người được tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Đức Kitô; vì thế, là những người ở trong Giáo Hội và giữa lòng thế giới, nên họ có một sứ mạng riêng đối với toàn thể Dân Chúa.’’ (Apostolicam actuositatem 3).
Canh Tân Trong Kinh Thánh.-
Các giám mục tại Công Đồng Vatican II muốn Lời Chúa trở thành cội nguồn vững mạnh hơn trong đời sống Giáo Hội. Trước tiên phải đề cập tới các lễ nghi phụng vụ: ‘’Kinh Thánh giữ một vai trò trọng yếu trong lúc cử hành phụng vụ… Kinh Thánh làm tăng thêm ý nghĩa các nghi thức truyền thống Đông cũng như Tây.’’ (Sacrosanctum concilium 24). Trong lãnh vực học hỏi, ‘’Kinh Thánh là môn học chính yếu của khoa thần học thánh.’’ (Dei Verbum 24). ‘’Tất cả các tín hữu nên thường xuyên đọc Kinh Thánh kèm theo lời cầu nguyện riêng, như thế, tức là có một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và người tín hữu.’’ (Dei Verbum 25). Nòng cốt việc canh tân Giáo Hội là vấn đề quan tâm đặc biệt tới Kinh Thánh. Giáo lý công giáo dạy rằng: ‘’Nơi Kinh Thánh, Giáo Hội không ngừng tìm được lương thực và sức mạnh cho mình, bởi vì Giáo Hội đón nhận Lời ấy không phải như lời của con người, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa.’’ (GLCG số 104). Chỉ Lời Chúa mới ban sự sống đích thực, mang đến cho ta nguồn hạnh phúc bất diệt từ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đặc Sủng và Tác Vụ.-
Khi Giáo Hội nhấn mạnh tới ơn gọi nên thánh đối với tất cả mọi người Kitô hữu công giáo đã chịu phép Rửa tội, thì Giáo Hội cũng dạy rằng, mỗi người Kitô hữu phải giữ một vai trò trong đời sống Giáo Hội. Muốn hoàn thành sứ mạng được trao phó, ta cần có các đặc sủng hay những ân huệ của Thiên Chúa. ‘’Các đặc sủng phải được đón nhận với lòng biết ơn từ người đón nhận các đặc sủng ấy và bởi tất cả các thành viên của Giáo Hội.’’ (GLCG số 800).
Thánh Phaolô tông đồ nói: ‘’Thần Khí tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì lợi ích chung.’’ (1 Cor. 12,7). Ban huấn từ cho các phong trào giáo dân tân lập nhân ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1998, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: ‘’Tại Công Đồng Vatican II, Giáo Hội tái khám phá chiều kích ơn đặc sủng là căn rễ của Giáo Hội.’’
Cùng chiều hướng tái khám phá các đặc sủng, kể từ Công Đồng Vatican II, Giáo Hội nảy sinh nhiều ơn huệ và tác vụ khác nhau, thí dụ như trong lãnh vực phụng vụ, giáo dục và giáo lý, phục vụ người nghèo túng và đau khổ. Vai trò của hàng giáo sĩ là nuôi dưỡng và chuyển đạt các ân huệ của Chúa, chia sẻ các tác vụ thích hợp cho giáo dân thi hành. Một thân thể lành mạnh bao gồm tất cả các bộ phận và tứ chi hoàn toàn sống động.
Phục Vụ Thế Giới.-
Công Đồng Vatican II cũng nhấn mạnh tới vai trò của người phục vụ trong thế gian. Một số giám mục, đặc biệt là các giám mục từ thế giới đệ tam, đề cập nhiều tới ‘’Giáo Hội của người nghèo.’’ ‘’ Như Đức Kitô thi hành công cuộc cứu chuộc nơi người nghèo và bị đàn áp thế nào, Giáo Hội cũng được mời gọi đi theo đường lối ấy, nếu Giáo Hội muốn chuyển ban hoa trái ơn cứu độ cho nhân loại.’’ (Lumen Gentium 10).
Công Đồng Vatican II tìm cách tái lập trong Giáo Hội tinh thần phục vụ, tức là theo gương sống của Đức Giêsu ‘’đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ.’’ (Mac. 10,45). Như Đức Giêsu đến không phải để lên án, nhưng là để cứu rỗi, Giáo Hội cũng không lên án những kẻ hành động độc ác, nhưng kêu gọi với mục đích phục vụ tất cả mọi người. ‘’Trong Hiến Chế Mục Vụ của Giáo Hội trong thế giới hiện đại diễn tả trọn vẹn tầm nhìn của Giáo Hội.’’ (Gaudium et spes).
Trong ‘’Hiến Chế Mục Vụ’’ các giám mục giới thiệu với xã hội và toàn thể vũ trụ một tầm nhìn về kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Giêsu là Alpha và là Omega - là khởi đầu và là toàn thành trong tất cả mọi sự việc -. ‘’Chúa là mục đích của lịch sử nhân loại, là tiêu điểm của mọi khát vọng văn minh, là trung điểm và là niềm vui của mọi tâm hồn, là sự viên mãn của mọi ước mong.’’ (Gaudium et spes 45).
Giáo Hội Trên Đường Lữ Hành.-
Xét tới phạm vi canh tân và hoán cải của Công Đồng Vatican II, ta có thể nói, Giáo Hội mới chỉ thi hành được tới khoảng giữa ‘’tầm nhìn’’ này. Khi khảo sát về bất cứ lãnh vực nào trong đời sống Giáo Hội, thí dụ như phụng vụ, Kinh Thánh, vai trò của người Kitô hữu giáo dân, hiệp nhất, giáo lý, phục vụ người nghèo và bị đàn áp, ta thấy rất rõ là Giáo Hội thực sự đã đi sâu vào con đường canh tân, nhưng muốn đạt tới mức thu hoạch to lớn, hoa trái cần phải chín đỏ.