Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ (+ Năm Lẻ & Năm Chẵn)

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Étra 9,5-9; -Tobia 13,2-5.8, - Luca 9,16

 
                 Babilon thống trị miền Cận Đông trước triều đại Xyrô cả, vua Pesia tức nước Ba Tư ngày nay (từ năm 539 đến 530 trước Công Nguyên).  Vua Xyrô tin tưởng và hy vọng đời sống tinh thần cũng như vật chất của người Do Thái hồi hương sẽ đổi mới, nên vua Xyrô cho họ được tự do sống theo đường lối riêng. Và dân Do Thái tiếp tục tái thiết quê hương Giuđa của họ, nhất là xây lại Đền Thờ cũng như cải tiến tinh thần cộng đồng tôn giáo.

                 Là một thầy tư tế nhiệt thành và là một luật sĩ, Étra khởi xướng việc cải tiến tinh thần tôn giáo với mục đích cho phép dân Do Thái kết hôn với người cùng dòng tộc, hầu giúp họ xa tránh các ngoại nhân, mà ông cho là ‘’dơ bẩn’’.

                 Có lẽ chúng ta sẽ kết tội Étra về hành động bảo tồn nhân chủng, nhưng sở dĩ Étra làm thế, là vì ông hiểu rất rõ đời sống lăng loàn của người Do Thái.  Étra  nhận mọi lỗi lầm về phần mình, và tỏ ra hối hận, mục đích nhắc cho người Do Thái biết, chỉ có Chúa là Đấng làm chủ lịch sử, điều khiển vũ trụ và sáng tạo vạn vật, nên việc tái thiết Đền Thờ được kể là tối hệ trọng, vì đó là nơi người Do Thái qui tụ, quây quần trước nhan thánh Chúa và bảo vệ di sản tôn giáo.  Nếu ai không tuân hành lời Étra khuyên dậy, dần dần sẽ mất gốc và trở nên lạc lõng, bơ vơ.

                 Cuốn sách của Étra kể về một đám dân, tâm tính hầu như đã hoàn toàn thay đổi, tuy nhiên, họ vẫn còn giữ lòng qủa cảm là nhờ có một mẫu người lãnh đạo trong sạch.  Cũng như Môsê và Đavít, Étra thay cho dân mà ông hằng yêu mến và tin tưởng, cầu xin Thiên Chúa sai Đấng Kitô đến, vì họ đang trông đợi.

                 Ông phác họa một cuộc sống mới hầu mọi người có thể đáp lại lòng từ bi và thương xót của Chúa.  Đã bao lần chúng ta phản nghịch cùng Chúa, nhưng Người vẫn tha thứ, không từ bỏ.

                 Qua bài đọc hôm nay, chúng ta thấy rõ một đặc điểm: khởi đầu, chỉ có Étra đơn phương đứng ra nhận lỗi trước mặt Chúa, nhưng sau đó, một số đông đảo, rồi tất cả, đều nhận ra mình là nô lệ tội lỗi, cần đến lòng khoan dung của Chúa. 

                 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần nhận định rằng, con người gây nên tội lỗi là do ảnh hưởng của xã hội.  Nhưng, nếu hoàn toàn đổ lỗi cho tập thể thì không phải là cách giải quyết hữu hiệu nhất, tuy nhiên chúng ta cũng có trách nhiệm về những sai lầm, một phần do những người Kitô hữu chúng ta.

                 Cần xác nhận rằng, trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta vẫn sa ngã và vấp phạm, chưa thể xa tránh tội lỗi.  Và vì thế, trước nhất, tự xét mình để biết có phải chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm của yếu đuối không!

                 Étra muốn chúng ta noi gương Môsê, Đavít và Đức Giêsu, là những ngôn sứ đầy lòng can đảm của mọi thời đại, đã chấp nhận tất cả các thách đố để có thể xét định con người cũng như xã hội cách công minh và chính trực.

                 ‘’Lạy Chúa, Chúa đã hướng dẫn lương tâm vua Xyrô để ông mang lại chính nghĩa cho dân Chúa; xin Chúa cũng ban cho chúng con những trái tim nhân hậu.  Xin Chúa ban cho chúng con có được những nhà lãnh đạo tốt lành như vua Xyrô và thầy tư tế Étra.  Xin giúp chúng con biết đóng góp khả năng  mình vào việc thông truyền Nước Chúa đến mọi người.  Amen.’’
 
 
Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 9,1-6 

 
                 Nhóm Mười Hai đã được ưng tuyển, xức dầu và ban ân sủng.  Sau khi tuyển chọn kỹ lưỡng và tự mình trao ban ân sủng thánh cho Nhóm Mười Hai, Đức Giêsu sai các ông ra đi mang theo một nhiệm vụ rõ rệt:  trừ mọi thứ qủi, chữa lành bệnh nhân và rao giảng Tin Mừng.  Chính điểm sứ điệp của các Ngài là hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa.     
                 Các chỉ thị cụ thể và chính xác của Đức Giêsu là:  ‘’đừng mang gì đi đường - đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc; cũng đừng có hai áo.’’ (Luca 9,3).   Những môn đệ dũng cảm này là các tông đồ (nghĩa đen; những người được sai đi) tiên khởi.  Lời răn dậy của Đức Giêsu là khuyên nhủ các ông dựa vào lòng quảng đại, hiếu khách và hảo tâm của những người khác.
                 Các ngài là biểu hiệu của một tình yêu vị tha và tình yêu tận hiến cũng như tinh thần phục vụ của Đức Kitô, Đấng sẽ thay đổi bộ mặt thế giới.  Dân Do Thái có thói quen rũ sạch bụi từ đôi dép của mình khi rời khỏi lãnh thổ Dân Ngoại.  
                 Đức Giêsu truyền cho các môn đệ không được làm như vậy, nếu có rảo qua làng này đến địa hạt khác, mà bị người ta từ chối, không đón nhận sứ điệp của mình.  Đức Giêsu không để lại cho chúng ta một việc làm cho tính cách nghiêm trọng và khắt khe đòi hỏi phảì tập trung nỗ lực, hy sinh và cuối cùng là hiến toàn thể cuộc sống mình. 
                 Dietrich Honhoeffer (sinh năm 1906, qua đời năm 1945) là một trong số các nhà thần học tên tuổi của thời cận đại, đã hiểu rõ ý nghĩa việc trở thành một môn đệ.  Ông đã bị Đức Quốc Xã Nazis hành hình về tội đồng lõa trong âm mưu ám sát Adolf Hitler.  
                 Thuở sinh thời, ông đã từng là một nhà đấu tranh cho hòa bình và ông phải rời bỏ nước Đức với tư các là một nhân vật chống đối vì lương tâm, nhưng ông trở lại quê hương yêu dấu khi biết chắc chắn Hitler là một tên phản Kitô. Ông viết:  ‘’Khi Đức Kitô kêu gọi một người, Người mời người ấy đến để chết.  Có thể tôi là một cái chết giống như các môn đệ đầu tiên, những người đã rời bỏ gia đình và công ăn việc làm mà đi theo Chúa…[đó là cái chết của ông già]’’.
                 Sau cuộc mưu sát do Bonhoeffer chủ động, ông đã bị đưa tới giam giữ và treo cổ tại Flossenborg, một thời gian ngắn trước khi đệ nhị thế chiến chấm dứt.  Bonhoeffer hiểu, như các môn đệ đầu tiên đã hiểu, khi Đức Kitô kêu gọi chúng ta trở thành môn đệ của Người, tức là Người gọi chúng ta tự chết đi, hầu chúng ta có thể sống vì tha nhân.
                 Thiên Chúa không phải là một nhân vật thay thế tạm thời, nhưng Người phải được nhìn nhận như là trung tâm nguồn mạch sự sống chúng ta; đó cũng là ý của Đấng muốn được nhìn nhận khi chúng ta sống, chứ không phải chỉ khi sự chết đến; lúc chúng ta khoẻ mạnh, chứ không phải chỉ lúc chúng ta chịu đau khổ; trong những sinh hoạt của chúng ta, chứ không phải chỉ khi chúng ta sống trong tội lỗi.


Thứ Ba Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ & Năm Chẵn

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 8,19-21 

 
Dưới đây là bài dẫn trình của thánh Augustinô:

                 ‘’Tôi nài xin anh em hãy lắng nghe điều Chúa nhắn bảo, khi Người giơ tay ra chỉ các môn đệ của mình và nói:  Đây là mẹ tôi và đây là anh em tôi; và chính những ai làm theo Cha tôi trên trời là mẹ tôi.’’

                 ‘’Từ câu nói này chúng ta có thể suy ra rằng Đức Trinh Nữ Maria đã không làm theo ý Chúa Cha, Đấng vì lòng tin mà Bà vâng lời và thụ thai; là người đã được tuyển chọn để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại: và nhờ sự tạo dựng của Đức Kitô mà Đấng Kitô nơi Bà mới được tạo thành?

                 ‘’Qủa thực, Bà thực sự đã làm theo ý Chúa Cha, và đối với Bà làm môn đệ Đức Kitô còn hệ trọng hơn là làm mẹ Người.  Làm môn đệ Người con vui sướng hơn là làm mẹ Người.  Maria hồi ấy là người có phúc vì đã mang Chúa nơi mình trước khi sinh Người vào đời.

                 ‘’Nếu không đúng như tôi nói, thì Đức Chúa đã không du hành đó đây và dân chúng đã không đi theo Người.  Người làm một việc bằng sức mạnh thần thiêng, khiến người phụ nữ trong đám đông dân chúng phải thốt lên rằng:  Phúc cho dạ  đã cưu mang Ngài và vú đã cho Ngài bú. Nhưng họ lại không nghĩ được rằng ơn phúc nằm ở trong mối tương giao nơi cơ thể, như vậy thì Đức Chúa sẽ phản ứng ra sao?

                 ‘’Phúc hơn cho những ai nghe lời Thiên Chúa và giữ trong lòng, rồi đem ra thực hành.  Do đó, Đức Maria là người có phúc, vì Bà đã nghe lời Thiên Chúa và giữ trong lòng.  Lòng trí Bà tràn đầy tin tưởng, thân xác Người Con đang ngự trị trong cung lòng của Bà.    

                 ‘’Đức Kitô là sự thật.  Đức Kitô trở thành máu thịt con người.  Đức Kitô là sự thật trong tâm tư của Đức Maria, Đức Kitô trở nên máu thịt trong cung lòng Đức Maria.  Điều ở trong tâm tư của Maria thì cũng được đem tới nơi cung lòng của Bà.

                 ‘’Maria là Đấng thánh.  Maria đầy ơn phúc.  Tuy nhiên, Giáo Hội vĩ đại hơn Bà.  Lý do nào khiến tôi nói thế? Bởi vì Maria là thành phần trong Giáo Hội.  Bà là một thành viên thánh của Giáo Hội; bà là thành viên thánh; bà là thành viên trên tất cả mọi thành viên; nhưng Bà còn là một chi thể của toàn thân nữa.  

                   ‘’Và nếu là một chi thể của toàn thân, thì thân thể chắc chắn là to lớn hơn chi thể.  Đức Chúa là đầu, và toàn thể Giáo Hội là đầu các thành viên.  Tôi xếp đặt như thế là sao?  Chúng ta có một cái đầu thánh.  Chính Chúa là đầu của chúng ta.

                 ‘’Thưa anh em, xin lắng nghe cho kỹ; anh em là chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô, và anh em là thân thể Đức Kitô.  Vậy anh em hãy là người mà Đức Chúa nói:  Đây là mẹ tôi và đây là anh em tôi.  Nhưng làm thế nào để có thế chứng minh bạn là mẹ Đức Kitô?  Người nói tiếp:  chính những ai làm theo ý Thiên Chúa là anh tôi, là chị tôi, và là mẹ tôi.’’ (thánh Augustinô)

 

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ & Năm Chẵn

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng:  - Luca 8,16-18

 

                 Bài Tin Mừng hôm nay tuy ngắn, nhưng ngầm chứa một số ý nghĩa quan yếu khác nhau; trong đó có ba vấn đề khiến chúng ta cần lưu ý và thận trọng suy nghĩ. 

                 Vấn đề thứ nhất, liên quan tới ánh sáng.  Đức Giêsu hình dung ra một người thắp đèn, thay vì đem đèn đặt lên một cái bệ cao để ánh sáng có thể lan tỏa rộng rãi, người ấy lại làm một chuyện thật ngạc nhiên là lấy thùng che ánh sáng lại, hoặc đem đèn đặt dưới gầm giường.

                 Christina Rosetti, một thi sĩ người Anh cho rằng Đức Giêsu muốn dùng mẩu truyện này để khuyên nhủ tất cả những ai đi theo Người nên ‘’mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận ánh sáng Tin Mừng’’.  Đèn cần có ánh sáng chiếu soi vào tâm hồn tối tăm thế nào, thì Tin Mừng cũng cần thiết để chiếu sáng thế gian như vậy; vì thế, chúng ta không được phép dấu kín hoặc tìm cách làm cản trở việc loan báo Lời Chúa. 

                 Vấn đề thứ hai, liên quan tới việc rao giảng Tin Mừng.  Chúa muốn chúng ta tin vào Tin Mừng, vì đó là cách thu nhận hiệu năng và ảnh hưởng của Lời Chúa.  Tin Mừng có một sức mạnh công phá, không gì có thể cản ngăn được.  Tin Mừng có sức thu hút tự nhiên, được hình thành và quảng diễn khắp toàn cầu.

                 Charles de Foucauld có một lối trình bầy rất sâu sắc về Tin Mừng khi ông nói:  ‘’Mọi người nên dùng cả cuộc đời mình để loan truyền Tin Mừng của Chúa.’’  Còn thánh Phaolô thì viết:  ‘’Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng.’’ (1 Corintô 9,16).

                 Qua Tin Mừng, chúng ta thấy, mọi sự đã được tiết lộ, không việc gì còn ở trong bí ẩn, ngay cả những suy tư và toan tính cũng đều phơi bầy trước mặt Thiên Chúa. 

                 Vấn đề thứ ba, được kể là thiết yếu hơn, đó là việc trau giồi nghệ thuật nghe.  Thần học gia Hans Urs Bathsa viết:  ‘’Người không đặt vấn đề lắng nghe Lời Chúa lên hàng ưu tiên số một thì họ chẳng có gì để nói với nhân loại.’’  Lắng nghe tiếng Chúa, chúng ta mới suy đoán được các dấu chỉ thời đại và có đủ khả năng truyền đạt Lời Chúa đang nói với con người.

                 Đức Giêsu khuyên chúng ta suy xét kỹ xem chúng ta nghe như thế nào, để hiểu rõ chúng ta có thuộc thành phần biết lắng nghe không?  Chúng ta có nghe Chúa đang nói với chúng ta không?  Và Chúa đang nói gì?  Điều chắc chắn Chúa đang nói với chúng ta trong lúc này là:  hãy rao giảng và loan báo Tin Mừng của Chúa!

                 Nhưng, trước tiên, chúng ta phải tự đào luyện mình để trở thành một chiến sĩ Phúc Âm của Chúa, qua việc:  đọc, nghe, học hỏi, suy niệm, cầu nguyện và thực hành Lời Chúa mỗi ngày.

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa, để Lời Chúa soi dọi vào đời sống chúng con, hầu chúng con trở thành nhân chứng Tin Mừng Tình Yêu Chúa, đem nguồn vui ánh sáng đến cho thế gian.  Amen.’’

Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm B

Chúa Nhật 25 Thường Niên  - Năm B
Các bài đọc trích sách: - Khôn ngoan 2,12.17-20; - Thánh Vịnh 54,1-4.6;
- Giacôbê 3,16-4,3; - Máccô 9,30-37

 
Trên đường cùng các môn đệ tiến vào Giêrusalem lần cuối cùng để chịu thương khó, Đức Giêsu dạy cho các ông hiểu ý nghĩa vai trò đích thực của người môn đệ.  Hôm nay, chúng ta nghe đoạn Tin Mừng do thánh sử Máccô trình bầy, liên quan tới việc Đức Giêsu, lần thứ hai nói cho các môn đệ biết trước cuộc thương khó Người phải chịu. Mặc dù nghe Đức Giêsu kể, nhưng các môn đệ không hiểu Người muốn nói gì, vì các ông nghĩ, đó là một lời giảng dạy qúa cao siêu, phát xuất từ môi miệng Đấng Messiah, nên tất cả đều giữ thinh lặng. 

Một phần, có lẽ các ông vẫn đang nuôi hy vọng, khi Đức Giêsu cùng các ông đến Giêrusalem thì vương quốc nhà Đavít sẽ ló rạng.  Chính vì thế mà các ông mới tranh luận với nhau về vấn đề vai vế dành cho mỗi người tại vương quốc ấy. Các ông không dám hỏi Đức Giêsu, vì sợ mộng ước của mình không đạt.  Hơn nữa, khi nghe Đức Giêsu đề cập tới cuộc thương khó, bản năng tự nhiên và phản ứng có tính cách rất người, khiến các ông không muốn đối đầu với thập giá.   

Đáp lại ý nghĩ thầm kín của các ông, Đức Giêsu đem một em bé tới đặt giữa các ông.  Hành động của Đức Giêsu chẳng có gì đáng chú ý, vì đối với các ông, đứa trẻ không hẳn là biểu tượng của sự thơ ngây và khiêm nhường, nhưng số phận của các em giống như những kẻ không có quyền pháp chế, sống lay lứt giữa chợ đời vào thế kỷ đầu tiên tại Palestine. 

Đức Giêsu mời gọi các môn đệ suy nghĩ sâu xa về thái độ bất vụ lợi và tình trạng bất lực của con người.  Lấy tay ôm chặt em bé, mà em bé không phản ứng gì, chứng tỏ em bé hoàn toàn bất lực.  Em bé chẳng làm được gì lợi ích cho các môn đệ, nhưng một người tầm thường mà tiếp đón em bé cách nồng hậu, không ước mong được phần thưởng ở đời này, thì đó là một hành động tốt. 

Trong đoạn văn cổ ngữ Syrie (Aramaic) này, Đức Giêsu đã xử dụng chữ talya, có thể là muốn ám chỉ ’’người phục vụ’’’’em bé’’ là những người thuộc thành phần thấp cổ bé miệng nhất, nhưng đối với Đức Giêsu, họ là kẻ lớn nhất.  Đó là một tư tưởng cấp tiến, không chỉ trong thời Đức Giêsu, mà ngay cả hiện nay cũng thế.  

Ngoài ý tưởng muốn mỗi người hãy dùng em bé làm gương mẫu cho cuộc đời, Ðức Giêsu còn dạy chúng ta nên loại bỏ ý hướng trở thành tuyệt vời hoặc cao trọng nhất, mà thế giới ngày nay đang đua tranh nhau chiếm địa vị ấy trên tất cả mọi lãnh vực.  Nhìn chung quanh, chúng ta thấy, các đại siêu thị mọc lên nhan nhản cố ý tiêu diệt các chủ hàng quán nhỏ bé.  Nhiều quốc gia liên hợp nhau với dụng tâm nuốt trửng các tiểu thương gia địa phương. 

Sống tại các nước văn minh tân tiến, mau chóng và dễ dàng nhận được thông tin từ khắp nơi trên thế giới hơn những người sống tại các vùng quê xa xôi hẻo lánh, thiếu phương tiện thuận lợi.  Lịch sử chứng minh rằng, quyền năng và thống trị là mục đích của những cá nhân đầy tham vọng, điển hình là cuộc tranh biện gay go diễn ra giữa các môn đệ Đức Giêsu trên đường đến Giêrusalem vậy. 

Nhưng, để được xếp vào thành phần cao trọng nhất, theo tiêu chuẩn của Đức Giêsu, chúng ta phải trở thành nhỏ bé, thấp hèn như em bé và kẻ phục vụ.  Những người có quyền thế cần xét lại thái độ sống của mình.  Thành phần thấp cổ bé miệng, nên hiểu rõ giá trị của mình, là những người cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
 
              ’’Lạy Đức Giêsu, Ngài đã trở nên một trong số những người thấp hèn nhất, đó là kẻ phục vụ và em bé.  Xin giúp con luôn đồng hành với những kẻ không có quyền thế trong xã hội hôm nay.’’

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm Lẻ (+ Năm Lẻ & Năm Chẵn)

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - 1 Tim 6,13-16; - Thánh Vịnh 100,2-5; - Luca 8,4-15

 
                 Sau khi khuyên dậy Timôthê cách sống, để có một cuộc đời thánh thiện và trở thành một mục tử tốt lành, Phaolô nghiêm chỉnh chỉ thị cho Timôthê tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa, đừng để những chuyện tệ hại có thể xẩy ra.

                 Phaolô nói đến việc Đức Giêsu trình diện trước mặt quan Pontiô Philatô, để nhắc cho Timôthê biết, Timôthê cũng như tất cả mọi tín hữu sẽ phải bước trên cùng một con đường giống như thế.

                 Trước mặt Philatô, Đức Giêsu tỏ ra rất trung thành với sứ mạng làm chứng Nước Thiên Chúa.  Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi đi theo Đức Giêsu để làm chứng cho Sự Thật Tin Mừng, cùng bầy tỏ thái độ im lặng khi đứng trước mặt các lực lượng thù địch.

                 Khi gặp gian nan thử thách, nếu chúng ta biết quay về với Đức Giêsu thì Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để giữ lòng trung tín và vâng phục như Người.  Trong khi chờ đợi Đức Giêsu đến, chúng ta cũng cần gắng công ráng sức xa tránh các tệ trạng diễn ra trong cuộc sống hằng ngày.

                 Trông chờ và hy vọng vào ngày Đức Giêsu đến, thúc đẩy chúng ta gia tăng sống cuộc đời thánh thiện hơn, mặc dù gặp gian chuân, thử thách và chống đối; khi sự dữ xuất hiện…, cuối cùng bị tiêu diệt, thì chúng ta biết là chương trình hoạt động của Thiên Chúa đã hoàn tất.

                 Phaolô kết thúc lá thư bằng lời chúc tụng Thiên Chúa, đồng thời nhắc nhở chúng ta nghĩ tới vinh quang tuyệt vời của Người, và hình dung ra khung cảnh được chia sẻ vinh quang ấy với Người, nhờ thế, chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận Thiên Chúa và mong đợi một cuộc sống vĩnh cửu với Người; tuy nhiên, chỉ suy nghĩ và tìm hiểu Thiên Chúa là ai thôi, thì tâm hồn chúng ta đã cảm thấy hân hoan và vui sướng vô cùng rồi, và tưởng như mình đang được tắm gội trong ân phúc tràn trề. 

                 Thiên Chúa là Đấng tạo dựng tuyệt hảo và là Chúa mọi loài, mọi vật.  Người là Đấng hoàn toàn thánh thiện, và không một ai trong chúng ta xứng đáng tiến lại trước tôn nhan Chúa để chiêm ngưỡng vinh quang Người.

                 Vì lòng nhân từ bao la, Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta biết Người và mời gọi chúng ta tìm hiểu Người.  Chưa một ai được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng trong Đức Giêsu, Con yêu dấu của Người, Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta thấy chính Người, đồng thời hiểu biết bản tính yêu thương của Người.

                 Nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu, chúng ta có thể giao hòa với Thiên Chúa, và tiến lại trước mặt Người với lòng tin tưởng chắc chắn tội lỗi chúng ta được tha thứ.  Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa để chia sẻ cuộc sống Ba Ngôi Thiên Chúa ngay ở đời này.

                 Các chân lý vừa kể có thể giúp chúng ta thêm phấn khởi và cố gắng sống cuộc đời tốt lành, trong khi chờ đợi được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.  Khi suy ngẫm những điều trên, tâm hồn chúng ta tràn ngập vui sướng và biết ơn, phản ánh lời Thánh Vịnh sau đây:
                 ‘’Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài; thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?  Chúa làm cho con người chẳng thua kém Chúa là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên.’’  (Thánh Vịnh 8,3-5).



Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 8,4-15


Bài Tin Mừng hôm nay làm nổi bật tính thiết thực đầy thú vị đối với các thánh của Giáo Hội.  Các ngài là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn, một vật chướng ngại cho thế gian và thường là người bị nguyền rủa.  Herold Antipas, ông vua chư hầu của Galilê, là người vừa tò mò, muốn biết về Đức Giêsu, lại vừa bị Người lên tiếng cảnh giác và đe dọa – lối sống, và sứ vụ của Người đã gây nên nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi dữ dội tại phiên tòa cũng như trong nhân dân.  
Vậy Người ấy là ai?  Có phải ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy?  Có phải ông Êlia tái xuất hiện?  Vậy thì ông này là ai mà tôi nghe đồn những chuyện như thế?  Vua cần biết (Luca 9,9).  Những thắc mắc kia đã vang vọng qua mọi thời đại, không chỉ liên hệ tới Đức Giêsu mà còn có quan hệ cả tới các thánh và những vị anh hùng đức tin nữa.
Francesco Fogione được phong thánh ngày 16 tháng 6 năm 2002 với tước hiệu là Piô Pietrelcina, là một dấu chỉ của người lội ngược dòng nước, giống như Sư Phụ mình là Đức Giêsu Kitô.  Thánh Piô Pietrelcina sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887 trong một gia đình nông dân nghèo, tại làng Pietrelcina và gia nhập Dòng Capuchin lúc mười lăm tuổi.  Ngày 20 tháng 9 năm 1902 ngài đã trải qua một kinh nghiệm làm thay đổi cuộc đời mình.  
Ngài nghe một tiếng nói bên tai rằng, ngài sẽ gặp tai biến và bị đóng đinh vào thập giá như thánh Phanxicô Assisi.  Năm 1915, trong lúc cầu nguyện, Padre Piô nhận được những vế thương (dấu đóng đinh của Đức Giêsu), nhưng không ai nhìn thấy các dấu thánh này cho đến năm 1918, tức là đúng ba năm sau, ngài lại được nghe tiếng nói lúc ban đầu.  
Ngài đã mang dấu đóng đinh suốt năm mươi năm kế tiếp, và ngài cảm nhiệm đó là một gánh nặng và cực hình. Ngài qua đời lúc được tám mươi mốt tuổi, và các dấu thánh cũng biến mất, mà không để lại thương tích trên da thịt ngài.  Padre Piô thực là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn – ngài đã bị cáo buộc là một kẻ lừa gạt, một kẻ bất tài mà hay lòe bịp, một nhân vật qúa khích và là kẻ mắc chứng nghi bệnh. 
Năm 1947, người thanh niên tên Karol Wojtyla (tức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II) đến Pietrelcina xin được xưng tội với Padre Piô.  Karol rất ấn tượng về sự thánh thiện của Padre Piô, nên đã xin ngài cầu nguyện cho một người bạn đang nửa sống nửa chết vì bệnh ung thư cổ họng.  Mười một ngày sau, Wanda Polawska được xét nghiệm y khoa và được biết là đã lành bệnh một cách khó hiểu.
Padre Piô là một vị thánh vĩ đại của Giáo Hội.  Giống như Đức Giêsu, là Chúa và là Sư Phụ của mình, ngài đã trải qua những đau khổ, hiểu lầm và bị vu khống chỉ vì là chứng nhân tình yêu và lòng thương xót.
‘’Thế giới có thể tồn vong mà không cần mặt trời, nhưng không thể tồn vong nếu thiếu Thánh Lễ (tức Thánh Thể).  Trong Thánh Thể tôi được thiêu đốt bằng ngọn lửa Tình Yêu Thánh Thiện.  Mặt tôi dường như rực sáng lên.’’ (Padre Piô).

 

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm Lẻ & Năm Chẵn

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 8,1-3

 

                 Bây giờ Đức Giêsu bắt đầu một chuyến rao giảng - sứ vụ của Người thật rõ ràng và minh bạch, đồng thời Người đã tập trung nỗ lực vào việc loan báo vương quốc Thiên Chúa.  Đức Giêsu đã tẩy chay hoặc thay đổi nhiều tập quán thời bấy giờ - đặc biệt là các thói tục gây tổn hại cho con người.                

                 Một giáo sĩ thời Đức Giêsu không được phép cho các phụ nữ di hành với mình - về mặt tôn giáo cũng như xã hội, phụ nữ là thuộc hạ của nam giới.  Những suy nghĩ của Đức Giêsu vượt ra xa loại thành kiến ấy.  Chúng ta không nghe nói gì thêm về bà Susanna hoặc bà Gioanna (vợ ông Khuda) và nhiều bà khác nữa, ngoài việc các bà tận tâm hỗ trợ sứ vụ của Đức Giêsu, bằng những phương tiện riêng (Luca 8,3). 

                 Đức Giêsu không thể biến đá thành bánh, nước thành rượu hoặc kêu cầu Cha TrênTrời mưa manna từ trời xuống, mà chỉ cậy nhờ vào công tác phục vụ khiêm tốn của một số bà mà thôi.  Công việc của họ được chia đều:  trong đó Đức Giêsu có ít nhất mười sáu đoàn tùy tùng, nhưng Luca cho chúng ta biết ’’còn nhiều người khác’’ nữa.

                 Một khía cạnh nào đó, chúng ta có thể hiểu, các phụ nữ này là thành phần tiên phong đối với hàng triệu triệu phụ nữ đã từng hiến thân phục vụ Đức Kitô và dân Người, suốt chiều dài lịch sử nhân loại. 

                 Định kiến phân chia giới tính tại Israel thuở ấy khiến các phụ nữ không có được cái quyền tối thiểu là làm nhân chứng trong một vụ án toà – mà lời chứng của họ rồi cũng phải được người khác xác minh. Hai phụ nữ đã từng có dịp đồng hành với Đức Chúa là bà Maria Mađala và bà Gioanna, những người thực sự là chứng nhân đầu tiên của Đức Giêsu phục sinh (Luca 24,10).

                 Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ (Sách Sáng Thế 1,26-27), với những khác biệt riêng, nhờ đó mới có được các cách thế duy nhất để mỗi cá nhân phục vụ Chúa hữu hiệu hơn.  Một số người (ngay cả thời nay) chấp nhận quan điểm cho rằng vì Eva xuất thân từ chiếc xương sườn của Adam, nên phụ nữ trở thành một phần phụ!

                 Suy nghĩ như vậy thực sự là sai lầm và trái với tinh thần Tin Mừng.  Do đó, cần kêu xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm hồn. để chúng ta biết thẩm định cách chính xác về các đóng góp mà phụ nữ đã phục vụ cho sứ vụ của Đức Kitô và Giáo Hội của Người trong suốt giòng lịch sử loài người.

                 ’’Chắc hẳn là Thiên Chúa Toàn Năng rất được các phụ nữ vô cùng yêu mến, bởi vì Người đã không coi thường mình được sinh ra bởi một người đàn bà.   Do đó, Người đã ban vinh dự và tước vị thật cao trọng cho phụ nữ, đến nỗi không một người thuộc nam giới nào đã thành hôn mà được phép gọi là Cha Thiên Chúa, trong khi một phụ nữ lại được phong tặng danh hiệu gọi là Mẹ Thiên Chúa.’’ (Thánh Hug Lincoln)

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm Lẻ (+ Năm Lẻ & Năm Chẵn)

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - 1 Timôthê 4,12-16; - Thánh Vịnh 111,7-10; - Luca 7,36-50

 
                 Triết gia Cicero thầm nghĩ:  ‘’Nếu tôi nhìn nhận tâm tính của người trẻ chứa một chút tâm tính của bậc lão thành, thì tôi không thể phủ nhận tâm tính của bậc lão thành không pha trộn một chút tâm tính của người trẻ.’’  Cicero hài long về lối suy nghĩ của mình, cũng như thánh Phaolô hài lng khi có được Timothê. Timothê được một Vị Lão Thành (tức Đức Giám Mục) bổ nhiệm lúc ông mới ba mươi lăm tuổi – một số học giả nghĩ rằng có lẽ trẻ hơn.  Việc bổ nhiệm Timôthê là một đề tài tranh cãi gay cấn đến nỗi dường như tạo sự bất hòa trong Giáo Hội thời bấy giờ.       

                 Thánh Phaolô là người không phân biệt tuổi tác.  Ngài biết, Thiên Chúa muốn nâng bất cứ ai lên để phụng sự Người và phục vụ tha nhân, là do ý riêng của Người.  Ngài cũng hiểu rằng nhờ ơn Chúa, người trẻ sẽ nhận được trí khôn minh mẫn, một tâm hồn trong sang.  Đối với thánh Phaolô, vấn đề tuổi tác không gây trở ngại trong việc làm chứng Lời Chúa.

                 Thánh Phaolô cho Timôthê biết: phương thế diệt trừ các lời chỉ trích, bình phẩm và đàm tiếu hữu hiệu nhất là bình thản tiếp tục lối sống của chính mình.  Bằng kinh nghiệm riêng, thánh Phaolô khuyên Timôthê ‘’nêu gương sáng cho các tín hữu trong lời nói, cách ăn nết ở qua đức bác ái, đức tin và đức khiết tịnh.’’ (1 Timôthê 4,12). 

                 Mặc dù không ở trong hoàn cảnh của Timôthê, nhưng mỗi người trong chúng ta có bổn phận sống tốt để ánh sáng Đức Kitô chiếu dọi khắp nơi, và làm chứng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đơì sống hằng ngày. Bằng lối sống gương mẫu, chúng ta sẽ làm cho những kẻ ưa phê phán và đoán xét phải im hơi lặng tiếng. Tuy nhiên, chúng ta cần dũng cảm tử vấn mình:  ‘’Tôi thuộc về loại chứng nhân nào?

                 Ôn lại thời gian ngồi tù tại Chí Lợi, bị tra tấn và hành hạ rất tàn ác, Tiến sĩ Sheila Cassidy kể như sau:  ‘’Ngày tôi rời bỏ Chí Lợi, một trong các bạn tù của tôi bảo tôi rằng, từ khi quen biết tôi, họ nhận thấy quan niệm của tôi về đạo công giáo xuống thấp như chưa từng xảy ra bao giờ. Lời bình phẩm này làm tôi cảm thấy bị tổn thương rất nhiều, không chỉ vì tôi là một phụ nữ đã được nhiều người mến mộ, nhưng tự nghĩ rằng, tôi đã tỏ ra là một chứng nhân tốt của Đức Kitô giữa những cá nhân theo chủ nghiã Mácxít.  Tuy nhiên, tôi quyết định không đề cập tới thời gian ở tù nữa.  Tôi tự khiển trách mình vì đã xưng mình là người Kitô hữu nhưng không đủ can đảm hành động như một người Kitô hữu.’’

                 Tiến sĩ Cassidy suy nghĩ thật kỹ để cố tìm một phản ứng thích đáng sau lời chỉ trích nặng nề của một số bạn tù; kết quả là bà đã bày tỏ cảm nhận của mình qua cuốn sách mang tựa đề:  ‘’Dám Tin – Audacity to Believe’’.

                 ‘’Lạy Chúa, con muốn là một chứng nhân.  Con muốn chân lý của Chúa chiếu tỏa khắp nơi.  Xin Chúa ban cho con ơn thay đổi, ơn làm chứng nhân và ơn đem ánh sáng Tin Mừng của Chúa đến mọi nơi.  Amen.’’  
 
Thứ Năm Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 7,36-50
 
Tin Mừng, nếu hiểu đúng, là lời phỉ báng, gây xúc động và thái qúa, nhưng tràn đầy ân sủng.  Khi đọc, chúng ta đưa tâm hồn bay lượn quanh các ý tưởng nêu trên.  Chúng ta cần hiểu, Đức Giêsu đến để thay đổi bộ mặt trần gian bằng một cuộc cách mạng – dĩ nhiên không phải là một cuộc cách mạng bạo động, nhưng là một cuộc cách mạng ban ân sủng.     
                 Nếu không hiểu hoặc cảm nhận rõ ân sủng Thiên Chúa, thì chúng ta đang rơi vào trạng thái đánh mất chính mình.  Nếu phải diễn tả bản chất của Tin Mừng bằng mười từ ngữ thôi, thì chúng ta sẽ viết và nói ra những điều gì?  Chúng ta sẽ bắt đầu như thế nào:  hãy đọc Tin Mừng Luca, đoạn 7, từ câu 36 đến 50.
                 Có lẽ chúng ta chẳng khác người pharisêu trong bài Kinh Thánh hôm nay đâu:  chúng ta dễ phạm tội hoặc rơi vào sai lầm vì những chuyện rất thông thường – Tội lỗi hoặc sai lầm ấy được kể là tội lỗi do tính xác thịt gây nên.  Báo chí và đặc biệt vài tờ báo lá cải thường đăng các tin nóng bỏng, dâm ô và một số tiểu truyện bi đát, mà trong đó những mối tình vụng trộm được phơi bầy và thêu dệt để đọc giả tha hồ bàn tán, chế riễu, giầy vò và cắn xé nạn nhân.
                 Trở về với bài trình thuật Tin Mừng của chúng ta:  rất có thể, nhưng chưa hẳn đã hoàn toàn đúng, khi nói tới một đời sống tội lỗi, người pharisêu ám chỉ một thứ tội thuộc loại tình dục.  Người phụ nữ kia là một người đàn bà bị mang tiếng xấu hoặc là một gái mại dâm, chúng ta chưa biết chính xác.  Dù sao thì người phụ nữ đã bị một số cá nhân xa lánh và xem thường.
                 Luca cho chúng ta một cơ hội trọn hảo để chứng kiến việc Thiên Chúa ban ân sủng và bầy tỏ lòng thương xót cùng nhân loại. Simon, một người pharisêu đã trải nghiệm một giáo huấn thật giá trị - ông học được một cái gì đó ở nơi chính mình, ở nơi người khác và ở nơi Thiên Chúa.  Dụ ngôn của Đức Giêsu về ‘’món nợ’’ đúng ra là một dụ ngôn liên quan tới ‘’ân sủng’’.  Con người thực sự thiếu ân sủng và vinh quang Thiên Chúa. 
                 Những ai rơi vào vòng nghiện ngập, hoặc chìm đắm trong dục vọng hay đang bị ám ảnh bởi bất cứ loại tội lỗi nào, hình như cần tới ơn cứu độ hơn những người không vướng tới các tệ trạng nêu trên.  Simon, người pharisêu đã cảm nhận giáo huấn, mà Đức Giêsu ban cho người phụ nữ cũng như cho chính mình.  Một điều đáng ghi nhận là đúng, khi ông suy nghĩ và xác nhận:  người được tha nhiều hơn là người đã yêu mến nhiều hơn.   
                 ‘’Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin giúp con nhận biết con cần ân sủng và lòng thương xót Chúa đến thế nào.  Xin giúp con hiểu rõ con đã được tha thứ tới mức độ ra sao, hầu con có thể yêu mến Chúa hơn và tận tâm đem lòng thương xót Chúa đến với đồng loại của con.’’
  

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm Lẻ & Năm Chẵn

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: - Luca 7,31-35



Đức Giêsu so sánh những kẻ không chấp nhận chương trình hoạt động của Thiên Chúa với đám trẻ cứng đầu, ương ngạnh, luôn muốn thực hiện mọi việc theo ý riêng mình.  Đối với chúng, chẳng có gì là đúng:  Gioan Tẩy Giả sống qúa khổ hạnh, còn Đức Giêsu lại qúa thân thiện với quân thu thuế và phường tội lỗi.  Vấn đề đặt ra là cả Gioan Tẩy Giả cũng như Đức Giêsu đều không ủng hộ quan niệm của họ về tôn giáo, do đó các Ngài kêu gọi họ thay đổi tâm hồn và lối sống. 

Sau khi nghe Lời Đức Giêsu nói hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi lòng mình để biết, đã có bao nhiêu lần chúng ta cũng không đón nhận chương trình hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày.  Chúng ta sẽ có cảm giác ra sao khi cầu nguyện mà không được đáp trả như lòng chúng ta mong ước.  Chúng ta muốn là những người tín hữu hành động theo ý mình hay theo ý Thiên Chúa?  

Tiêu điểm các Lời Đức Giêsu nói là Đức Khôn Ngoan:  ‘’Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.’’ (Luca 7,35).  Vậy Khôn ngoan là gì?  Người Hy Lạp sử dụng từ ngữ Sophia, nghĩa là hiểu biết trong tương quan với Thiên Chúa.  ‘’Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của khôn ngoan.’’ (Châm Ngôn 9,10).  ‘’Chính Đức Kitô là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.’’ (1 Côrintô 1,24). ‘’Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn hay triết lý cao xa, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.’’ (1 Côrintô 2,1-6).  

‘’Khôn ngoan tác động mạnh nơi một cá nhân và nhờ đó tâm hồn biết lắng nghe và phân biệt phải trái.’’ (1 Vua 3,9), giúp chúng ta đối xử với mọi người bằng thái độ kính trọng và khiêm nhu, để cầu nguyện và trân trọng Lời Chúa.

Khôn ngoan tương quan tới vấn đề vâng theo ý Chúa, khiêm tốn dò xét đời sống của mình và ăn năn tội lỗi.  Người khôn ngoan, vì tiết lộ cuộc đời Thiên Chúa cho thế gian biết, có thể sẽ bị hiểu lầm và bị loại trừ như Đức Giêsu.    

Chúng ta có thể học được gì qua sự kiện này?  Chúng ta nhận được ân sủng khôn ngoan từ Thần Linh, và nếu chúng ta sống theo lời hướng dẫn của Đấng Thánh có thể chúng ta sẽ phải chịu thử thách nặng nề do những người chung quanh gây nên.  Và nếu bày tỏ niềm tin của mình ở khắp mọi nơi, từ trong gia đình cho đến chỗ làm việc, thì có thể chúng ta sẽ bị khinh bỉ hoặc tẩy chay.

Lời Đức Giêsu là một khích lệ lớn lao giúp chúng ta kiên tâm trong những giờ phút khó khăn, vì con người sẽ bị sự thật, lòng khiêm tốn và trung tín với Tin Mừng chinh phục.
 
                 ’’Lạy Chúa, xin dậy con biết phục vụ Chúa như Chúa phục vụ tha nhân:  cho mà không tính toán hơn thiệt, chiến đấu mà không quan tâm tới các thương tích, làm ăn vất vả nhưng không tìm sự nghỉ ngơi, say mê lao động mà không màng tới được khen thưởng; cũng xin giúp chúng con làm mọi việc theo ý Chúa.’’

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm Lẻ & Năm Chẵn

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 24 Thường Niên 
-  Năm Lẻ & Năm Chẵn * Tin Mừng: -  Luca 7,11-17

                                            
Vui mừng biết bao khi dân chúng thấy Đức Giêsu nâng người thanh niên thành Nain sống dậy từ cõi chết, đoạn trao anh ta lại cho bà mẹ.  Bà góa kia khó có thể tin được rằng con trai bà sống lại thật và đang nói chuyện với bà.  Đám đông dân chúng kinh sợ và dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.

Phép lạ này làm cho tâm hồn chúng ta vô cùng hoan hỉ, vì đã tỏ rõ Đức Giêsu là Chúa Sự Sống, có quyền năng trên sự chết, đồng thời biểu lộ lòng nhân từ và hay thương xót của của Thiên Chúa.  Đám đông dân chúng hoàn toàn có lý khi lên tiếng tung hô:  ‘’Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.’’ (Luca 7,16).

Khi Đức Giêsu đến, thì vương quốc Thiên Chúa, tức là triều đại Thiên Chúa Cha hiện diện trong thế giới chúng ta.  Quyền năng vương quốc Satan, đã từng kìm kẹp nhân loại trong tội lỗi kể từ lúc sa ngã, sẽ bị hủy diệt. Các dấu hiệu quen thuộc mà chúng ta biết về vương quốc satan như:  tội lỗi, xung đột, đau khổ và hơn tất cả là sự chết.

Đức Giêsu đến với mực đích tiêu diệt các việc làm của ma quỉ và giải thoát những ai đang nằm dưới ách thống trị của chúng.  Việc nâng kẻ chết sống lại nói lên rằng Thiên Chúa đang hoạt động giữa con người theo thể cách hoàn toàn tiến bộ và mạnh mẽ.  Vương Thiên Chúa đến có nghĩa là Đức Giêsu dùng quyền năng để tiêu diệt tội lỗi trong đời sống con người và giải thoát chúng ta ra khỏi sự chết.

Thật là một tin vui, nhưng làm cách nào để chúng ta có thể liên hệ điều ấy vào cuộc sống hằng ngày của mình?  Mỗi người chúng ta đều có cảm giác giống như người thanh niên đang được khiêng đi chôn.  Trong một số lãnh vực nào đó, có thể nói, chúng ta đã chết.  Tội lỗi đã tàn phá hoàn toàn hay một phần con người chúng ta.

Có lẽ là vì chúng ta đã không còn tiếp tục cầu nguyện hoặc đọc Kinh Thánh.  Có lẽ là vì chúng ta không chia sẻ với tha nhân những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, tức là chúng ta hoàn toàn thinh lặng, không đề cập gì đến Đức Giêsu: từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.  Có lẽ là vì chúng ta đã mất khả năng yêu thương.  Trong từng hoàn cảnh nêu trên, Đức Giêsu có thể đến và đụng chạm vào sự chết nơi chúng ta.  Khi chúng ta trở về với Người trong tin yêu chân thành và khiêm nhường thống hối vì tội lỗi của mình, thì Người có thể nâng chúng ta lên với cuộc sống phục sinh của Nguời.     

‘’Đức Giêsu Kitô vẫn là một:  hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.’’ (Do Thái 13,8).  Quyền năng của Người hôm nay cũng giống như ngày ấy tại Nain.  Người săn sóc và yêu mến chúng ta mãnh liệt như bà goá đối với con mình.  Trong tâm tình nghèo khó, chúng ta cần mở rộng tâm hồn đón nhận Đức Giêsu, hầu có thể trải nghiệm cuộc sống trong Người và một niềm vui không bao giờ phai nhạt. 

                 ‘’Lạy Cha, chúng con cảm tạ vì Con Cha đã dùng quyền năng mà giải thoát chúng con khỏi sự chết và ban cho chúng con cuộc sống mới trong Thánh Thần.  Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và làm chủ đời sống chúng con hiện nay.’’