Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường
Niên -
Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Étra 9,5-9; -Tobia
13,2-5.8, - Luca 9,16
Babilon thống trị miền Cận Đông trước triều đại Xyrô
cả, vua Pesia tức nước Ba Tư ngày nay (từ năm 539 đến 530 trước Công Nguyên). Vua Xyrô tin tưởng và hy vọng đời sống tinh
thần cũng như vật chất của người Do Thái hồi hương sẽ đổi mới, nên vua Xyrô cho
họ được tự do sống theo đường lối riêng. Và dân Do Thái tiếp tục tái thiết quê
hương Giuđa của họ, nhất là xây lại Đền Thờ cũng như cải tiến tinh thần cộng đồng
tôn giáo.
Là một thầy tư tế nhiệt thành và là một luật sĩ, Étra
khởi xướng việc cải tiến tinh thần tôn giáo với mục đích cho phép dân Do Thái kết
hôn với người cùng dòng tộc, hầu giúp họ xa tránh các ngoại nhân, mà ông cho là
‘’dơ bẩn’’.
Có lẽ chúng ta sẽ kết tội Étra về hành động bảo tồn
nhân chủng, nhưng sở dĩ Étra làm thế, là vì ông hiểu rất rõ đời sống lăng loàn
của người Do Thái. Étra nhận mọi lỗi lầm về phần mình, và tỏ ra hối hận,
mục đích nhắc cho người Do Thái biết, chỉ có Chúa là Đấng làm chủ lịch sử, điều
khiển vũ trụ và sáng tạo vạn vật, nên việc tái thiết Đền Thờ được kể là tối hệ
trọng, vì đó là nơi người Do Thái qui tụ, quây quần trước nhan thánh Chúa và bảo
vệ di sản tôn giáo. Nếu ai không tuân hành
lời Étra khuyên dậy, dần dần sẽ mất gốc và trở nên lạc lõng, bơ vơ.
Cuốn sách của Étra kể về một đám dân, tâm tính hầu
như đã hoàn toàn thay đổi, tuy nhiên, họ vẫn còn giữ lòng qủa cảm là nhờ có một
mẫu người lãnh đạo trong sạch. Cũng như
Môsê và Đavít, Étra thay cho dân mà ông hằng yêu mến và tin tưởng, cầu xin Thiên
Chúa sai Đấng Kitô đến, vì họ đang trông đợi.
Ông phác họa một cuộc sống mới hầu mọi người có thể đáp
lại lòng từ bi và thương xót của Chúa. Đã
bao lần chúng ta phản nghịch cùng Chúa, nhưng Người vẫn tha thứ, không từ bỏ.
Qua bài đọc hôm nay, chúng ta thấy rõ một đặc điểm:
khởi đầu, chỉ có Étra đơn phương đứng ra nhận lỗi trước mặt Chúa, nhưng sau đó,
một số đông đảo, rồi tất cả, đều nhận ra mình là nô lệ tội lỗi, cần đến lòng
khoan dung của Chúa.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần nhận định rằng,
con người gây nên tội lỗi là do ảnh hưởng của xã hội. Nhưng, nếu hoàn toàn đổ lỗi cho tập thể thì
không phải là cách giải quyết hữu hiệu nhất, tuy nhiên chúng ta cũng có trách
nhiệm về những sai lầm, một phần do những người Kitô hữu chúng ta.
Cần xác nhận rằng, trong sinh hoạt hằng ngày, chúng
ta vẫn sa ngã và vấp phạm, chưa thể xa tránh tội lỗi. Và vì thế, trước nhất, tự xét mình để biết có
phải chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm của yếu đuối không!
Étra muốn chúng ta noi gương Môsê, Đavít và Đức Giêsu,
là những ngôn sứ đầy lòng can đảm của mọi thời đại, đã chấp nhận tất cả các thách
đố để có thể xét định con người cũng như xã hội cách công minh và chính trực.
‘’Lạy Chúa, Chúa đã hướng dẫn lương tâm vua
Xyrô để ông mang lại chính nghĩa cho dân Chúa; xin Chúa cũng ban cho chúng con
những trái tim nhân hậu. Xin Chúa ban
cho chúng con có được những nhà lãnh đạo tốt lành như vua Xyrô và thầy tư tế Étra. Xin giúp chúng con biết đóng góp khả năng mình vào việc thông truyền Nước Chúa đến mọi
người. Amen.’’
Nhóm Mười Hai đã được ưng tuyển, xức dầu và ban ân sủng. Sau khi tuyển chọn kỹ lưỡng và tự mình trao
ban ân sủng thánh cho Nhóm Mười Hai, Đức Giêsu sai các ông ra đi mang theo một
nhiệm vụ rõ rệt: trừ mọi thứ qủi, chữa lành
bệnh nhân và rao giảng Tin Mừng. Chính điểm
sứ điệp của các Ngài là hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa.
Các chỉ thị cụ thể và chính xác của Đức Giêsu là: ‘’đừng
mang gì đi đường - đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc; cũng đừng có
hai áo.’’ (Luca 9,3). Những môn đệ
dũng cảm này là các tông đồ (nghĩa đen; những
người được sai đi) tiên khởi. Lời răn
dậy của Đức Giêsu là khuyên nhủ các ông dựa vào lòng quảng đại, hiếu khách và hảo
tâm của những người khác.
Các ngài là biểu hiệu của một tình yêu vị tha và tình
yêu tận hiến cũng như tinh thần phục vụ của Đức Kitô, Đấng sẽ thay đổi bộ mặt
thế giới. Dân Do Thái có thói quen rũ sạch
bụi từ đôi dép của mình khi rời khỏi lãnh thổ Dân Ngoại.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ không được làm như vậy,
nếu có rảo qua làng này đến địa hạt khác, mà bị người ta từ chối, không đón nhận
sứ điệp của mình. Đức Giêsu không để lại
cho chúng ta một việc làm cho tính cách nghiêm trọng và khắt khe đòi hỏi phảì tập
trung nỗ lực, hy sinh và cuối cùng là hiến toàn thể cuộc sống mình.
Dietrich Honhoeffer (sinh năm 1906, qua đời năm 1945) là một trong số các nhà thần học
tên tuổi của thời cận đại, đã hiểu rõ ý nghĩa việc trở thành một môn đệ. Ông đã bị Đức Quốc Xã Nazis hành hình về tội
đồng lõa trong âm mưu ám sát Adolf Hitler.
Thuở sinh thời, ông đã từng là một nhà đấu tranh cho
hòa bình và ông phải rời bỏ nước Đức với tư các là một nhân vật chống đối vì lương
tâm, nhưng ông trở lại quê hương yêu dấu khi biết chắc chắn Hitler là một tên
phản Kitô. Ông viết: ‘’Khi Đức Kitô kêu gọi một người, Người mời
người ấy đến để chết. Có thể tôi là một cái
chết giống như các môn đệ đầu tiên, những người đã rời bỏ gia đình và công ăn
việc làm mà đi theo Chúa…[đó là cái chết của ông già]’’.
Sau cuộc mưu sát do Bonhoeffer
chủ động, ông đã bị đưa tới giam giữ và treo cổ tại Flossenborg, một thời gian
ngắn trước khi đệ nhị thế chiến chấm dứt.
Bonhoeffer hiểu, như các môn đệ đầu tiên đã hiểu, khi Đức Kitô kêu gọi
chúng ta trở thành môn đệ của Người, tức là Người gọi chúng ta tự chết đi, hầu
chúng ta có thể sống vì tha nhân.
Thiên Chúa không phải là một nhân vật thay thế tạm
thời, nhưng Người phải được nhìn nhận như là trung tâm nguồn mạch sự sống chúng
ta; đó cũng là ý của Đấng muốn được nhìn nhận khi chúng ta sống, chứ không phải
chỉ khi sự chết đến; lúc chúng ta khoẻ mạnh, chứ không phải chỉ lúc chúng ta chịu
đau khổ; trong những sinh hoạt của chúng ta, chứ không phải chỉ khi chúng ta sống
trong tội lỗi.