Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2016

SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT

SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT


Lòng Thương Xót Có Ý Nghĩa Gì Đối Với Đời Sống
Và Sứ Vụ Truyền Giáo Của Giáo Hội?

Giới Luật Lòng Thương Xót không chỉ đòi hỏi nơi mỗi người Kitô hữu, nhưng đòi hỏi ở toàn thể Giáo Hội.  Nhiều người thắc mắc:  Nếu Thiên Chúa đầy lòng thương xót, thì tại sao Giáo Hội lại không như vậy? Hoặc tại sao và dường như Giáo Hội không thương xót như Chúa chăng?  Câu hỏi tiết lộ nhiều lo âu từ một số đông người Kitô hữu.

Họ không sai, bởi vì Giáo Hội, theo Công Đồng Vatican II, tự coi mình là một bí tích - một dấu chỉ bao quát và là khí cụ cứu rỗi của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.  Nếu Giáo Hội là một bí tích tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô, thì Giáo Hội cũng là một bí tích của lòng thương xót của Chúa.  Do đó sứ mệnh trao cho Giáo Hội là lòng thương xót, vì căn tính của Giáo Hội giống như Thân Mình Đức Kitô.  Giáo Hội không phải là một tổ chức xã hội hay cơ quan từ thiện; nhưng là Nhiệm Thể Đức Kitô.  Bí tích tỏ lộ sự hiện diện hữu hiệu và liên tục của Đức Kitô trong thế gian.  Bí tích lòng thương xót giống như ‘’toàn thân Đức Kitô’’:  gồm Đức Kitô là đầu và các chi thể (thành viên) trong Giáo Hội.  Vì thế, Giáo Hội gặp gỡ chính Đức Kitô trong từng thành viên (chi thể) của mình, và trong nhân loại - những người cần tới sự trợ giúp.

Nhưng vẫn còn một khía cạnh thứ hai.  Giáo Hội không chỉ là một tác nhân của lòng thương xót, nhưng cũng là đối tượng của lòng thương xót của Chúa.  Như Thân Mình Đức Kitô, nên nhờ Đức Kitô mà Giáo Hội được cứu chuộc.  Nhưng Giáo Hội ôm ấp cả những kẻ tội lỗi vào lòng và do đó phải được tiếp tục thanh tẩy không ngừng theo từng thời gian, hầu có một Giáo Hội tinh tuyền và thánh thiện (Êphêsô 5,25).  Bởi thế, Giáo Hội phải tự kiểm điểm và liên tục hỏi mình có thực sự sống và hành động đúng vị thế được trao phó không. Ngoài ra, như Đức Giêsu Kitô đã làm thế nào, thì chúng ta cũng có bổn phận phải đối phó với những thiếu sót và sai lầm của Giáo Hội, không bằng con đường tự công chính hóa, nhưng theo phương thức thương xót.  Tuy nhiên, chúng ta phải nhận rõ một điều:  nếu Giáo Hội không có lòng từ bi và thương xót thì không còn là Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô nữa.  Vì vậy, sứ điệp lòng thương xót đã ảnh hưởng sâu đậm đến việc giáo huấn, qua đời sống cũng như tác vụ của Giáo Hội.  Thực vậy, điều nhục nhã nhất Giáo Hội có thể tự triệt hạ mình – đó là nói một đàng làm một nẻo, hay nói cách khác là hứa mà không thực hiện. Đúng thế, nhiều người đã từng nhận xét và phàn nàn: Giáo Hội hành động cứng ngắc, vì thiếu lòng thương xót.  Đó chính là lý do khiến Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã lên tiếng nói nhân buổi khai mạc Công Đồng Vatican II rằng: trên tất cả, Giáo Hội phải sử dụng môn thuốc ‘’thương xót’’.

Điều này có thể hướng tới ba tiêu chuẩn:  Giáo Hội công khai rao truyền lòng thương xót của Chúa; cách cụ thể là đem đến cho con người lòng thương xót Chúa qua bí tích hòa giải; và bày tỏ cũng như thể hiện lòng thương xót của Chúa nơi cuộc sống của mỗi tín hữu, gây dựng thành các tổ chức và thậm chí thiết lập cả những qui chế thiết thực để hành xử.


Lòng Thương Xót Và Người Nghèo.
               Ở đây, chúng ta sẽ không bàn về từng điểm trong ba chiều kích này.  Có rất nhiều vấn đề cần nói, liên quan tới bí tích lòng thương xót, mà chúng ta đã thường đánh giá thấp trong suốt những thập niên qua.  Nhưng chúng ta nên tự hạn chế mình khi bàn về một lãnh vực được kể là rất quan trọng đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô.  Như một nhân chứng của lòng thương xót, Giáo Hội là tâm điểm chương trình hoạt động của Người, để có thể trở thành một Giáo Hội nghèo vì người nghèo. Chương trình này dường như không còn mới mẻ, vì đó cũng là chương trình riêng của Đức Kitô.  Người đến để ‘’loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn’’ (Luca 4,18).  Người không chỉ loan báo; Người ‘’vốn giàu sang phú qúy, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó để chúng ta trở nên giàu có.’’ (2 Côrintô 8,9).  Công Đồng Vatican II đã trích đoạn sứ điệp này để làm thành một chương trong ‘’Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội’’, mà thường bị quên lãng sau Công Đồng Vaican II, nhưng lại trở thành quan trọng đối với nền thần học ở Miền Nam Bán Cầu.  Hiện nay Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đặt ‘’chương trình’’ này lên mặt bàn của Giáo Hội toàn cầu.  Chúng ta thường quên rằng hai phần ba dân số Kitô hữu và người Công Giáo anh chị em hiện đang sống tại Miền Nam Bán Cầu, và chúng ta đã quên các nhu cầu, các khó khăn và các thỉnh nguyện của họ.  Về vật chất, họ là những người nghèo; nhưng về tinh thần, họ là những Giáo Hội sinh động, chúng ta nên lắng nghe.  Họ có thể là đại diện cho Giáo Hội tương lai.

             Để trở thành một Giáo Hội vì người nghèo, đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chủ yếu không phải là một chương trình xã hội, nhưng là một vấn đề Kitô học.  Anh chị em nghèo của chúng ta là phần cơ thể của Đức Kitô.  Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh: đụng chạm vào các vết thương của người nghèo và bệnh tật là chúng ta đụng chạm vào các vết thương của Đức Kitô nghèo khổ.  ’Điều gì anh em đã làm cho họ, là anh em đã làm cho chính Ta vậy.’’ (Mátthêu 25,40). 

               Đó là cảm nghiệm của Thánh Phaxicô Assisi: bước đầu tiên trên con đường cải đổi của Người, Người đã ôm hôn một người phong cùi, và trong thâm tâm Người nghĩ rằng Người đang ôm hôn chính Đức Kitô.  Mẹ Têrêsa cũng có cảm nhận như vậy, khi Mẹ đưa vòng tay ôm một người đàn ông ăn mặc xốc xếch đang nằm chờ chết trong căn nhà truyền giáo của Mẹ ở Calcutta. 

               Từ các vị thánh này, chúng ta có thể học biết được sự nhạy cảm và khoan từ của Chúa như thế nào; một sự nhạy cảm và khoan từ buộc chúng ta bắt chước và hành xử với những người thân cận của mình.  Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được ghi vào phần tốt đẹp nhất lịch sử Kitô giáo. Phẩm vật mà Người dành cho Giáo Hội sẽ làm cho truyền thống lâu đời trở thành một sứ điệp khẩn thiết đối với chúng ta hiện nay.  Thương Xót là vấn đề chính yếu và là một thách đố lớn lao đối với triều đại giáo hoàng của Người, đặc biệt là đối với các Giáo Hội giầu có ở Phương Bắc.


Lòng Thương Xót Và Giáo Luật.-
                Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là:  Giáo Hội nghĩ sao và có thái độ thế nào đối với những người không tự cảm thấy mình nghèo khổ về vật chất, nhưng cho rằng mình bị bỏ rơi, bị khai trừ, bị trục xuất khỏi Giáo Hội – theo tinh thần giáo luật, đã dẫn họ tới tình trạng thực tế - vì họ không còn được phép tham dự vào bàn tiệc thánh của Chúa nữa?  Người ta thường hỏi:  Những người đã ly dị và tái hôn thì sao?

                 Trước tiên, chúng ta cần lưu ý:  Lòng Thương Xót thường bị hiểu sai lạc và bị lạm dụng.  Điều này xảy ra khi người ta lẫn lộn giữa lòng thương xót và ân xá; vì sự hiểu lầm này có thể làm cho ân xá - đã ‘’mua’’‘’kiếm’’ được bằng máu của chính Đức Giêsu Kitô tử nạn trên thập giá - mà Giáo Hội thay mặt Chúa, ban cho các tín hữu, trở thành một món hàng tầm thường, rẻ rúng, có thể trả giá được.  Đó là điều mà Dietrich Bonhoeffer nghĩ và nói:  ‘’Ân sủng rẻ rúng biện minh cho tội lỗi, chứ không cho tội nhân…  Ân sủng rẻ rúng công bố sự tha thứ mà không cần ăn năn thống hối, Rửa tội mà không cần tới sự hướng dẫn giáo lý của Giáo Hội, Rước Thánh Thể mà không cần xưng tội, hưởng ân xá mà không xưng tội cá nhân.’’

                  Vì vậy, chúng ta cần đặt lại vấn đề ý nghĩa việc hướng dẫn giáo lý trong Giáo Hội.  Lời Tin Mừng căn bản dành cho Giáo Hội (La ngữ: ecclesia) gồm các yếu tố pháp lý ngay từ buổi ban đầu.  Ý tưởng về tình yêu của Giáo Hội sơ khai và sau này trở thành một Giáo Hội có luật lệ hẳn hoi không thể có những chứng minh cụ thể, và chính xác.  Theo Tin Mừng thánh Máthhêu, Đức Giêsu trao chìa khóa và quyền lực cho Phêrô, cũng như tất cả các Tông Đồ; nghĩa là các Ngài được phép cầm buộc hoặc tháo cởi bất cứ điều gì:  trục xuất bất cứ cá nhân nào ra khỏi cộng đồng và tái thu hồi họ. Mátthêu đã thiết lập một qui tắc để thực hiện thẩm quyền này (Mátthêu 16,19; 18,18).   Vì vậy, việc phân hủy qui tắc của Giáo Hội thì không còn cách nào khác hấp dẫn hơn để có thể ủng hộ Đức Giêsu và Tin Mừng nữa.  Nhưng, vì duy trì kỷ luật trong Giáo Hội, chắc chắn là mang lại ý nghĩa cho Tin Mừng, đồng thời cũng được giải thích và áp dụng theo nội dung tinh thần Tin Mừng.

               Vì lý do này, Phaolô giải thích rõ rằng, hình phạt trục xuất cốt là buộc tội nhân suy nghĩ về hành vi của mình để sám hối.  Nếu tội nhân hối hận về các hành động của mình và ăn năn, thì cộng đồng nên để cho sự dịu ngọt tái chiếm ưu thế (2 Côrintô 5-11).  Hình phạt là biện pháp sau chót, một cách thế giới hạn và tạm thời mà thôi.  Đó là phương sách cương quyết cuối cùng được sử dụng do lòng thương xót.  Kỷ luật của Giáo Hội xem ra có vẻ cay nghiệt, nhưng liều thuốc cần thiết về lòng thương xót phải phù hợp với một truyền thống, mà chúng ta có thể hiểu rằng, nhờ ánh sáng soi dẫn về những việc chữa lành kỳ diệu của Người, Đức Giêsu được ví như là một Đấng cứu chuộc, một bác sĩ, một lang y; một truyền thống mà trong đó, chúng ta cần hiểu, linh mục, đặc biệt là linh mục giải tội, không chỉ là một quan án, nhưng cách riêng là một y sĩ tâm linh.  Sự hiểu biết về phương pháp trị liệu này theo qui tắc và luật lệ của Giáo Hội dẫn chúng ta tới vấn đề cơ bản có thể giải thích và diễn trình Giáo Luật như thế nào.  Đó là một lãnh vực rộng lớn mà chúng ta không thể bàn thảo đầy đủ ở đây, trong một thời gian và hoàn cảnh quá ngắn ngủi, nhưng chỉ vắn gọn từ quan điểm liên quan tới Giáo Luật đối với lòng thương xót.


Giáo Luật Và Tâm Linh.-
                      Vì thế, Giáo Luật không trái với Tin Mừng, nhưng Tin Mừng phản lại sự hiểu biết mang tính cách pháp lý trong Giáo Luật.  Giáo Luật nên được diễn giải và áp dụng dưới ánh sáng của lòng thương xót, vì lòng thương xót mở rộng đôi mắt để thấy hoàn cảnh thiết thực của người khác.  Lòng thương xót cho biết mỗi cá nhân phải được xét xử theo từng tình huống, chứ không nên gộp chung vào một qui chế chung.  Trái lại, điều quan trọng mà khoa nhân chủng học Kitô giáo đưa ra nhận định rằng, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không phải là một ‘’đa số’’ ; mỗi người và mỗi tình huống là ‘’duy nhất’’.  Vì vậy, chúng ta phải tìm những giải pháp, cùng lúc, vừa công bằng lại vô tư.  Nếu chúng ta không làm như thế, thì cũng giống như dân thành Rôma đã từng đặt công lý lên tầm cao nhất, thì có thể sẽ trở thành bất công nhất.

                      Các điều suy tư nêu trên cũng mang lại ý nghĩa đối với câu hỏi liên quan tới những người Công Giáo ly dị và tái hôn, một vấn nạn được tranh luận trước khi Thượng Hội Đồng Giám Mục trong những tháng vừa qua.  Chúng ta không thể có một câu trả lời dứt khoát về câu hỏi này.  Nhưng, trách nhiệm của Thượng Hội Đồng là cùng với Đức Giáo Hoàng quyết định về vấn đề ấy. 

Không nhà thần học nào, thậm chí cả Đức Giáo Hoàng, có thể thay đổi được giáo lý bất khả phân ly của Bí Tích Hôn Nhân.  Ngược lại, tất cả mọi người chúng ta đều có lý do để giúp đỡ và hỗ trợ những người trung thành với hôn nhân, vì đó là điều tốt cho chính họ cũng như con cái họ.  Vì vậy, giáo lý không thể được thay đổi và sẽ không được thay đổi.  Nhưng, giáo lý phải được thận trọng áp dụng theo cách thế công bình và vô tư, từ những tình huống cụ thể đến phức tạp.  Vì các tình huống này thường rất khác nhau.  Không có một trường hợp ly dị và tái hôn nào gọi là điển hình; do đó, không thể có được một giải pháp làm nền tảng cho từng tình huống.  Việc phân định là cần thiết, vì phân định, cẩn trọng, khôn ngoan là các đức tính cốt yếu đối với một giám mục cũng như một linh mục. Điều tốt nhất không phải lúc nào cũng làm được, nhưng chúng ta phải luôn làm điều tốt nhất nếu có thể.

                      Do đó, câu hỏi là:  nếu một người sau khi ly dị, đoạn đi vào cuộc hôn nhân dân sự thứ hai, rồi hối hận về sai lầm vì không làm đúng điều mình đã hứa trước mặt Thiên Chúa, người phối ngẫu của mình và Giáo Hội trong cuộc hôn nhân đầu tiên; nhưng thi hành bổn phận mới cũng như điều đương sự có thể trong việc giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo, và thực tâm muốn hưởng các phép bí tích cần thiết, để tăng thêm sức mạnh đối phó với các tình huống khó khăn trong cuộc sống, thì liệu chúng ta, sau một thời gian định hướng mới và ổn định có thể từ chối việc ban ân xá và ơn tha thứ chăng?  Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng:  ‘’Tôi tin phép tha tội.’’  Trong khi Thiên Chúa ban một cơ hội mới, một tương lai mới cho cá nhân thống hối và làm điều có thể trong hoàn cảnh của họ, nhưng tại sao Giáo Hội, Bí Tích của Lòng Chúa Thương Xót, lại không? 

Dựa vào sự dẫn giải nào để có thể áp dụng chính xác trong vấn đề này? hoặc như thánh Tôma Aquinô đã dạy theo sau Aristotle, một lối áp dụng theo trí phán đoán thực tế (khác biệt giữa trí phán đoán thuần lý hay duy lý) và một tình huống cụ thể - nói cách khác, tính thận trọng: là sự khôn ngoan, tiện lợi trong việc áp dụng một nguyên tắc phổ quát đối với một tình huống cá nhân và cụ thể.  Đó là cách tiếp cận có dự kiến của một số giáo phụ thời Kitô giáo sơ khai, đặc biệt là Basil Caesarea, làm tròn bổn phận nhờ sử dụng nguyên tắc Chính Thống (oikonomia) và, trong truyền thống La ngữ, với epikeia.  Vào thời đầu cận đại, thánh Anphongsô Liguori đề xuất cách tiếp cận này vào phương pháp ‘’probabilism - thuyết cái nhiên luật’’, tức là giáo lý: đối với một sự việc mà có hai ý kiến đều phi quyết định tính, thì người phán đoán được tùy ý quyết định. (Như vậy, Anphongsô đã trở thành bổn mạng của các nhà thần học luân lý).  Vì thế, nếu Thượng Hội Đồng các Giám Mục đi theo đường hướng này, thì các nghị phụ đã tìm thấy chính các Ngài ở trong truyền thống tốt nhất của Giáo Hội.  Để được chắc chắn, các suy tư này không mở ra một đường lối tiếp cận chung cho tất cả mọi tình huống; có lẽ chỉ đáp ứng một thiểu số nhỏ; nhưng có thể trở thành con đường cho những ai tha thiết quan tâm và muốn đi theo để hoán cải. 

Đó có thể là một con đường cực kỳ khắt khe, không thể là con đường dành cho người Kitô hữu bình thường, và những kẻ gặp chăng hay chớ, không đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giêsu đối với việc nên thánh.  Tìm một con đường vô cùng cực đoan luôn là con đường của Giáo Hội, một con đường sáng suốt, thận trọng và khôn ngoan – con đường Lòng Thương Xót cụ thể.


Lòng Thương Xót Từ Dưới.- 
Theo quan điểm trong thần học thì nhãn giới bắt nguồn từ trên cao.  Nhưng nếu phải ứng xử những việc thường có tính cách phức tạp và đa dạng thì chúng ta phải dựa vào học thuyết và qui luật.  Như thế, lòng thương xót lại đưa tới một quan điểm khác, nghĩa là sự việc không bắt đầu từ trên cao, mà từ bên dưới, để điều nghiên một tình huống cụ thể, liên quan đến luật lệ hay qui tắc mà chúng ta đang áp dụng.  Đây không phải là loại đạo đức dựa vào tình huống, vì quy luật có giá trị riêng, không do tình huống làm nên.  Đó là cách giảng dậy theo phương thức ‘’linh thao’’ của thánh Ignatiô Loyola; là cách mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một thành viên Dòng Tên ưu tú đang thực hành.  Người bắt đầu bằng một tình huống, đoạn tiến hành việc phân tích nơi các linh hồn.

Đức Giêsu cũng thể hiện tương tự với chúng ta, khi Người hỏi:  ‘’Ai là người thân cận của tôi?’’  Người không cho chúng ta một câu trả lời trừu tượng.  Người kể một câu truyện có tính cách cụ thể về một người Samaria tốt lành và đầy lòng thương xót (Luca 10-30-37):  ’Có một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp.’’  Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi trên con đường ấy và trông thấy người này, nhưng ông tránh qua bên kia mà đi.  Rồi cũng như vậy, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, thấy và tránh qua bên kia mà đi.  Nhưng một người Samaria đi đường, ngang qua chỗ ấy, thấy và chạnh lòng thương.  Ông lại gần, cúi xuống chỗ bụi bẩn và dơ dáy, băng bó vết thương, rồi đưa người ấy tới quán trọ mà săn sóc.  Đoạn Đức Giêsu hỏi vị thầy dân Do Thái rằng: ‘’Theo ông, trong ba người kia, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay tên cướp?’’  Câu trả lời đúng:  ‘’Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.’’ Và Đức Giêsu nói:  ‘’Ông hãy đi, và cũng làm như vậy.’’

Đó chính là điều mà Chúa cũng đối xử với chúng ta.  Chúa cúi xuống nâng chúng ta dậy; an ủi và chữa lành các vết thương của chúng ta; và cho chúng ta một cơ hội, một đời sống và niềm hy vọng mới.  Và ai là người có thể tự cho mình là công chính tới mức độ nghĩ rằng mình không cần tới lòng thương xót như vậy? Lòng thương xót là tên của Chúa chúng ta. Lòng thương xót mời gọi chúng ta trở thành một con người biết đồng cảm với những kẻ đang đau khổ và sống trong cảnh thiếu thốn. Lòng thương xót mời gọi chúng ta trở thành người Kitô hữu đích thực, biết noi gương sống của Đức Kitô và gặp gỡ Đức Kitô nơi những anh chị em đau khổ của mình. Lòng thương xót là bản thể của Tin Mừng và là bí quyết đời sống người Kitô hữu. Lòng thương xót là sứ điệp đẹp đẽ và tốt nhất mà chúng ta có thể được mách bảo, hầu chúng ta cần đem đến cho thế gian.  Là Thiên Chúa, vì Lòng Thương Xót, Người luôn ban cho chúng ta một cơ hội mới, một tương lai mới, để chúng ta, cũng lấy lòng thương xót của mình mà ban tặng tương lai cho người khác, và cho thế giới đang rất cần tới điều ấy.