Các bài đọc trích sách:
- Rôma 10,9-18; - Thánh Vịnh 19,1-4; - Mátthêu 4,18-22
Có Đức
Tin Là Nhờ Nghe Giảng…Lời Đức Kitô
Tông Đồ Anđrê là một ngư phủ, xuất thân từ
Capernaum (một làng dọc biển hồ Gallilêa), là anh ruột của tông đồ Phêrô, là học
trò của Gioan Tẩy Giả và là một trong các môn đệ tiên khởi của Đức Giêsu. Giáo Hội chính thống gọi Anđrê là Protocletos, nghĩa là ’’người được gọi đầu
tiên’’ (Gioan 1,35-42).
Giáo Hội Tây và Đông Phương mừng kính thánh
Anđrê vào ngày 30 tháng 11, ngày mà dân tộc Na-uy có truyền thống mở hội chợ gọi
Andresmesse hay ngày ngư phủ Anđrê. Còn dân
Scotland gọi ngày này là quốc khánh, vì Anđrê là thánh bảo trợ (quan thầy) của
Scotland, và nhân dân Scotland đã lấy hình thập giá thánh Anđrê làm hiệu kỳ.
Tên Anđrê xuất phát từ tiếng Hy Lạp ’’Andreia’’, nghĩa là người đàn ông, nam
giới hay kẻ dũng cảm; và một số tên Hy Lạp khác mà người ta cho là rất thông dụng
trong dân Do Thái vào các năm 100 hoặc 200 trước Công Nguyên.
Kinh Thánh Tân Ước kể rằng, Anđrê là con của
Giôna (Mátthêu 16,17; Gioan 1,42). Anđrê
sinh tại Betsaiđa, phía bắc biển hồ Giênêsarét. Anđrê và người em đều là ngư phủ. Truyền thống cho biết Đức Giêsu đã gọi cả hai
anh em làm môn đệ và cho họ trở thành những
kẻ ’’lưới người’’ (ngôn ngữ Hy Lạp gọi là halieis anthropon). Khi Đức Giêsu công khai rao giảng Tin Mừng thì
hai anh em cư ngụ trong cùng một căn nhà tại Capernaum (Máccô 1,21-29).
Được biết (qua trình thuật của Đức Giáo Hoàng
Eusebius (ca. 260 - ca. 340) và Giám Mục thánh phụ Origenes (ca. 185 – ca.
254), Anđrê đến rao giảng Tin Mừng tại vùng Tiểu Á và cho dân kỵ mã (chuyên sống nhờ
giống cá chim), dọc biển đen đến dòng suối Volga, dài nhất Âu châu –
3.700 km. Do đó thánh Anđrê trở thành
quan thầy (bảo trợ) cho dân Lỗ Mã Ni và Nga.
Anđrê cũng truyền bá Tin Mừng ở Georgien.
Truyền truyền cho biết Anđrê trở
thành giám mục Bysantion (sau này là Konstatin), Istabul, Thổ Nhĩ Kỳ, vào thời ấy,
là một thị trấn nhỏ của Hy Lạp gần eo biển Bosporus. Ngai giám mục này sau đổi thành kỳ mục
tại Constantinopel, lúc kế vị tông đồ Anđrê.
Người ta cho biết, Anđrê bị đóng đinh tại
Patras (thị trấn lớn thứ ba tại Hy Lạp) trên thập giá hình chữ X, gọi là Crus decussata, vì thế mới có tên là thập giá Anđrê. Anđrê cũng là thánh quan thầy (bảo trợ) của
Patras. Truyền thống kể rằng, hài cốt thánh
Anđrê được đưa về Constantinopel và sau này chuyển tiếp về một thị trấn, dọc
bờ biển Scotland, mang tên thánh Anđrê.
Dân chúng địa phương nói rằng, hài cốt thánh nhân được bán cho đoàn giáo
sĩ Rôma phục vụ tại thị trấn, như một vật thế cho người Rôma vì họ đã xây một
bồn chứa nước cho thị trấn. Tay của thánh
tông đồ được đưa về Moskov (thủ đô Nga), còn đầu của thánh tông đồ đáng ra sẽ
phải để ở đền thánh Phêrô, nhưng nhà độc tài Thomas Palaeologus đã trao cho Đức
Giáo Hoàng Piô II vào năm 1461. Hài cốt
được lưu giữ tại Vatican cho đến khi Đức Thánh Cha Phaolô VI quyết định trao lại cho thị trấn Patras vào năm 1964. Hài cốt gồm một chiếc đầu lâu, một mảnh ngón tay, hiện lưu giữ tại đền thờ
thánh Anđrê ở Patras và được trưng bầy vào dịp lễ đặc biệt ngày 30 tháng
11.
Bài Tin Mừng do thánh Gioan viết nhắc chúng ta nhớ tới thánh Anđrê mà Giáo
Hội kính nhớ hôm nay. Thánh nhân là người
đầu tiên được ơn gọi và đã hưởng ứng lời mời của Đức Giêsu bằng cách đi theo làm
môn đệ Người. Lập tức, Anđrê đến gặp người
em là Simon và nói: ‘’Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô.’’ (Gioan 1,41).
Đó là món qùa đức tin mà Anđrê đã nhận được. Anđrê không nói, ‘’chúng tôi đã gặp một người, và có lẽ ông ấy là…’’ hoặc ‘’có thể ông
ấy là Đấng Messia.’’ Ông Simon hưởng
ứng lời tuyên xưng của Anrê cách rất lạc quan;
thế là cả hai anh em đi theo Đức Giêsu. Hai ông đã cùng chia sẻ với Đức Giêsu những
khó khăn và gian khổ trong suốt hành trình thực hiện sứ vụ cứu chuộc nhân
loại.
Truyền thuyết cho biết, hai ông đã
theo sát bước chân Đức Giêsu trong lúc Người chịu khổ hình và chết trên thập giá. Thái độ tích cực của Anđrê đối với lời mời gọi
của Đức Giêsu chứng minh rõ đức tin là một ơn huệ do Chúa ban cách riêng, làm
cho cá nhân liên hệ trở nên can đảm và đủ sức mạnh tuyên xưng Chúa trước mặt
thiên hạ.
Trong bài đọc hôm nay, thánh Phaolô nhấn mạnh,
‘’có tin thật trong lòng, thì chúng ta
mới được nên công chính, và tuyên xưng đức tin ra ngoài miệng, thì chúng ta mới
được ơn cứu độ.’’ ‘’Đức Tin’’ mà thánh
Phaolô nói đến, không chỉ là thái độ chấp nhận lời giảng dậy của Đức Giêsu bằng
lý trí, nhưng phải bằng cả lối sống của mình nữa. Khi kêu cầu danh Chúa tức là chúng ta thừa nhận
quyền năng Người trên đời sống của mình.
Như thế, chứng tỏ, ơn cứu độ không tùy thuộc vào những việc chúng ta làm,
nhưng là do lòng nhân từ và thương xót của Chúa dành cho chúng ta.
Kêu cầu danh Đức Giêsu Kitô là thói quen rất
tốt trong đời sống của người Kitô hữu. Đó
là thái độ cậy trông; nhất là trong những khi gặp gian nan thử thách. Anđrê đã phản ứng mau lẹ khi đứng trước năm ngàn
người đang lâm cảnh đói khát trong sa mạc.
Không suy nghĩ hơn thiệt, ông mau mắn hướng về Đức Giêsu, và chính vì thế
tất cả mọi người đói khát đã được no nê (Gioan 6,8-13).
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói lên sức mạnh phi
thường, ngược hẳn với hạng người chỉ tôn trọng ‘’chủ nghĩa suy tính’’, để nhờ đó hy vọng có khả năng làm mềm được
những tấm lòng chai đá. Tuy nhiên, Chúa
cần rất nhiều người tiếp tục đem Tin Mừng của Người gieo vãi khắp nơi trên trái
đất này, đồng thời Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta trách nhiệm làm công
việc ấy, như một lời kêu gọi khẩn thiết cuối cùng (Mátthêu 28,19).
Đối với chúng ta, rao giảng không phải là
ra đi và đứng ở các ngã ba đường, hay đặt chân từ nhà này sang nhà khác, để nói
cho mọi người biết Tin Mừng Phúc Âm, nhưng chính là tìm kiếm sự soi dẫn của Chúa
Thánh Thần, hầu qua lối sống hằng ngày, chúng ta có thể chứng minh cho thế gian
hiểu rõ cuộc sống vĩnh cửu.
‘’Lạy
Đức Giêsu,
qua
sức mạnh của Chúa Thánh Thần,
xin
hãy hoạt động trong con,
để
con có thể tuyên xưng
và
chứng minh hữu hiệu quyền năng
danh
thánh cứu độ của Chúa. Amen.’’