Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

Máu Các Thánh Tử Đạo Là Hạt Giống…

GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ ĐÃ QUA


Ngay khi lên ngôi Giáo Hoàng vào năm 1978, Đức Giáo Hoàng Á Thánh Gioan Phaolô II
đã có một ý nghĩ rất rõ rệt là ngài sẽ đưa Giáo Hội bước vào Tân Thiên Niên Kỷ.
Đối với Đức Thánh Cha ‘’hai ngàn năm trôi qua, kể từ sinh nhật Đức Giêsu…,
tượng trưng cho một năm Đại Thánh.’’ (Tertio millennio adveniente 15).
Năm Thánh là thời gian đặc biệt đầy tràn hồng ân và thánh sủng mà Thiên Chúa
dành cho các tạo vật.  Đây là thời kỳ tái tạo trật tự xã hội theo ý định của Thiên Chúa
và cũng là lúc nhân loại chung hưởng niềm hoan lạc.

*

     Trong tông thư hướng về ngàn năm thứ ba, đoạn 16, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô  II cho biết, từ ngữ Năm Thánh hay Năm Toàn Xá (Jubilee) diễn tả sự vui mừng và hy vọng. Sự vui mừng và hy vọng không chỉ nằm ở nội tâm, mà còn được biểu lộ ra cả bên ngoài, vì Đức Giêsu đến thế gian cách công khai, mọi người đã nghe, đã thấy và cũng có thể chạm đến được, đúng như thánh Gioan mô tả (1 Gioan 1,1).  Sự vui mừng và hy vọng chính là ơn cứu độ.
     Năm Toàn Xá thực sự là một giai đoạn lịch sử.  Không phải tất cả mọi người đã sống trong thế giới lịch sử hữu hạn đều được may mắn chứng kiến sự chuyển đổi của vũ trụ từ ngàn năm này sang ngàn năm kế tiếp.
     Ở vào thời gian như hiện nay, ta cũng nên ôn lại qúa khứ, hầu đưa cặp mắt hướng về tương lai. Khi bước sâu vào thế kỷ đầu và ngàn năm mới, ta nên liếc nhìn về ngàn năm trước cũng như thế kỷ vừa qua với lòng cảm tạ, khiêm tốn và sám hối, sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn bày tỏ mục đích vĩnh cửu của Người cho nhân loại.
 
     Tiên tri Isaia đã từng nói:  ‘’Hỡi kẻ đi tìm kiếm Chúa, hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá, nơi các ngươi đã được đẽo ra, và hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá, nơi các ngươi đã được lấy ra.’’ (Isa. 51,1).

Hoạt Động Của Chúa Thánh Thần.- 
     Thể kỷ XX được kể là một thời kỳ tràn đầy ơn phúc.  Vào thập niên 1890, thánh nữ tu người Ý, Elena Guerra đã nài xin Đức Thánh Cha Leo XIII ban sắc lệnh yêu cầu giáo dân công giáo gia tăng làm việc tôn kính Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha gửi tông thư kêu gọi giáo dân toàn cầu làm tuần chín ngày dâng kính Chúa Thánh Thần, và do đó việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần bắt đầu từ thế kỷ XX.  Lý do nào khiến thế kỷ XX được mệnh danh là thế kỷ của Chúa Thánh Thần.
     Trước tiên, đối với Giáo Hội Công Giáo, thế kỷ XX được kể là thế kỷ của Công Đồng Vatican II.  Trước khi khai mạc, Đức Thánh Cha Gioan XXIII kêu gọi toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho Công Đồng với những lời như sau:  ‘’Lạy Chúa, xin hãy làm cho Giáo Hội trở nên một Lễ Hiện Xuống mới.’’  Vì thế, Công Đồng được kể là nền tảng của Giáo Hội Công Giáo.
     Thế kỷ XX là một thế kỷ đại kết.  Nhìn vào sinh hoạt của cộng đồng Kitô hữu toàn cầu, ta thấy vết thương trầm trọng làm tan nát Thân Mình Đức Kitô, do sự phân hóa giữa Chính Thống Giáo Đông Phương và Công Giáo Tây Phương, kéo đến sự rạn nứt thành nhiều mảnh trong khối Tin Lành Cải Cách tại Âu châu. Trong đoạn 34 tông thư Tiến Về Ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết:  ‘’Cộng đồng Giáo Hội đã phải gánh chịu một vết thương đau đớn, một sự kiện mà trải qua nhiều năm, hai bên không ngừng lên tiếng khiển trách nhau.’’ (TMA 34). 
     Nhiều người cho rằng tiến trình đại kết chậm chạp, nhưng nếu so với thế kỷ trước, thì đã có những liên hệ song phương giữa các Giáo Hội Kitô Giáo phân ly. Đây là một cuộc cách mạng do tác động của Chúa Thánh Thần.
     Trong Giáo Hội Công Giáo, thế kỷ XX được kể là thế kỷ của ‘’người Kitô hữu giáo dân’’ và các phong trào mới của giáo dân.  Nhờ sự khuyến khích và cổ võ của Đức Thánh Cha Piô XI và Piô XII, các phong trào mới của giáo dân trong Giáo Hội phát triển cách đáng kể, nhờ đó ‘’người Kitô hữu giáo dân’’ ý thức được tước vị và vai trò quan trọng của mình trong việc xây dựng đời sống Giáo Hội.  Công trình này không thể thành đạt nếu thiếu sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
     Thế kỷ XX còn được kể là thế kỷ của Kinh Thánh.  Đó là sự chuyển đổi từ thái độ Giáo Hội Công Giáo thuần túy, sang chiều hướng Kinh Thánh, nghĩa là Giáo Hội chú trọng đặc biệt tới vai trò Kinh Thánh trong các lễ nghi phụng vụ và giáo huấn.  Suốt thế kỷ XX, Kinh Thánh đã được dịch ra hầu hết các ngôn nữ có tiếng nói đang sử dụng trên toàn cầu.
     Thế kỷ XX cũng còn được gọi là thế kỷ của Phục Hưng và Canh Tân Thần Ân.  Các sử gia hậu duệ sẽ dễ dàng nhận thấy sự phát triển ngạc nhiên này như một quyết định cho vấn đề Kitô giáo trong thế kỷ XX.  Đầu tiên là nhóm Phục Hưng Thần Ân. Nhóm này sinh hoạt đơn độc và bị biến dạng vào năm 1900, nhưng sau đã kết hợp thành một khối lớn mạnh vào hàng thứ ba trên thế giới, sau Công Giáo và Chính Thống, mặc dù tinh thần của đoàn sủng trước sau như một.  Kế tiếp là những người Kitô hữu tham gia trong Canh Tân Thần Ân.  Lúc khởi đầu hoạt động, họ gặp phải sự va chạm kịch liệt với Công Giáo và Tin Lành.

Một Thế kỷ Với Những Thay Đổi Lớn.-     
     Thế kỷ XX được kể là có nhiều tiến bộ trọng đại liên quan tới các khám phá trong lãnh vực khoa học cũng như kỹ thuật.  Lãnh vực y khoa, giáo dục, kỹ nghệ, canh nông, giao thông và du lịch… tăng triển tới mức độ vượt qúa sự tưởng tượng của con người, trong suốt hai thế kỷ vừa qua.  Ngành báo chí và truyền thông mang sắc thái tiến bộ khác xa so với 50 năm về trước.
     Những phát triển vượt mức này đã làm cho vũ trụ co thắt lại. Chỉ cần một ngày là ta có thể di chuyển từ chỗ này đến bất cứ nơi nào ta muốn.  Mọi tin tức có thể thông đạt đến khắp mọi nơi trong phút chốc.  Qua máy vi tính và điện thư, ta có thể trực tiếp giao dịch với nhau một cách dễ dàng.  Những biến cố rùng rợn xảy ra từ một phương trời thật xa cũng có thể gây ảnh hưởng tới đời sống của ta chỉ trong giây lát.
     ‘’làng toàn cầu’’ xuất hiện trong thế kỷ vừa qua, nên vấn đề ‘’thế giới hóa’’ mới trở thành mục tiêu chính yếu.  Chủ nghĩa thuộc địa chấm dứt tại những nước trước kia được gọi là các địa điểm truyền giáo, do đó mới có vấn đề bổ nhiệm các vị lãnh đạo Giáo Hội địa phương.
 
     Khi bước vào ngàn năm thứ ba, Giáo Hội Công Giáo hầu như mang bộ mặt khác hẳn thời gian đón chờ ngàn năm thứ hai, vì hiện nay quá phân nửa số tín hữu Kitô Giáo trên toàn cầu thưộc các nước Phi châu, Á châu và Mỹ châu La-tinh.

Hung Tàn Với Vinh Dự.-
     Đưa lên bàn so sánh, ta nhận thấy, thế kỷ XX có cả sự hung tàn lẫn vinh dự.  Hai cuộc đại chiến thế giới đã tiêu diệt một phần nhân loại và phá hủy rất nhiều tài nguyên thiên nhiên.  Sự phát triển về khoa học và kỹ thuật thường không được xử dụng vì mục đích phục vụ quyền lợi quần chúng, trái lại chỉ được dùng như những khí cụ đàn áp và gây đau khổ cho cộng đồng nhân loại.  Các hành động vô nhân đạo gây tội ác làm hoen ố thế kỷ XX xuất phát từ những kẻ vô thần trong nhóm độc tài phát-xít.  Chủ trương của các nhóm vô thần là cố gắng đưa con người xuống ngang hàng với súc vật.  Hành động có hệ thống và kế hoạch nhất của ’’giải pháp Hitler’’ là triệt hạ 6 triệu người dân Do Thái.  Một hành động khủng khiếp tương tự diễn ra trong thế kỷ vừa qua làm cho hàng triệu người dân Armenia phải chết vào năm 1917;  Khmer Đỏ tàn sát rất nhiều đồng bào Cambốt vào các thập niên 1970;  cảnh nồi da xáo thịt đầy kinh hoàng giữa những người anh em đồng máu mủ tại Việt Nam từ suốt các năm từ 1954 đến 1975 tại Việt Nam; cuộc thanh trừng đẫm máu giữa hai sắc dân Tutsi và Hutu tại Rwanda vào thập niên 1990; những thảm trạng diễn ra tại Bosnia, Kosovo và East Timor thật rùng rợn, khiếp sợ.
     Tất cả mọi khủng hoảng nêu trên nhắm một mục tiêu chính là thanh lọc, tiệu diệt nhau, gây nên cảnh điêu tàn, làm cho hàng triệu người lâm vào cảnh ly tán, buộc lòng phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, sống cảnh tha phương cầu thực nơi đất khách quê người.
    
Thánh Đường Vắng Bóng Giáo Dân.-
     Giáo Hội Kitô giáo trong suốt thế kỷ XX không chỉ giản dị mặc cho mình môt ’’huyền thoại’’ canh tân, nhưng thực tế, đó là giai đoạn Giáo Hội tuột dốc.  Tại Tây Phương, số thánh lễ và các Bí Tích mỗi ngày càng giảm bớt trầm trọng; ơn gọi linh mục và tu sĩ suy sụt ghê gớm; nền luân lý căn bản sa sút tới mức báo động.  Tất cả đều liên đới mật thiết với nhau, tạo nên hằng hà sa số cảnh bạo tàn và dã man, kết qủa là làm cho di sản nền tảng Kitô giáo nơi người tín hữu bị hao tổn rất nhiều.

Chứng Nhân.-
     Các đặc tính của ơn phúc và tội ác chen lấn nhau xuất hiện trong suốt thế kỷ XX.  Sự xung đột giữa các tư tưởng chống đối Thiên Chúa và sự tận hiến cho Kitô giáo, khiến nhiều người đã đổ máu, hy sinh mạng sống vì Đức Kitô.
     Ngay trong ba thế kỷ đầu lịch sử Kitô giáo đã có rất nhiều vị tử đạo.  Cảnh bắt bớ và hành hạ những người tín hữu không ngừng xảy ra, từng thời kỳ khác nhau, mặc dù rời rạc, nhưng rất qui mô và có tổ chức, ở Liên Bang Sô Viết và các nước Đông Âu, như Tiệp Khắc và Lỗ Mã Ni trước kia, ở Trung Hoa lục địa và Việt Nam; hoặc tại các nước đa số dân chúng theo Hồi giáo như Sudan và Pakistan hay tại các nước độc tài quân phiệt như Paraguay và Chí Lợi…
     Kết qủa cho biết, số tín hữu tử đạo trong thế kỷ XX nhiều hơn toàn thể 19 thế kỷ trước cộng chung lại.
     Khảo sát cảnh giáo dân bị bắt bớ vào thời Giáo Hội sơ khai, nhà thần học Tertullian đã nói:  ’’máu các thánh tử đạo là hạt giống của Giáo Hội.’’ Vô số các vị tử đạo thời hiện đại là một trong những bằng chứng chắc chắn nói lên niềm hy vọng, khi Giáo Hội ở vào ngàn năm thứ ba.