Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 15 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 15 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Xuất Hành 2,1-15; - Thánh Vịnh 69,2.13.29-30.32-33; - Mátthêu 11,20-24

 
Chúa Nhận Lời Kẻ Nghèo Khó

 
Sự bình an cũng cần thiết như hạnh phúc.  Ai cũng tìm kiếm bình an và hạnh phúc, nhưng càng tìm kiếm, người ta càng cảm thấy nó vỗ cánh bay xa. Có lẽ Amô là vị sáng lập triều đại Pharaô thứ mười tám, với hy vọng củng cố ngôi vị và quyền lực bằng một sức mạnh mỏng manh, một chính sách đàn áp giết hại nhiều người.  Tuy nhiên, qua bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy rõ ý định và các lệnh truyền của nhà vua đã không được chấp hành nghiêm chỉnh.

Nhà vua tỏ rõ sự bất lực, và do đó đã tự làm giảm uy tín của mình, vì thái độ nhu nhược, khi để nữ giới coi thường các chỉ thị của chính phủ.  Các bà Hípbri (Do Thái) không chịu giết các trẻ sơ sinh, theo lệnh của nhà vua.  Bà Mẹ và chị của Môsê thi hành luật pháp dưới hình thức, để đứa bé vào trong một cái thúng an toàn và đem thả trên mặt sông Nile. 

Con gái vua (có lẽ là công chúa Hátsêôsút) nhận cậu bé Môsê làm con nuôi, và thuê chính thân mẫu của cậu săn sóc, dưỡng dục.  Pharaô, một ông vua nhút nhát, nhưng cứng đầu thấy rõ chương trình sinh hoạt của mình đã trở nên vô hiệu.  Cuối cùng, kế hoạch của vua đã bị Thiên Chúa đánh bại cách chậm rãi và âm thầm, qua bàn tay của một nhân vật tí hon, từng nằm trong chiếc thúng trôi bồng bềnh giữa đám sậy ở bên bờ sông Nile.

Đường lối hoạt động của Thiên Chúa dường như chậm rãi, âm thầm và kín đáo, nhưng liên tục; tuy nhiên, không tránh khỏi các khó khăn, trở ngại, gây nên bởi những lực lượng chống đối, nhưng, cuối cùng, chương trình của Thiên Chúa vẫn hoàn tất.  Chương trình của Thiên Chúa thường do những kẻ bị coi là yếu đuối, tưởng như bất lực, thực hiện. 

Sách Xuất Hành là cuốn sử lược, ghi lại lòng trung thành và yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với một dân tộc, được Người tuyển chọn, đã trải qua biết bao nghịch cảnh, nhưng Thiên Chúa luôn bảo vệ và che chở họ. Chương trình bảo vệ của Thiên Chúa vượt trên cả sự yếu đuối và phản bội của con người.

Toàn thể dân tộc Do Thái đều yêu mến và ôm ấp câu truyện vượt thoát ra khỏi xứ Ai Cập, và coi đó như một chứng minh tình yêu và chăm sóc của Thiên Chúa đối với họ.  Là người là Kitô hữu, chúng ta cũng cần có thái độ như dân Do Thái. Câu truyện liên quan đến cuộc Xuất Hành mạnh mẽ đến đâu vẫn không có giá trị thực tiễn, nếu chúng ta không nhận rõ các dấu chỉ trong cuộc sống. 

Thực tế, biết bao sóng gió bất ngờ xẩy ra hằng ngày với mỗi người, nhưng Thiên Chúa đã đích thân can thiệp để bảo vệ hoặc tỏ lòng yêu thương đối với chúng ta.  Hầu hết các sự kiện này thường không được chúng ta lưu ý.  Bao lâu chúng ta không suy niệm, không cầu nguyện, thì chúng ta vẫn chưa có thể khám phá được các lối rẽ cuộc đời. 

Có một điều lạ là rất nhiều người đã từng cam kết là Thiên Chúa ở rất gần gũi họ, thế mà họ vẫn cảm thấy vô cùng cô đơn và lẻ loi.  Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng, Thiên Chúa luôn ở sát cạnh những kẻ yếu đuối, đặc biệt là trong những khi họ rơi vào nghịch cảnh, để giúp họ trở nên vững mạnh.

‘’Lạy Chúa, xin giúp con nhớ lời Chúa hứa là sẽ ở lại với con luôn mãi.  Xin Chúa chỉ cho con biết các phương thức mà Chúa dẫn đưa con trên bước đường trần gian, và xin giúp con nhận biết chương trình của Chúa cả khi con âu lo, sợ hãi và cảm thấy hình như Chúa ở qúa xa con.  Amen.’’

Đức Bà Camêlô - Ngày 16 Tháng 7


Đức Bà Camêlô  -  Là ''Sao Biển''


 

     Lễ mừng kính Đức Bà Camêlô tổ chức vào ngày 16 tháng 7.  Mối tương quan giữa Đức Trinh Nữ Maria, thân mẫu Đức Kitô và ngọn núi danh tiếng Camêlô đã có một lịch sử lâu đời, từ thời khai mở Kinh Thánh, mục đích bảo vệ niềm tin trong thế gian, đối với Con Mẹ.


Đức Bà Camêlô

     Chúng ta hãy cùng nhau bắt đầu vào ngay câu truyện.  Tầm mức quan trọng của núi Camêlô đã có từ rất lâu, và rất lâu, nếu lội ngược giòng lịch sử.  Núi Camêlô toạ lạc trong một khu rừng rậm, nằm ở phía cực nam một thung lũng phì nhiêu, đã được biết đến từ thời cổ, xa xưa, với các sản phẩm như dầu và rượu.  

     Trên đỉnh núi nhìn xuống, có thể thấy toàn bộ quang cảnh bờ biển Địa Trung Hải, một điểm chiến lược quan trọng phòng thủ phần đất phong phú nằm phía dưới.  Nhiều dấu chỉ cho biết, người thời đá đã từng sống trong các hang động bên triền núi Camêlô. 

     Núi Camêlô là nơi được biết đến nhờ một cuộc ganh đua giữa Elia và 450 ngôn sứ của Baal, cũng như 400 ngôn sứ của Ashera (cả hai đều là các thần giả tạo). (1 Vua 8).

     Khu vực núi Camêlô tràn ngập cỏ cây trổ bông đủ mầu sắc, thảo mộc tỏa hương thơm ngào ngạt.  Vị hôn thê mỹ miều trong tác phẩm thơ văn của Salômôn mới có thể sánh kịp với vẻ đẹp của núi Camêlô (ThánhVịnh 7,5).  Trên các sườn núi tràn ngập cỏ nuôi sống súc vật. (Isaia 33,9; Giêrêmia 50,19; Amô 1,2).  Hang động thường là nơi các ẩn sị trú ngụ, qua nhiều thời đại, và cũng là chỗ ngôn sứ Elia và Eisa đã từng ẩn náu. (1 Vua 18,19; 2 Vua 2,25).  

     Điều này chứng minh rằng, Thiên Chúa luôn chăm lo, săn sóc đời sự sống của mỗi người. ‘’Karmel’’ là tiếng cổ Do Thái (Hebrev), nghĩa là ‘’đất vườn’’, hoặc ‘’chỗ phì nhiêu’’.

     Ngày lễ mừng kính 16 tháng 7 hiện nay, nhắc chúng chúng ta nhớ tới ngày sáng lập Dòng Camêlô vào thế kỷ mười hai.  Đấng sáng lập, Berthold, có lẽ là một người tham dự chuyến hành hương tới khu (dường như là hang động của ngôn sứ Elia), hoặc là một thành viên thuộc nhóm viễn chinh thập tự quân. 

     Truyền thoại kể rằng, Berthold đến từ miền nam nước Pháp, nhưng khi thực hiện cuộc mạo hiểm vào Đất Thánh, thì gặp phải những binh lính hung bạo.  Sau một thị kiến từ Đức Kitô, Berthold tới núi Camêlô, và thiết dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ, sau đó, những ẩn sĩ đến và xin gia nhập thành cộng đoàn, theo lối sống của Elia.

     Sau khi Berthold qua đời, thánh Brocard trở thành bề trên nhóm ẩn sĩ, và có thể là mấu chốt dẫn tới việc thiết lập Dòng Camêlô, vào thế kỷ mười hai. Theo truyền thống Dòng Camêlô, thì núi Camêlô được coi như là một tu hội, chuyên lo cầu nguyện từ thời ngôn sứ Elia. 

     Các ẩn sĩ xây một tu viện dâng kính Đức Trinh Nữ Maria, Đấng là ‘’Sao Biển’’ - một tước hiệu mô tả thân mẫu Đức Kitô là ‘’mây sự sống’’, bao phủ đại dương, hy vọng mưa sa chan hòa đất đai, ban tặng hoa mầu. (1 Vua 18,41-45). 

     Chúng ta qúa biết, từ đỉnh núi Camêlô, người ta có thể quan sát toàn bộ Địa Trung Hải và một vườn sự sống.  Suốt dòng lịch sử nối dài của tu viện, có những giai đoạn rất buồn thảm, nhất là trong thời gian dưới quyền kiểm soát của Hồi giáo, đã biến thành một giáo đường Hồi giáo mang tên là El-Maharrakah (nơi thiêu rụi của lễ, củi, đá, bụi và nước, do Elia đề xướng). (1 Vua 18,20-40).

     Vào thế kỷ mười tám, Napôlêon cho thiết lập một y viện tại núi Camêlô, nhưng vào năm 1821 thì bị phá hủy.  Dòng Camêlô quyên góp tiền của từ các chi hội, lúc này đã lan rộng khắp toàn cầu, để trùng tu viện.

     Tiếp tục câu truyện, chúng ta có thể đề cập tới (ảnh) áo Đức Bà Camêlô.  Theo truyền thoại Dòng Camêlô, (ảnh) áo là - một mảnh vải làm bằng len thô mầu nâu - được Đức Trinh Nữ trao cho ẩn sĩ Simon Stock, trong một thị kiến, lúc Ngài đang sống tại Anh quốc, vào thế kỷ mười ba. 
(Ảnh) Áo Đức Bà Camêlô
     Ngày 16 tháng 7 năm 1251, Simon Stock cầu xin Đức Maria ban cho Dòng một kiểu áo để các tu sĩ mặc, hầu có thể giải cứu Dòng thoát khỏi sức ép đến từ nhiều phiá.

     Đức Trinh Nữ tay cầm (ảnh) áo hiện ra và nói với Simon Stock rằng, ‘’Này con yêu dấu, hãy nhận lấy chiếc (ảnh) áo dòng của con, như một bằng chứng, Mẹ ban cho con và tất cả mọi hội viên Camêlô, một ơn đặc biệt, Mẹ dành cho những ai, trong giờ chết, mà mặc (ảnh) áo này, thì không phải chịu thiêu đốt đời đời.  Đó là dấu chỉ được cứu chuộc, được thoát khỏi mọi hiểm nguy, được bình an và hòa hợp’’. 

     Các lời hứa đi kèm với (ảnh) áo cho biết:  Đức Mria luôn bảo vệ và che chở Dòng Camêlô, cũng như tất cả những kẻ mang (ảnh) áo (gồm cả giáo dân Dòng Ba Camêlô); và đối với người mặc áo (hoặc ảnh áo) mang danh hiệu Đức Maria, đặc biệt được cứu giúp; đồng thời được quyền hưởng Ân Xá ‘’Sabbatine Privelege’’ do Đức Giáo Hoàng ban bố năm 1322, tha phần phạt trong Lửa Luyện tội cho những ai chết, dưới sự quan phòng của Đức Maria.

     Lịch sử Dòng Camêlô rất dài và tràn đầy ơn phúc.  Các tu viện được thiết lập khắp Âu châu và toàn thể các nơi trên thế giới, qua mọi thời đại. Nhiều tu sĩ, nam cũng như nữ, đã từng nhận được các thị kiến từ Đức Maria và Đức Giêsu. 

     Cho đến nay, hình như Đức Maria chiếu sáng như một ngôi sao trên đại dương, dẫn đưa các tín hữu đến với Con Mẹ, và gặt hái được nhiều ơn ích trong đời sống do Thiên Chúa ban tặng, bây giờ và đời đời, chẳng cùng.