Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

THÁNG MƯỜI – THÁNG MÂN CÔI ĐỨC BÀ


THÁNG MÂN CÔI ĐỨC BÀ

Hãy Năng Lần Hạt Mân Côi

Đức Giáo Hoàng Francis Và Đức Mẹ Fátima

Tháng 10 năm 2013
Đức Giáo Hoàng dâng thế giới cho Đức Mẹ Fátima
Tương quan tới Năm Đức Tin, vào ngày 12 tháng 10 năm 2013,
Đức Mẹ Fátima sẽ được đưa về Rôma.
Và sau thánh lễ đại trào tại công trường thánh Phêro,
Đức Giáo Hoàng Francis sẽ hiến dâng thế giới cho
Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.
Sau đó, Đức Giáo Hoàng Francis nối tiếp thi hành một truyền thống
đã do Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập,
và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II liên tục thực hiện,
là long trọng hiến dâng thế giới cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria

     Bức tượng Đức Trinh Nữ Fátima nguyên thủy, có chứa viên đạn bắn á thánh Gioan Phaolô II (trong cuộc mưu sát tại công trường Phêrô, ngày 13 tháng 5 năm 1981), gắn ở vương miện, đến công trường Phêrô, vào buổi chiều thứ bảy, và sẽ do Đức Giáo Giáo Francis thân hành nghênh đón bức tượng.

     Buổi chiều ngày 12 tháng 10 năm 2013, bức tượng sẽ được di chuyển tới thánh đường Madonna del Divino Amore tại Rôma, để cộng đồng tín hữu tham dự đêm canh thức cầu nguyệnĐây là lần thứ mười trong vòng non một trăm năm, tượng Đức Maria rời khỏi nguyện đường, được xây dựng sau khi thân hiện ở Fátima, Bồ Đào Nha.  

     Sáng ngày kế tiếp, 13 tháng 10 năm 2013, bức tượng sẽ trở lại công trường Phêrô.  Sau khi lần hạt, Đức Giáo Hoàng Francis sẽ cử hành thánh lễ và hiến dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.

Tiếp Tục Truyền Thống.
     Việc hiến dâng thế giới lần đầu tiên diễn ra dưới triều đại giáo hoàng Piô XII. Ngày 13 tháng 10 năm 1942, trong lúc Đệ Nhị Thế Chiến đang bùng nổ, Đức Giáo Hoàng đã hiến dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.  Tiếng nói từ đài phát thanh tại Bồ Đào Nha, Đức Giáo Hoàng đã nêu đích danh đặc biệt nước Nga, theo lệnh Đức Mẹ truyền cho ba trẻ chăn chiênk khi hiện ra tại Fátima.

     Việc hiến dâng thế giới lần thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 3 năm 1984, do Á thánh Gioan Phaolô II thực hiện, bên cạnh các cuộc biến động về hỏa tiễn tại Âu châu.  Ngoài ra, tượng Đức Mẹ Fátima cũng ở Rôma vào ngày 8 tháng 10 năm 2000, khi á thánh Gioan Phaolô II hiến dâng ngàn năm mới cho Đức Trinh Nữ Maria, trước sự có mặt của khoảng 1.500 giám mục từ khắp các nước trên thế giới.  Lời á thánh tỏ bầy với Đức Mẹ - vào một thời điểm không biết - trước cuộc tấn kích Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Nữu Ước (World Trade Center in New York), xẩy ra mười một tháng sau đó.  Trong dịp này, Đức Giáo Hoàng nói: thế giới đang đứng ở chân tường, và có thể chọn lựa để hướng tới một vườn nở đầy hoa, hoặc lao mình vào một đống hoang tàn, đổ nát.

Đức Giáo Hoàng Francis Và Đức Trinh Nữ Maria.  
     Đức Giáo Hoàng nói về chuyện bức tượng Đức Mẹ Fátima (mô phỏng) thánh du khắp thế giới, sau khi ngài đọc kinh truyền tin, vào ngày 17 tháng 3 như sau:   ‘’Tôi thụ phong giám mục vào năm 1992, đúng thời điểm bức tượng Đức Mẹ Fátima đến Buenos Aires, và một thánh lễ rất trọng thể dành cho bệnh nhân, trong lúc tôi ngồi tòa giải tội… một bà vào xưng tội và nói với tôi một câu rất đơn sơ, nhưng bầy tỏ đầy đủ đức tin của mình, khiến tôi vô cùng sửng sốt:  Nếu Chúa không tha thứ tất cả mọi sự, thì thế giới này chẳng thể nào tồn tại được.’’

     Một tháng sau, vị tổng quản Lissabon, hồng y José Policarpo kể việc Đức Giáo Hoàng Francis bảo hồng y hiến dâng chức giáo hoàng của ngài cho Đức Mẹ Fátima, như thế này:  ‘’Đức Giáo Hoàng Francis yêu cầu tôi, hai lần, là hãy hiến dâng chức tân giáo hoàng của ngài cho Đức Mẹ Fátima’’

     Hồng Y Policarpo bằng lòng, và ngài đã làm việc ấy vào ngày 13 tháng 5 năm nay – nhân dịp kỷ niệm 96 năm ngày Đức Mẹ  thân hiện lần đầu tiên với các trẻ chăn chiên, Lucia, Francisco và Jacinta.
           
       















Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Dacaria 8,20-23; - Thánh Vịnh 87,1-7; - Luca 9,51-56

 
Các Dân Tộc Sẽ Đến
Tìm Kiếm Đức Chúa Tại Giêrusalem

 
Ngôn sứ Dacaria nói những lời chúng ta vừa theo dõi, vào mùa đông, năm 518, trước công nguyên, tức là hai năm sau, kể từ ngày dân Do Thái từ miền lưu đầy Babylon trở về cố hương, và khởi công tái thiết đền thờ.  Dân chúng tỏ ra chán nản và thất vọng, khi nghe Dacaria phàn nàn, nào là đền thờ bây giờ chỉ bằng phân nửa lúc trước; nào là thành thánh cần thêm công sức hơn trong việc tu sửa, vì tường vách đã bị đổ nát; nào là làm thế nào để có thể sánh kịp với các đền thờ rộng lớn ở Babylon và Ai Cập!   

Dacaria quan tâm tới nhiều vấn đề, vì ông biết rõ chương trình của Chúa, và về ý nghĩa thâm sâu, liên hệ đến công tác mà dân chúng đang tham gia thực hiện.  Thiên Chúa hứa với Abraham:  ‘’Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.’’ (Sáng Thế 12,2-3).  Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng, để nhờ họ, sự công chính và tình yêu của Người có thể lan rộng đến tận cùng trái đất. 

Dacaria biết, Thiên Chúa trực tiếp thực hiện chương trình của Người, cụ thể là Người đã dẫn đưa dân Do Thái trở về cố hương.  Ông tiên đoán là Thiên Chúa sẽ đến ngự trong đền thờ Giêrusalem, và mọi dân, mọi nước sẽ đến tìm kiếm Người.  Niềm tin ấy giúp đồng bào Do Thái của ông thêm cậy trông n ơi Thiên Chúa, và hiểu rõ mục đích, tại sao họ phải tích cực tham gia tái thiết đền thờ.

Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta biết chương trình của Người, hầu chúng ta có thể thi hành bổn phận của mình cách cẩn trọng hơn; đó chính là việc Thiên Chúa sai Đức Giêsu đến thế gian cứu chuộc nhân loại tội lỗi.  Thiên Chúa kêu gọi dân Do Thái kết hợp với các sắc dân khác trên toàn cầu, không bằng máu thịt, nhưng trong Thánh Thần, để mọi người trở nên dân mới của Thiên Chúa.  ‘’Những người thuộc Dân Chúa, tuy chưa phải là tất cả, nhưng chắc chắn là hạt giống tạo sự hiệp nhất, niềm hy vọng, và ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại.  Được tạo dựng trong Chúa Kitô như một cộng đồng trong sự sống, tình yêu và đức tin, để chúng ta trở nên khí cụ của ơn cứu chuộc cho tất cả mọi người; hoặc trở nên ánh sáng cho trần gian và muối cho đời’’ (Mátthêu 5,13-16), và ‘’để gieo vãi đến tận cùng trái đất’’ (Ánh sáng muôn dân, số 9).

Dacaria biết rõ những điều, khiến các dân tộc tìm đến Giêrusalem; đó là tình yêu, niềm tin và sự bình an, mà Thiên Chúa đã ban cho dân riêng Người, để họ là chứng nhân của nhân loại.  Chúng ta cũng được chung hưởng ân sủng ấy.  Tình yêu là sức mạnh huyền nhiệm, có sức lôi cuốn mọi người tìm về với Chúa.

 Một điều mang tính cách khẩn trương mà Dacaria cảm nhận được, đó là việc Đức Kitô đến thế gian, và muốn mọi người được ơn cứu độ.  Chúng ta cùng nhau thực hiện ý Chúa, và cầu nguyện cho các dân tộc biết hoán cải.

‘’Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho mọi người được ơn cứu độ; và xin cho chúng con, là Giáo Hội Chúa, trở thành muối và ánh sáng, chiếu soi mọi người.  Chúng con cầu xin cách riêng cho dân tộc Do Thái, các vị trưởng lão được dồi dào trong đức tin, để họ dẫn đưa thế giới tiến lại với Chúa.  Amen.’’