MARTIN LUTHER (1483 – 1546)
Luther là nhân vật chính chống đối ngôi vị giáo hoàng công
giáo.
Luthêran cho
rằng, con người không thể nào tự cứu rỗi, do các việc mình làm,
nhưng mọi sự
đều tùy thuộc vào ân sủng Thiên Chúa.
Martin Luther sinh
ngày 10 tháng 11 năm 1483 tại Eislben. Sinh
ngày kính nhớ thánh Martin de Tours, nên ngay hôm sau, khi đưa đến nhà thờ thánh
Phêrô và Phaolô rửa tội, cha mẹ đã đặt tên cho con mình là Martin Luder.
![]() |
Martin Luther |
Thân phụ của Martin
Luder là thợ hầm mỏ, tên là Hans Luder.
Martin Luder lớn lên tại Mansfeld, cách Halle 35 kilômét, nơi thân phụ hành
nghề mỏ đồng. Thân phụ Martin Luder sau này trở thành viên chức hội đồng thành
phố tại quê nhà. Sống ở nơi đây và vào thời trung cổ, nên, như đa số cư dân khác,
Martin Luder tin vào ma qủi, phù thủy, và các điều dị đoan. Cùng lúc, Martin Luder sống trong và với Giáo
Hội Công Giáo, cũng như Giáo Hội sống trong và với nhân dân.
Martin Luder được
giáo dục theo đường lối của Giáo Hội. Từ năm 1489 đến năm 1495, Martin Luder học trường Latinh tại Mansfeld, và từ năm 1495
đến năm 1497 tại Magdeburg. Từ năm 1498
đến năm 1501, Maritn Luther theo học tại trường ở Eisenach. Năm 1501, Martin Luder nhập đại học tại
Erfurt, cho đến năm 1505 thì tốt nghiệp khóa căn bản triết học.
Vì một biến cố bất
ngờ xẩy đến, khiến Martin Luder không thể hoàn tất việc học tại phân khoa luật,
như ý thân phụ muốn, nên đành để cuộc đời ngả sang một hướng hoàn toàn khác. Trong một chuyến hành trình, giông tố, sấm xét
dữ dội nổi dậy, Luder nguyện xin Chúa cứu giúp, qua lời chuyển cầu của thánh
Anna, thân mẫu Đức Trinh Nữ Maria, và ông hứa sẽ gia nhập tu viện, nếu ông còn
sống. Đó là lý do, Luder, vào năm 1505, đã
phải rời bỏ đại học, để trở thành một thầy tu.
Ngày 17 tháng 7 năm
1505, Luder vội vã đăng ký gia nhập ẩn tu viện Dòng Augustin tại Erfurt. Sau thời gian tập luyện, Luder đã chịu chức
linh mục, vào ngày 4 tháng 4 năm 1507, tại thánh đường Maria ở Erfurt, do đức
giám mục phụ tá giáo phận Mainz, Johann Bonemich von Laasphe, chủ lễ. Luder dâng thánh lễ mở tay vào ngày 2 tháng 5
tại ẩn tu viện Augustin. Do năng khiêu
thiên bẩm, Luder được chỉ định học thần học tại đại học ở Erfurt.
Vào năm 1508, Luder tiếp tục theo thần học tại
Wittenberg, cho đến khi đậu tiến sĩ; cùng lúc, ông được bổ nhiệm giảng dậy môn
triết học luân lý. Năm 1510-11, Luder, với
tư cách là đại biểu của Dòng, có mặt tại Rôma. Vào năm 1512, bề trên bổ nhiện làm
giáo sư tại đại học Wittenberg, đặc trách một số môn Kinh Thánh. Năm 1517, Martin Luder đổi tên mình thành
Martin Luther; theo từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là: ‘’nhân vật giải phóng’’
Cuộc sống cá nhân và
các suy tư thần học của Luther có những gắn bó rất gần gũi nhau. Trong thời kỳ đầu với tư cách là một thầy tu,
Luther quan niệm rằng, con người có thể tự làm cho mình được cứu rỗi. Chính vì thế mà lúc nào Luther cũng chỉ muốn
sống đúng với các điều Giáo Hội khuyên dạy.
Cuộc đời Luther chưa
thay đổi, bởi vì ông vẫn nghĩ là chính mình mới có thể tự cứu rỗi mình. Nhưng, một suy tư trái ngược nẩy sinh, khi ông
hiểu Kitô giáo theo một chiều hướng hoàn toàn mới. Luther cho rằng, người tin vào Thiên Chúa, sẽ
được cứu rỗi; còn các việc làm không đóng vai trò quyết định. Luther nói:
Thiên Chúa không cần tới các việc làm tốt lành của con người; chỉ những
kẻ bần hàn mới cần mà thôi.
Xung
Khắc.
Trong thời gian phục
vụ tại Witterberg, với chức vụ linh mục, Luther cảm thấy sửng sốt trước câu nói
của Johann Tetzels, một tu sĩ Dòng ĐaMinh, đang quảng bá việc ‘’bán ân sủng’: ‘’khi đồng
tiền trong hòm kêu vang, thì tức khắc linh hồn ra khỏi luyện ngục’’, nghĩa là những ai dâng cúng tiền bạc cho Giáo
Hội, thì khi chết, nếu vào chốn luyện tội, phần phạt sẽ nhẹ hơn, sớm được lên
Thiên Đàng!
Luyện tội thời ấy được
hiểu là một nơi trừng trị những kẻ làm điều sai lầm, trước khi được giải thoát.
Luther cho rằng, ý tưởng dâng cúng để hưởng
ân sủng không thấy nói tới trong Kinh Thánh.
Sự hiểu biết và diễn
giải Kinh Thánh của Luther, đối nghịch hẳn với quan niệm của Giáo Hội Công Giáo,
do đó, tạo nên mối xung khắc tất yếu và rất khắc nghiệt. Luther viết 95 đề luận bằng La ngữ, đề cập tới
vấn đề lợi dụng ân sủng để đề cao vật chất, đồng thời nêu lên các điểm nòng cốt
cần có, liên hệ tới đức tin công giáo. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Luther gửi các đề án
này cho một số giám mục, tổng giám mục và nhiều bạn hữu học giả.
Các suy tư của Luther
được dịch sang tiếng Đức, và mau chóng lan truyền ra khỏi ranh giới nước Đức;
do đó chỉ trong thời gian ngắn, đã nhiều người biết đến tên tuổi Luther.
Luther nhiều lần bị
Giáo Hội Công Giáo thẩm vấn, vì cho rằng hầu hết các đề luận chỉ mang tính cách
công khai chống kháng, chứ không mang ý nghĩa thâm sâu về thần học. Tháng 7 năm 1518, cuộc bài trừ Luther khởi xướng
tại Rôma, mặc dù Luther cố gắng tổ chức những buổi đối thoại, nhưng tiến trình
không đem lại kết qủa mỹ mãn.
Giáo Hội Công Giáo
ban lệnh cấm tín hữu đọc các tài liệu ấy, đồng thời ép buộc Luther phải thu hồi
các sách đã phổ biến. Luther trả lời rằng:
‘’lấy Kinh Thánh chứng minh và dùng lời
cho biết, tôi sai ở phần nào; ngược lại, thì những điều tôi đưa ra là đúng.’’ Luther càng được biết tới qua câu trả lời trước
các giới chức buộc tội ông tại Worms, rằng:
‘’Tôi đứng ở đây, thì không thể ở chỗ
khác được.’’
Dịch
Kinh Thánh.
Để biện giải cho các
quan điểm của mình, Luther đã cho xuất bản nhiều sách. Ngoài ra, Luther còn viết những sách giáo lý,
dẫn chứng các điều then chốt liên quan tới Kitô giáo. Luther cũng dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức. Theo Luther, Kinh Thánh là Lời Chúa nói với
nhân loại.
Cũng theo Luther, mỗi
người đều có cơ hội tự đọc Kinh Thánh bằng ngôn ngữ của mình. Bản dịch của Luther được khen là chất lượng
ngôn ngữ cao. Giáo Hội công giáo thời bấy
giờ cử hành các nghi thức phụng vụ đều bằng tiếng Latinh, và những người dân thường
không thể có bản dịch Kinh Thánh bằng ngôn ngữ bản xứ. Luther nghĩ rằng, lý do cần quan tâm đặc biệt
là xử dụng hình thức phụng vụ nào cho thích hợp. Giáo Hội Công Giáo xử dụng bảy Bí Tích, nhưng
Luther chỉ chấp nhận Bí Tích Rửa tội và Bí Tích Thánh Thể.
Cải
Cách.
Luther đóng vai chính
trong việc cải cách, nghĩa là thay đổi cả giáo lý lẫn phụng vụ, dẫn tới việc
tranh cãi với bên Công Giáo vào năm 1521. Đó là nền tảng xây dựng Kitô giáo Thệ
Phản (danh từ được hiểu cách sát nghĩa
nhất đối với nhóm Luther – và có lẽ vì Nhóm Thệ Phản đặt trọng tâm vào Kinh
Thánh, nên dần dà được gọi là Đạo Tin Lành), cho đến năm 2005, số tín hữu đã
lên tới khoảng 590 triệu người. Đạo Tin
Lành chiếm ảnh hưởng lớn về chính trị và đối thoại trong xã hội.
Luther không phải là
người đầu tiên hoặc duy nhất cho rằng, con người được cứu rỗi, hoàn toàn do ân
sủng. Những nhà cải cách lớn khác cũng có cùng quan niệm như Luther, như người
Pháp Gioan Calvin và người Thụy Sĩ Ulrich Zwingli.
Nếu để lãnh vực thần
học và tín lý ra một bên, thì Luther thường được kể là nhân vật quan trọng nhất
trong số những người đem lại cho nền văn hóa hiện đại một ý nghĩa to lớn. Quan niệm đặc biệt của Luther về mối tương
giao giữa quốc gia và giáo hội cũng rất có giá trị.
Ông cho rằng, quốc
gia và giáo hội phải tách biệt nhau, với ý hướng xã hội được xây dựng trên luật
pháp, và có thẩm quyền trừng phạt công dân của mình; trong khi giáo hội là nước
ân sủng, trong đó người dân có thể nghe Tin Mừng, và sẵn sàng tha thứ cho các tội
nhân. Điều này được biết đến như một giáo
điều dành cho hai chế độ.
Kết Hôn
Với Katharina von Bora (1525-1546)
Từ tháng 4 năm 1521
đến tháng 3 năm 1522, Luther rời khỏi đời sống ẩn tu viện và giã từ tất cả mọi
trách nhiệm được trao phó trước kia.
Luther dồn mọi nỗ lực vào những dự tính riêng và việc suy niệm thần học.
![]() |
Katharina, Phu Nhân Martin Luther |
Mùa xuân năm 1521,
duy nhất một linh mục lập gia đình, và đã được Luther tán dương, mặc dù ông biết,
nếu linh mục mà làm như thế là trái với tình yêu dân
tộc. Trong khi Luther sống ẩn dật, các
cuộc cải cách vẫn tiếp diễn. Nhiều thầy
tu bắt đầu rời bỏ nhà Dòng và hồi tục.
Tháng giêng năm 1522, ban lãnh đạo Dòng ẩn tu Augustin tại Weimar ban lệnh
cho tất cả các tu sĩ được phép rời bỏ Dòng, sau khi tỉnh Dòng của họ giải tán và
nhà Dòng đóng cửa.
Ngày 27 tháng 6 năm 1525
Luther kết hôn với Katharina von Bora, một nữ tu đã cùng nhóm 11 nữ tu khác đào
thoát khỏi tu viện tại Nimbschen, miền nam Leipzig. Luther đã giúp họ bằng cách tìm cho mỗi nàng
một tấm chồng. Cặp vợ chồng Luther - Katharina sinh được 6 người con.
Chia
Sẻ Với Dân Do Thái và Thổ Nhĩ Kỳ.
Mặc dù ai cũng biết,
Luther có ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn hóa âu châu, và tỏ ra rất khoan từ,
thế mà người ta thường thấy, tại một số tiết mục, Luther lại hoàn toàn khắt khe,
gần như qúa khích, khi Luther tán dương các nước đã thi hành lệnh trục xuất những
người Do Thái ra khỏi lãnh thổ của họ.
Đối với dân Thổ Nhĩ
Kỳ, ông viết rằng: họ là những kẻ phục vụ cho ma qủi, và chắc chắn bị giam giữ trong
lửa thiêu đốt đời đời. Ông còn đi xa hơn
nữa khi nói, người ta sẽ không cảm thấy áy náy, khi một người Thổ bị giết chết
tại trận chiến, bởi vì người Thổ chỉ là kẻ thù của Thiên Chúa, nên dĩ nhiên sẽ bị
giam cầm khốn khổ bất tận trong hỏa ngục.
Khi viết về dân Do
Thái và Thổ Nhĩ Kỳ, lời của Luther có vẻ thiếu hòa nhã, với những dòng chữ vô cùng
tàn nhẫn, chứng tỏ các suy tư của ông hoàn toàn không phù hợp với quan niệm về
tình yêu, ân sủng và bình an, mà ông đã từng đề cao trong một số các sách do ông
viết và phát hành.
Sức tàn của Luthêran
dành để hoàn tất cuốn sách viết về sự hòa giải giữa Thiên Chúa và con người, trước
khi ông nhắm mắt lìa đời tại tỉnh nhà, Eisleben, vào năm 1546.
Các Tuyệt
Tác Phẩm.
Luther viết nhiều và
được kể là một trước tác gia tài ba; do đó, khó có thể chuẩn định rõ, những tác
phẩm nào là chính yếu. Ba cuốn sách sau đây
được tạm coi là quan quan trọng nhất:
Nói về sự tự do của người theo Kitô giáo -
năm 1520
Nói về các việc làm tốt lành - năm 1520
Cuốn giáo lý nhỏ - năm 1529