Thứ Tư, 10 tháng 7, 2013

CÁC THÁNH RẤT VANG DANH NỔI TIẾNG

CÁC THÁNH RẤT VANG DANH NỔI TIẾNG


Thánh Nữ Đồng Trinh Maria – Thân Mẫu Đức Giêsu.

Thánh Nữ Maria Và Hài Nhi Giêsu
     Theo sách Tin Mừng của thánh Luca, chương I, thì sứ thần Thiên Chúa hiện ra với Đức Maria, Đấng đã hứa hôn với người thợ mộc Giuse thành Nazarét.  Sứ thần nói với Maria rằng, bởi phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ có thai và sinh Con Thiên Chúa, đặt tên là Giêsu.  Maria chấp nhận tác vụ được trao phó với những lời như sau:  ’’Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.’’

     Vì lý do kiểm kê dân số, Maria cùng với Giuse phải đến Béthlehem, nơi Đức Giêsu sinh ra.  Sau đó, gia đình trở về Nazaréth.

     Theo Tin Mừng thánh Gioan, Maria cùng với Con đến dự tiệc cưới tai Cana, với tư cách là khách được mời.  Ở đây, Đức Giêsu đã công khai làm phép lạ đầu tiên, hoá nước thành rượu, theo lời thỉnh cầu của thân mẫu Người.

     Khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu trối cho tông đồ Gioan, hãy nhận thân mẫu Người làm mẹ và chăm nom, săn sóc bà, đồng thời xin Maria hãy coi Gioan như con mình.

     Giáo Hội công giáo dậy rằng, Đức Maria không mắc tội tổ tông, cũng không bao giờ phạm tội, hoàn toàn trinh sạch, suốt đời, và Thiên Chúa đã cho bà lên trời cả hồn lẫn xác.  Người ông giáo tôn vinh Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, và luôn xin bà cầu cùng Chúa cho họ, đồng thời coi thánh nữ Maria như một gương mẫu đức vâng lời.

     Mỗi năm, có hàng triệu người hành hương tới những nơi mà họ tin là Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra.  Đa số đã đến Lộ Đức, Pháp và Fatima, Bồ Đào Nha.

Thánh Phanxicô Assisi – Nghe Theo Lời Đức Giêsu.

francis3
Thánh Phanxicô Assisi

     Phanxicô (sinh năm 1182, qua đời năm 1226), là con của một thương gia (buôn bán quần áo, chăn mền) giầu có.  Thuở thiếu thời, Phanxicô sống một cuộc đời sang trọng, lễ tiệc linh đình tại quê nhà ở Assisi.  Khi được 20 tuổi, cậu gia nhập quân đội, tham dự cuộc chiến diễn ra giữa Assisi và thị trấn lân cận, Perugia, rồi bị bắt làm tù binh.  Cậu ở trong tù một năm, rồi lâm bệnh và bắt đầu nghĩ nhiều đến đức tin của mình.

     Khi Phanxicô đã được giải phóng, dần dà có ý hướng giúp những người bệnh tật và nghèo túng.

     Cuối cùng, Phanxicô quyết định sống theo lời Đức Giêsu:  ’’Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.  Rồi hãy theo tôi.’’ (Mátthêu 19,21).

     Phanxicô đoạn giao với thân phụ và giã từ cuộc sống xưa cũ, tự nguyện dấn thân vào đời sống nghèo khó và khổ hạnh.  Phanxicô mặc quần áo sờn rách, tự nuôi sống mình bằng cách khất thực, và lao động cực nhọc để kiếm ăn từng bữa, trong suốt thời gian dài lang thang rao giảng Tin Mừng.

     Một số nam giới nhập đoàn với Phanxicô, và cộng đoàn này dần dà phát triển thành Dòng Phanxicô, đã được Đức Giáo Hoàng chuẩn nhận vào năm 1210, và lan rộng rất nhanh ở hầu hết các nước tại Âu châu.  Cùng với thánh nữ Clara thành Asssisi, Phanxicô lập thêm một Dòng dành riêng cho nữ giới.  Lối sống tinh thần Phúc Âm của Phanxicô đã gây cảm hứng cho rất nhiều người, kể từ trước đến ngày nay.

     Phanxicô đã theo các thành viên thập tự quân sang Ai Cập để truyền giáo cho các tín đồ đạo Hồi, nhưng không mấy thành công, tuy nhiên Phanxicô đã có dịp gặp gỡ vua hồi giáo tại Ai Cập, tạo cho Phanxicô một ấn tượng rất lớn.  Sau đó, Phanxicô hành hương Đất Thánh trong đôi tháng.

     Vào những năm cuối đời, Phanxicô trao quyền lãnh đạo Dòng cho một số đệ tử.  Hai năm, trước ngày qua đời, Phanxicô chịu các thương tích (stigma) của Đức Kitô. Phanxicô lâm bệnh và bị mù.  Phaxicô qua đời lúc 45 tuổi, và được phong thánh, chỉ hai năm, sau ngày chết.   

     Phanxicô là người được biết đến nhờ hết lòng yêu mến các tạo vật do Thiên Chúa dựng lên.  Phanxicô là quan thầy, là đấng bảo trợ cho các thú vật, môi sinh và nước Ý.  Thành phố San Francisco mang tên ngài.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thành Lisieux -  Con Đường Hẹp Đến Với Chúa.

therese
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu

     Thérèse Martin (sinh năm 1973, qua đời năm 1897), sinh ra trong một gia đình rất sùng đạo, tại miền Bắc nước Pháp.  Gia đình gồm có năm chị em, tất cả đều trở thành nữ tu; và Têrêsa gia nhập nữ tu viện Dòng Camêlô tại Lisieux từ lúc 15 tuổi, nơi cuộc sống trong thinh lặng, cầu nguyện và lao động, cho đến khi Têrêsa qua đời vào lúc 24 tuồi, vì mắc bệnh lao phổi. 

     Lý do Têrêsa trở thành một trong các vị thánh vang danh, lừng tiếng trong thời đại mới, là nhờ cuốn tự thuật tiểu sử, do nữ tu bề trên tu viện ép buộc Têrêsa phải viết, đã được tu chỉnh và xuất bản sau khi Têrêsa qua đời.  Cuốn sách trở thành một tác phẩm bán rất chạy, vì tâm hồn đơn sơ của Têrêsa, cùng với thông điệp liên quan tới ’’con đường hẹp đến với Chúa’’:  Cuộc sống người Kitô hữu, tiên vàn, là nhận ra sự yếu đuối của mình, và tin cậy vào tình thương của Chúa, chứ đừng nghĩ đến việc phải thực hiện những công trình to lớn, hoặc oai hùng, nhưng chỉ cần làm các việc nhỏ bé trong mỗi ngày, với tấm lòng yêu mến Chúa.

     Cuốn sách phát hành, Têrêsa trở nên vang danh nổi tiếng rất nhanh. Têrêsa được phong thánh năm 1925, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn vinh Têrêsa là tiến sĩ Giáo Hội, một tước hiệu danh dự, chứng minh thánh nữ đã đóng góp cho Giáo Hội công giáo một giáo huấn quan trọng. 

     Têrêsa cũng được gọi là một ’’bông hoa nhỏ bé’’, ’’hay một tâm hồn nhỏ bé’’, hoặc ’’một nhân vật ưu tú nhỏ bé’’.  Têrêsa là quan thầy, là đấng bảo trợ các sứ vụ truyền giáo.  Thân phụ mẫu của Têrêsa là Louise và Zélie Martin, được phong Á thánh vào năm 2008.

Thánh Inhaxiô Loyola – Sáng Lập Dòng Tên.

IgnatiusLoyola
Thánh Inhaxiô Loyola

     Inhaxiô Loyola (sinh năm 1491, qua đời năm 1556), là con một gia đình qúi tộc, và bắt đầu sự nghiệp bằng nghề lính.  Năm 1517, khi tham dự một trận chiến, Inhaxiô trúng đạn đại bác và bị thương ở chân, nên phải nằm dưỡng bệnh trong nhiều tháng.  Khi lành bệnh, Inhaxiô bắt đầu đọc các trình thuật về Đức Kitô và cuộc đời các thánh; dần dà Inhaxiô nhận ra rằng, mình nên noi gương các thánh và phụng sự Thiên Chúa, tốt hơn là theo binh nghiệp.

     Sau khi trở lại, trước tiên, Inhaxiô sống cuộc đời khổ hạnh trong một thời gian, với tính cách là ẩn sĩ, và đi hành hương đến Giêrusalem.  Rồi Inhaxiô quyết định học để làm linh mục, hầu cứu giúp ’’các linh hồn’’.  Trong thời gian học ở Paris, năm 1534, Inhaxiô đã cùng với sáu đồng bạn khấn sống khiết tịnh, khó nghèo và phục vụ Giáo Hội.  Ba năm sau, nhóm lại họp mặt và đến Rôma gặp Đức Giáo Hoàng, để nêu rõ ý nguyện phục vụ của mình.  Các ngài hứa là sẽ vâng lời và sẵn lòng phục vụ Đức Giáo Hoàng, bất cứ ở đâu, và bất cứ lúc nào; Dòng Tên được phê chuẩn nhận năm 1540.

     Ngay từ khởi đầu, Dòng Tên đã được biết đến là nhờ các hoạt động nơi trường học, từ cấp tiểu, trung và đại học, cũng như sứ vụ truyền giáo, trên khắp toàn cầu.  Không như những Dòng khác, Dòng Tên không buộc các thành viên phải cư ngụ trong cùng một tu viện, cũng không phải mặc áo Dòng, hoặc đọc kinh thần vụ chung.  Như thế, đời sống các thành viên Dòng Tên được kể là uyển chuyển, và sẵn sàng phục vụ những nơi cần đến mình. 

     Inhaxiô dùng năm năm cuối đời mình để điều hành và hướng dẫn Dòng tân lập này, đồng thời phái các nhà truyền giáo tới những nơi xa xôi trên thế giới. Inhaxiô còn là vị lãnh đạo tinh thần, và vào năm 1548 đã cho phát hành tập sách nội dung ảnh hưởng nhiều tới đời sống tinh thần, mang tên là ’’Cuốn Linh Thao’’.  Khi Inhaxiô nhắm mắt lìa đời, Dòng Tên có trên 1.000 thành viên, trên bình diện toàn cầu.  Hiện nay có 18.00 thành viên.          

     Ngoài Dòng Tên, thánh Inhaxiô còn là đấng bảo trợ, quan thầy của ngành giáo huấn, binh lính và các nhân viên đặc trách những buổi tĩnh tâm.

Thánh Phêrô – Tông ĐồTrưởng.

stpeter
Thánh Phêrô Tông Đồ Trưởng

     Lúc gặp Đức Giêsu, Phêrô (chết khoảng năm 64), và người anh tên là Andrê, đang hành nghề đánh cá tại biển hồ Galilê.  Đức Giêsu hứa là sẽ làm cho các ngài trở thành ’’những kẻ lưới người’’ như lưới cá, và các ngài quyết tâm theo Người (Máccô 1,17). Phêrô tên thật là Simon, nhưng Đức Giêsu đã đặt tên cho ngài là Kêpha, nghĩa là ’’tảng đá’’, và qua Hy ngữ dịch sang tiếng ViệtNam là Phêrô (Mátthêu 16,18.

     Phêrô là một trong nhóm mười hai tông đồ, được Kinh Thánh nhắc đến tên nhiều nhất, và ngài luôn đứng đầu trong danh sách các tông đồ.  Phêrô là một trong ba tông đồ được Đức Giêsu đem ra một chỗ, tới một ngọn núi cao (Tabor – Mátthêu, chương 17).

     Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, chương 16, thì Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, do đó, Đức Giêsu nói là trao cho Phêrô ’’chìa khóa Nước Trời’’, và ’’quyền lực để cầm buộc hay tháo cởi’’.   

     Vào ngày thứ sáu tuần thánh, trước mặt các tên phục vụ vị thượng tế Do Thái, Phêrô đã chối Đức Giêsu ba lần, nhưng, Phêrô lại là nhân vật đầu tiên được Đức Giêsu hiện ra, sau khi đã sống lại. Hậu qủa việc chối bỏ ấy, Đức Giêsu Phục Sinh đã đòi Phêrô phải xác định ba lần là, Phêrô yêu mến Người.  Sau đó, Đức Giêsu chứng thực vai trò lãnh đạo của Phêrô bằng một các câu như sau:  ’’Hãy chăm sóc chiên con của Thầy’’’’Hãy chăm sóc chiên của Thầy’’  (Gioan 21,15-19).

     Theo sách Công Vụ Tông Đồ thì Phêrô giữ vai trò lãnh đạo trong số những người Kitô hữu tiên khởi.  Phêrô rao giảng, làm phép lạ và quyết định mọi việc.  Phêrô cũng thân chinh thực hiện các cuộc hành trình truyền giáo, và theo truyền thống, Phêrô đến Rôma, rồi tử đạo ở đấy.  Người công giáo coi Giáo Hoàng là đấng kế vị thánh Phêrô.

     Ngoài ngôi vị là quan thầy, là đấng bảo trợ đức giáo hoàng, Phêrô còn là quan thầy, đấng bảo trợ các ngư phủ, cũng như giới đóng thuyền bè và thợ làm chìa khóa.  Thánh đường lừng danh nhất mang tên thánh nhân là Đền Thánh Phêrô tại Rôma, mà theo truyền thuyết, đã được xây dựng ngay trên mộ phần của Người.

Thánh Tôma Aquinô  - Triết Gia Đức Tin Và Lý Trí.

Billede
Thánh Tôma Aquinô

     Tôma (sinh năm 1225, qua đời năm 1274), sinh ra trong một gia đình qúi tộc, gần Acquino, nước Ý.  Thuở thiếu thời, Tôma vào học tại tu viện Dòng Bênêđictô ở Monte Cassino; lớn lên nhập đại học ở Napoli; tại đây Tôma học chuyên biệt môn triết của Aristotle, tạo ảnh hưởng nhiều tới cuộc đời của Tôma, đồng thời cả Dòng ĐaMinh nữa, qua việc nghiên cứu và học tập. 

     Đến năm 19 tuổi, Tôma quyết định trở thành hội viên Dòng ĐaMinh.  Gia đình Tôma chống đối, không muốn cho Tôma trở thành một thành viên của một Dòng, sống bằng khất thực, nên các anh của Tôma đã bắt cóc Tôma, đem nhốt vào một chỗ, trong suốt một năm.  Cuối cùng, gia đình phải chấp thuận thả Tôma ra.  Sau đó, Tôma sang Paris học, nơi thánh Albert Cả.

     Tôma dùng quãng đời còn lại trong việc giảng thuyết và dậy học tại nhiều chỗ khác nhau, như Paris và Ý; đặc biệt chuyên về nghiên cứu và viết lách.  Tác phẩm nổi tiếng của Tôma là Summa Theologica (thần học tổng luận),

     Tôma là một triết gia kinh điển nổi tiếng nhất, và những tư tưởng của Tôma chiếm một vị thế rất quan trọng đối với ngành thần học công giáo, trong đó có vấn đề tương quan giữa đức tin và lý trí.  Theo Tôma thì đức tin và lý trí không gắn liền nhau, nhưng không đối nghịch nhau, và bởi vì tất cả đều phát xuấ từ Thiên Chúa, nên chúng chưa bao giờ có những xung khắc với nhau.

     Ngoài trí óc thông minh, Tôma còn được biết đến nhờ tinh thần đạo đức và tính tình khiêm nhu.  Tôma còn viết một số bài thánh ca, hiện nay vẫn còn được xử dụng trong Giáo Hội công giáo.  Thánh Tôma Aquinô là quan thầy, đấng bạo trợ cho các thần học gia, triết gia, các đại học và sinh viên.

Thánh Laurensô -  ’’Đây Là Tài Sản Của Giáo Hội.’’        

Lawrence
Thánh Phó Tế Tử Đạo Laurensô

     Thánh Phó Tế Laurensô (chết năm 258), là một vị tử đạo danh tiếng nhất thời Giáo Hội sơ khai.  Người ta không biết nhiều về đời sống của Laurensô, ngoài một điều chắc chắn, Laurensô là phó tế ở Rôma, dưới triều đại của hoàng đế lùng bắt những người theo Kitô giáo – Valerian.

     Câu chuyện quen thuộc nhất về Laurensô là, Laurensô giữ nhiệm vụ quản lý tài sản của Giáo Hội, để trợ giúp những người nghèo.

     Liên quan tới các thời kỳ lùng bắt người tín hữu Kitô giáo (cấm đạo), viên tổng trấn thành phố Rôma ban lệnh cho Laurensô phải nộp tất cả tài sản của Giáo Hội cho hoàng đế.  Laurensô dành ra ba ngày liền để phân phát toàn bộ tài sản của Giáo Hội cho những người nghèo. Thế rồi, Laurensô qui tụ một nhóm người nghèo, các trẻ em mồ côi, những người ở góa, các bệnh nhân, những người tàn tật lại, đem đến trình diện viên tổng trấn thành phố, đoạn nói: ’’Đây là tài sản của Giáo Hội’’.  Hậu quả là, Laurensô chịu tử hình dưới hình thức bị đem đi nướng trên vỉ sắt.  Khi còn nằm trên vỉ sắt, Laurensô nói:  ’’Đảo ngược tôi lại, một bên đã chín rồi.’’    

     Một số học giả nghĩ rằng, Laurensô bị trảm quyết, bởi vì chặt đầu là phương cách trừng phạt rất thông thường của người Rôma thời bấy giờ.  Tuy nhiên, huyền thoại bị nướng trên vỉ sắt đã làm cho Laurensô trở nên đấng bảo trợ, quan thầy các tay đầu bếp và những tên kể chuyện khôi hài.

Thánh Tôma More – Nhân Vật Phục Hưng Đã Trở Thành Đấng Tử Đạo.

Thomas More
Thánh Tôma More Tử Đạo

     Tôma More (sinh năm 1478, qua đời năm 1535), sinh ở Luân Đôn, là con của một thẩm phán.  Tôma More theo bước chân của thân phụ, và đã rất thành đạt trong sự nghiệp, qua chức luật sư và chính trị gia.  Trong cương vị thẩm phán, Tôma More có tiếng là người thanh liêm và chính trực.  Tôma More còn là trước tác gia, và tác phẩm được biết đến nhất của Tôma More là Utopia (không tưởng).

     Đời sống cá nhân, Tôma More được biết đến như một học giả và nhà tư tưởng đại tài.  Tôma More còn là một người cha đầy thương mến trong gia đình, đã cho các con gái mình học hành giỏi giang hơn các phụ nữ khác đồng thời, một cơ hội để tiến thân.

     Sự nghiệp của Tôma đạt tới chót đỉnh, khi Vua Henrik VIII, vào năm 1529 đã thăng Tôma More lên chức tể tướng.  Nhưng Tôma More xin từ nhiệm vào năm 1532, vì bất đồng với ý của vua là, hủy bỏ hôn ước với Catarina Aagonien.  Vua muốn thành hôn với Anne Boleyn, vì hy vọng sinh được con trai để làm người thừa kế.

     Cuộc xung đột hôn nhân dẫn vua tới quyết định nắm giữ quyền lực tôn giáo tại Anh quốc.  Tôma More từ chối lời cam kết phủ nhận thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng.  Tôma More bị bỏ tù, vì không thừa nhận vua là vị lãnh đạo thượng tôn của Giáo Hội, cuối cùng Tôma More bị tố cáo phạm tội phản quốc, và bị kết án tử hình, bằng cách trảm quyết.

     Tại phiên toà xét xử, Tôma More nhấn mạnh rằng, ngài không thể phản lại lương tâm chân chính của mình và khi bước lên giàn trảm quyết, Tôma More nói:  ’’Tôi chết như một kẻ tôi trung của vua, nhưng Thiên Chúa là trên hết.’’
     Thánh Tôma More là quan thầy, đấng bảo trợ của các luật gia, chính trị gia và giới công chức.

Thánh Maximilian Kolbe – Thí Mạng Sống Vì Bạn Tù Tại Auschwitz

Maximilian Kolbe
Thánh Maximillian Kolbe 

     Maximillian Kolbe (sinh năm 1894, qua đời năm 1941), là một linh mục Dòng Phanxicô.  Khi BaLan bị quân đội Đức quốc chiếm đóng, M. Kolbe tham gia giúp dân tị nạn, trong đó có 1.500 người Do Thái, và nhà Dòng của M. Kolbe phát hành một bản tin, cực lực chống đối các hành động của quân đội độc tài nazist.  Vì thế, M. Kolbe bị đưa đi phát vãng ở Auschwitz.

     Vào tháng bảy năm 1941, bất chợt mười tù nhân được lựa chọn để chịu hình phạt nhịn đói cho đến chết, vì có một người trốn ngục.  Trong số tù nhân chịu hình phạt ấy, một người tên là Franciszek Gajowniczek, than van rằng, có lẽ chẳng bao giờ anh còn nhìn thấy mặt vợ và con nữa, thế là M. Kolbe tình nguyện chết thay cho anh.

     Là linh mục, nên M. Kolbe nghĩ là mình có bổn phận phải giúp đỡ các bạn tù cho đến giờ sau hết.  Tại căn trại tuyệt thực, M. Kolbe không ngừng khích lệ các tù nhân khác và chuẩn bị giờ chết cho họ, bằng cách hát và cầu nguyện chung với họ.  Sau một tuần lễ thì M. Kolbe và các bạn tù còn sống sót mỗi người được chích một mũi thuốc tử vong.

     Franciszek Gajowniczek chết hụt ở Auschwitz, và đến năm 1995 mới qua đời.

     Thánh Maximilian Kolbe là quan thầy, đấng bảo trợ của giới ký giả và các tù nhân.

Hildegard Bingen -  Một Phụ Nữ Đáng Lưu Ý.

hildegard
Nữ Tu Heldegard Lập Dòng

     Hildegard (sinh năm 1098, qua đời năm 1179), xuất thân từ một gia đình qúi tộc.  Khi còn nhỏ, Hildegard được gửi vào học tại tu viện Dòng Bênêđíctô, để học đọc, học viết.  Đến năm 1136 thì Hildegard được các nữ tu bầu làm bề trên tu viện. 

     Hildegard có một sức khỏe tương đối yếu, thế mà cũng sống tới 80 tuổi, và đạt tới khả năng thành lập hai tu viện, viết một số sách y khoa, thiên nhiên, và nhiều bài khác nhau, mang chủ đề tôn giáo.

     Hildegard đón nhận nhiều thị kiến kỳ diệu, đến nỗi Hildegard được người đời tặng cho biệt danh là ’’Rhinen’s Sibylle-ngôn sứ xứ Rhine - profetina teutonica’’.  Thị kiến của Hildegard đã được ghi lại và được đức giáo chuẩn thuận, cho phép Hildegard công khai diễn thuyết.

     Vào khoảng cuối đời, Hildegard di chuyển tới nhiều nơi trong nước Đức để đàm đạo với những ai cần đến lời răn giải của mình.  Hildegard quan hệ bằng thư từ với rất nhiều người, trong đó có một số cấp lãnh đạo thế lực thời bấy giờ, tôn giáo cũng như thế tục.

     Ngoài ra, Hildegard cũng là một nghệ sĩ, thi sĩ, tác giả truyện phim và nhà soạn nhạc; đặc biệt âm nhạc của Hildegard vẫn còn được trình diễn.

     Hildegard luôn được liệt vào hàng thánh nhân, nhưng Hidegard chưa chính thức được phong thánh.     

     Tháng chín năm 2010, nhân dịp giới thiệu loạt tài liệu giáo huấn của ngài, liên hệ tới những phụ nữ quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã đề cập tới Hildegard.  Đức Thánh Cha tóm lược ý nghĩa và niềm hân hoan đón nhận Hildegard của con người hiện đại, khi nói:  ’’Hildegard đã nói những gì, đều diễn ra rất chính xác trong thời đại chúng ta, vì Hildegrad hiểu rõ dấu chỉ thời gian và vì yêu mến Đấng Tạo Dựng, y khoa, văn chương, âm nhạc và Đức Kitô cũng như Hội Thánh của Người.’’    

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 14 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 14 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 44,18-21.23-29.45,1-5;
- Thánh Vịnh 105,16-21; - Mátthêu 10,7-15
 
Có lẽ mọi người đều tỏ ra xúc động sau khi đọc đoạn trích sách Sáng Thế hôm nay.  Lời biện giải đầy cảm kích của Giuđa, có ý kêu nài Giuse đừng bắt giữ Benjamin lại, vì cha già Giacóp yêu thương đứa con út cách riêng.  Giuse gạt nước mắt, trước khi tiết lộ cho các anh biết tông tích của mình, được ví như một tấn bi hung kịch vô cùng sinh động. 
Bối cảnh lịch sử có thể khác với lối sống hiện tại của chúng ta, nhưng câu truyện liên quan tới Giuse phản ảnh trung thực tình cảm con người, ở bất cứ thời đại nào.  Giuse muốn nhìn thấy các anh phải thực sự thay đổi, và chính vì thế, Giuse đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nhắc các anh nhớ lại điều lỗi phạm nặng nề, mà các anh đã hành xử với mình.  Khi bán Giuse làm nô lệ, các anh không chỉ gây thiệt hại đời sống riêng của Giuse, mà còn làm cho cha của các anh phải buồn phiền, đau khổ. 
Qua lời giải thích của Giuđa, chúng ta nhận thấy, anh đã thay đổi rất nhiều, đặc biệt là cách biểu lộ lòng trắc ẩn sâu nặng đối với người cha già Giacóp.  Trong qúa khứ, Giuđa đã đồng tâm bán đứa em Giuse đi làm nô lệ; nay Giuđa tình nguyện ngồi tù, để người em út Benjamin được sống trong tự do.  
Bằng một câu nói đầy nhân hậu, Giuse muốn chứng minh cho các anh biết, sự kiện diễn ra như thế là do ý tiền định của Thiên Chúa, hầu các anh không cảm thấy quá phiền sầu, đắng cay:  ‘’Người đã sai tôi sang Ai Cập trước anh em để duy trì sự sống.’’
Nhìn vào các yếu đuối và trở ngại, cũng như những sai lầm do chính mình gây nên trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta dễ chán nản và thất vọng, nhưng Thiên Chúa muốn hoạt động như thế nơi chúng ta. Tuy nhiên, tất cả những gì xẩy ra, gây phiền sầu trong cuộc sống, có thể cũng là cách Thiên Chúa đang thực hiện chương trình của Người.  Ngay những khi chúng ta sa ngã, phạm tội, cũng là cơ hội Chúa xử dụng để biến đổi chúng ta trở nên dụng cụ tốt lành, mặc dù tội lỗi không thể tự làm cho tội lỗi trở nên tốt lành được.
Chương trình của Thiên Chúa quan trọng hơn cả tội lỗi và sự thất bại nơi chúng ta.  Việc làm duy nhất của chúng ta là không ngừng sám hối và tiếp tục thăng tiến.  Chúng ta cần tin tưởng rằng Thiên Chúa hoạt động trong tất cả mọi biến cố hằng ngày, khiến chúng ta khó có thể đo lường và suy luận đủ.
Giuse hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, qua mọi trở ngại và bất công, kể cả những khi bất ngờ xẩy đến, và vượt ra ngoài sự tính toán hay tiên liệu của mình.  Nhiều khi Giuse tưởng như đã bị Thiên Chúa đã bỏ rơi, và nhiều lần Giuse định tâm gây thiệt hại cho các anh để trả thù, nhưng nhờ đức tin kiên vững, Giuse đã đặt trọn niềm cậy trông vào Thiên Chúa.  Học ở nơi Giuese tấm gương trung tín, chúng ta chỉ biết phó thác tương lai vào bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa.
‘’Lạy Chúa, Chúa có chương trình riêng cho mỗi người chúng con, ngay cả chúng con cũng không biết điều đó.  Xin cho chúng con đừng bao giờ buồn chán vì tội lỗi chúng con đã vấp phạm, nhưng xin cho chúng con bền tâm tin tưởng, quyền năng Chúa mạnh mẽ hơn tất cả mọi khó khăn, trở ngại đang vây quanh chúng con.  Amen.’’