CÁC THÁNH RẤT VANG DANH NỔI TIẾNG
Thánh Nữ Đồng Trinh Maria – Thân Mẫu Đức Giêsu.
![]() |
Thánh Nữ Maria Và Hài Nhi Giêsu |
Vì lý do kiểm kê dân số, Maria cùng với
Giuse phải đến Béthlehem, nơi Đức Giêsu sinh ra. Sau đó, gia đình trở về Nazaréth.
Theo Tin Mừng thánh Gioan, Maria cùng với
Con đến dự tiệc cưới tai Cana, với tư cách là khách được mời. Ở đây, Đức Giêsu đã công khai làm phép lạ đầu
tiên, hoá nước thành rượu, theo lời thỉnh cầu của thân mẫu Người.
Khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu trối
cho tông đồ Gioan, hãy nhận thân mẫu Người làm mẹ và chăm nom, săn sóc bà, đồng
thời xin Maria hãy coi Gioan như con mình.
Giáo Hội công giáo dậy rằng, Đức Maria không
mắc tội tổ tông, cũng không bao giờ phạm tội, hoàn toàn trinh sạch, suốt đời, và
Thiên Chúa đã cho bà lên trời cả hồn lẫn xác.
Người ông giáo tôn vinh Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, và luôn xin bà cầu
cùng Chúa cho họ, đồng thời coi thánh nữ Maria như một gương mẫu đức vâng lời.
Mỗi năm, có hàng triệu người hành hương tới
những nơi mà họ tin là Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra. Đa số đã đến Lộ Đức, Pháp và Fatima, Bồ Đào
Nha.
Thánh Phanxicô Assisi – Nghe Theo Lời Đức Giêsu.
![]() |
Thánh Phanxicô Assisi |
Phanxicô (sinh năm 1182, qua đời năm 1226), là con của một thương gia (buôn bán quần áo, chăn mền) giầu có. Thuở thiếu thời, Phanxicô sống một cuộc đời sang trọng, lễ tiệc linh đình tại quê nhà ở Assisi. Khi được 20 tuổi, cậu gia nhập quân đội, tham dự cuộc chiến diễn ra giữa Assisi và thị trấn lân cận, Perugia, rồi bị bắt làm tù binh. Cậu ở trong tù một năm, rồi lâm bệnh và bắt đầu nghĩ nhiều đến đức tin của mình.
Khi Phanxicô đã được giải phóng, dần dà có
ý hướng giúp những người bệnh tật và nghèo túng.
Cuối cùng, Phanxicô quyết định sống theo lời Đức
Giêsu: ’’Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy bán tài sản của anh và đem cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy theo tôi.’’ (Mátthêu 19,21).
Phanxicô đoạn giao với thân phụ và giã từ
cuộc sống xưa cũ, tự nguyện dấn thân vào đời sống nghèo khó và khổ hạnh. Phanxicô mặc quần áo sờn rách, tự nuôi sống mình
bằng cách khất thực, và lao động cực nhọc để kiếm ăn từng bữa, trong suốt thời
gian dài lang thang rao giảng Tin Mừng.
Một số nam giới nhập đoàn với Phanxicô, và
cộng đoàn này dần dà phát triển thành Dòng Phanxicô, đã được Đức Giáo Hoàng chuẩn
nhận vào năm 1210, và lan rộng rất nhanh ở hầu hết các nước tại Âu châu. Cùng với thánh nữ Clara thành Asssisi, Phanxicô
lập thêm một Dòng dành riêng cho nữ giới.
Lối sống tinh thần Phúc Âm của Phanxicô đã gây cảm hứng cho rất nhiều
người, kể từ trước đến ngày nay.
Phanxicô đã theo các thành viên thập tự quân
sang Ai Cập để truyền giáo cho các tín đồ đạo Hồi, nhưng không mấy thành công,
tuy nhiên Phanxicô đã có dịp gặp gỡ vua hồi giáo tại Ai Cập, tạo cho Phanxicô một
ấn tượng rất lớn. Sau đó, Phanxicô hành
hương Đất Thánh trong đôi tháng.
Vào những năm cuối đời, Phanxicô trao quyền
lãnh đạo Dòng cho một số đệ tử. Hai năm,
trước ngày qua đời, Phanxicô chịu các thương tích (stigma) của Đức Kitô. Phanxicô
lâm bệnh và bị mù. Phaxicô qua đời lúc
45 tuổi, và được phong thánh, chỉ hai năm, sau ngày chết.
Phanxicô là người được biết đến nhờ hết lòng
yêu mến các tạo vật do Thiên Chúa dựng lên.
Phanxicô là quan thầy, là đấng bảo trợ cho các thú vật, môi sinh và nước
Ý. Thành phố San Francisco mang tên ngài.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thành
Lisieux - Con Đường Hẹp Đến Với Chúa.
![]() |
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu |
Thérèse Martin (sinh năm 1973, qua đời năm 1897), sinh ra trong một gia đình rất sùng đạo, tại miền Bắc nước Pháp. Gia đình gồm có năm chị em, tất cả đều trở thành nữ tu; và Têrêsa gia nhập nữ tu viện Dòng Camêlô tại Lisieux từ lúc 15 tuổi, nơi cuộc sống trong thinh lặng, cầu nguyện và lao động, cho đến khi Têrêsa qua đời vào lúc 24 tuồi, vì mắc bệnh lao phổi.
Lý do Têrêsa trở thành một trong các vị thánh
vang danh, lừng tiếng trong thời đại mới, là nhờ cuốn tự thuật tiểu sử, do nữ
tu bề trên tu viện ép buộc Têrêsa phải viết, đã được tu chỉnh và xuất bản sau
khi Têrêsa qua đời. Cuốn sách trở thành
một tác phẩm bán rất chạy, vì tâm hồn đơn sơ của Têrêsa, cùng với thông điệp liên
quan tới ’’con đường hẹp đến với Chúa’’: Cuộc sống người Kitô hữu, tiên vàn, là nhận
ra sự yếu đuối của mình, và tin cậy vào tình thương của Chúa, chứ đừng nghĩ đến
việc phải thực hiện những công trình to lớn, hoặc oai hùng, nhưng chỉ cần làm các
việc nhỏ bé trong mỗi ngày, với tấm lòng yêu mến Chúa.
Cuốn sách phát hành, Têrêsa trở nên vang
danh nổi tiếng rất nhanh. Têrêsa được phong thánh năm 1925, và Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã tôn vinh Têrêsa là tiến sĩ Giáo Hội, một tước hiệu danh dự,
chứng minh thánh nữ đã đóng góp cho Giáo Hội công giáo một giáo huấn quan trọng.
Têrêsa cũng được gọi là một ’’bông hoa nhỏ bé’’, ’’hay một tâm hồn nhỏ bé’’, hoặc ’’một nhân vật ưu tú nhỏ bé’’. Têrêsa là quan thầy, là đấng bảo trợ các sứ vụ
truyền giáo. Thân phụ mẫu của Têrêsa là
Louise và Zélie Martin, được phong Á thánh vào năm 2008.
Thánh Inhaxiô Loyola – Sáng Lập Dòng Tên.
![]() |
Thánh Inhaxiô Loyola |
Inhaxiô Loyola (sinh năm 1491, qua đời năm 1556), là con một gia đình qúi tộc, và bắt đầu sự nghiệp bằng nghề lính. Năm 1517, khi tham dự một trận chiến, Inhaxiô trúng đạn đại bác và bị thương ở chân, nên phải nằm dưỡng bệnh trong nhiều tháng. Khi lành bệnh, Inhaxiô bắt đầu đọc các trình thuật về Đức Kitô và cuộc đời các thánh; dần dà Inhaxiô nhận ra rằng, mình nên noi gương các thánh và phụng sự Thiên Chúa, tốt hơn là theo binh nghiệp.
Sau khi trở lại, trước tiên,
Inhaxiô sống cuộc đời khổ hạnh trong một thời gian, với tính cách là ẩn sĩ, và đi
hành hương đến Giêrusalem. Rồi Inhaxiô
quyết định học để làm linh mục, hầu cứu giúp ’’các linh hồn’’. Trong thời
gian học ở Paris, năm 1534, Inhaxiô đã cùng với sáu đồng bạn khấn sống khiết tịnh,
khó nghèo và phục vụ Giáo Hội. Ba năm
sau, nhóm lại họp mặt và đến Rôma gặp Đức Giáo Hoàng, để nêu rõ ý nguyện phục vụ
của mình. Các ngài hứa là sẽ vâng lời và
sẵn lòng phục vụ Đức Giáo Hoàng, bất cứ ở đâu, và bất cứ lúc nào; Dòng Tên được
phê chuẩn nhận năm 1540.
Ngay từ khởi đầu, Dòng Tên đã được biết đến
là nhờ các hoạt động nơi trường học, từ cấp tiểu, trung và đại học, cũng như sứ
vụ truyền giáo, trên khắp toàn cầu. Không
như những Dòng khác, Dòng Tên không buộc các thành viên phải cư ngụ trong cùng
một tu viện, cũng không phải mặc áo Dòng, hoặc đọc kinh thần vụ chung. Như thế, đời sống các thành viên Dòng Tên được
kể là uyển chuyển, và sẵn sàng phục vụ những nơi cần đến mình.
Inhaxiô dùng năm năm cuối đời mình để điều
hành và hướng dẫn Dòng tân lập này, đồng thời phái các nhà truyền giáo tới những
nơi xa xôi trên thế giới. Inhaxiô còn là vị lãnh đạo tinh thần, và vào năm 1548
đã cho phát hành tập sách nội dung ảnh hưởng nhiều tới đời sống tinh thần, mang
tên là ’’Cuốn Linh Thao’’. Khi Inhaxiô nhắm mắt lìa đời, Dòng Tên có trên
1.000 thành viên, trên bình diện toàn cầu.
Hiện nay có 18.00 thành viên.
Ngoài Dòng Tên, thánh Inhaxiô còn là đấng
bảo trợ, quan thầy của ngành giáo huấn, binh lính và các nhân viên đặc trách những
buổi tĩnh tâm.
Thánh Phêrô – Tông ĐồTrưởng.
![]() |
Thánh Phêrô Tông Đồ Trưởng |
Lúc gặp Đức Giêsu, Phêrô (chết khoảng năm 64), và người anh tên là Andrê, đang hành nghề đánh cá tại biển hồ Galilê. Đức Giêsu hứa là sẽ làm cho các ngài trở thành ’’những kẻ lưới người’’ như lưới cá, và các ngài quyết tâm theo Người (Máccô 1,17). Phêrô tên thật là Simon, nhưng Đức Giêsu đã đặt tên cho ngài là Kêpha, nghĩa là ’’tảng đá’’, và qua Hy ngữ dịch sang tiếng ViệtNam là Phêrô (Mátthêu 16,18.
Phêrô là một trong nhóm mười hai tông đồ,
được Kinh Thánh nhắc đến tên nhiều nhất, và ngài luôn đứng đầu trong danh sách
các tông đồ. Phêrô là một trong ba tông
đồ được Đức Giêsu đem ra một chỗ, tới một
ngọn núi cao (Tabor – Mátthêu, chương 17).
Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, chương 16, thì
Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, do đó, Đức Giêsu nói là trao cho Phêrô
’’chìa khóa Nước Trời’’, và ’’quyền lực để cầm buộc hay tháo cởi’’.
Vào ngày thứ sáu tuần thánh, trước mặt các
tên phục vụ vị thượng tế Do Thái, Phêrô đã chối Đức Giêsu ba lần, nhưng, Phêrô
lại là nhân vật đầu tiên được Đức Giêsu hiện ra, sau khi đã sống lại. Hậu qủa việc chối bỏ ấy, Đức Giêsu Phục Sinh đã
đòi Phêrô phải xác định ba lần là, Phêrô yêu mến Người. Sau đó, Đức Giêsu chứng thực vai trò lãnh đạo
của Phêrô bằng một các câu như sau: ’’Hãy chăm sóc chiên con của Thầy’’ và ’’Hãy chăm sóc chiên của Thầy’’ (Gioan 21,15-19).
Theo sách Công Vụ Tông Đồ thì Phêrô giữ
vai trò lãnh đạo trong số những người Kitô hữu tiên khởi. Phêrô rao giảng, làm phép lạ và quyết định mọi
việc. Phêrô cũng thân chinh thực hiện các
cuộc hành trình truyền giáo, và theo truyền thống, Phêrô đến Rôma, rồi tử đạo ở
đấy. Người công giáo coi Giáo Hoàng là đấng
kế vị thánh Phêrô.
Ngoài ngôi vị là quan thầy, là đấng bảo trợ
đức giáo hoàng, Phêrô còn là quan thầy, đấng bảo trợ các ngư phủ, cũng như giới
đóng thuyền bè và thợ làm chìa khóa. Thánh
đường lừng danh nhất mang tên thánh nhân là Đền Thánh Phêrô tại Rôma, mà theo
truyền thuyết, đã được xây dựng ngay trên mộ phần của Người.
Thánh Tôma Aquinô - Triết
Gia Đức Tin Và Lý Trí.
![]() |
Thánh Tôma Aquinô |
Tôma (sinh năm 1225, qua đời năm 1274), sinh ra trong một gia đình qúi tộc, gần Acquino, nước Ý. Thuở thiếu thời, Tôma vào học tại tu viện Dòng Bênêđictô ở Monte Cassino; lớn lên nhập đại học ở Napoli; tại đây Tôma học chuyên biệt môn triết của Aristotle, tạo ảnh hưởng nhiều tới cuộc đời của Tôma, đồng thời cả Dòng ĐaMinh nữa, qua việc nghiên cứu và học tập.
Đến năm 19 tuổi, Tôma quyết định trở thành
hội viên Dòng ĐaMinh. Gia đình Tôma chống
đối, không muốn cho Tôma trở thành một thành viên của một Dòng, sống bằng khất
thực, nên các anh của Tôma đã bắt cóc Tôma, đem nhốt vào một chỗ, trong suốt một
năm. Cuối cùng, gia đình phải chấp thuận
thả Tôma ra. Sau đó, Tôma sang Paris học,
nơi thánh Albert Cả.
Tôma dùng quãng đời còn lại trong việc giảng
thuyết và dậy học tại nhiều chỗ khác nhau, như Paris và Ý; đặc biệt chuyên về
nghiên cứu và viết lách. Tác phẩm nổi tiếng
của Tôma là Summa Theologica (thần học
tổng luận),
Tôma là một triết gia kinh điển nổi tiếng
nhất, và những tư tưởng của Tôma chiếm một vị thế rất quan trọng đối với ngành
thần học công giáo, trong đó có vấn đề tương quan giữa đức tin và lý trí. Theo Tôma thì đức tin và lý trí không gắn liền
nhau, nhưng không đối nghịch nhau, và bởi vì tất cả đều phát xuấ từ Thiên Chúa,
nên chúng chưa bao giờ có những xung khắc với nhau.
Ngoài trí óc thông minh, Tôma còn được biết
đến nhờ tinh thần đạo đức và tính tình khiêm nhu. Tôma còn viết một số bài thánh ca, hiện nay vẫn
còn được xử dụng trong Giáo Hội công giáo.
Thánh Tôma Aquinô là quan thầy, đấng bạo trợ cho các thần học gia, triết
gia, các đại học và sinh viên.
Thánh Laurensô - ’’Đây
Là Tài Sản Của Giáo Hội.’’
![]() |
Thánh Phó Tế Tử Đạo Laurensô |
Thánh Phó Tế Laurensô (chết năm 258), là một vị tử đạo danh tiếng nhất thời Giáo Hội sơ khai. Người ta không biết nhiều về đời sống của Laurensô, ngoài một điều chắc chắn, Laurensô là phó tế ở Rôma, dưới triều đại của hoàng đế lùng bắt những người theo Kitô giáo – Valerian.
Câu chuyện quen thuộc nhất về Laurensô là,
Laurensô giữ nhiệm vụ quản lý tài sản của Giáo Hội, để trợ giúp những người nghèo.
Liên quan tới các thời kỳ lùng bắt người tín
hữu Kitô giáo (cấm đạo), viên tổng trấn thành phố Rôma ban lệnh cho Laurensô phải
nộp tất cả tài sản của Giáo Hội cho hoàng đế.
Laurensô dành ra ba ngày liền để phân phát toàn bộ tài sản của Giáo Hội
cho những người nghèo. Thế rồi, Laurensô qui tụ một nhóm người nghèo, các trẻ
em mồ côi, những người ở góa, các bệnh nhân, những người tàn tật lại, đem đến
trình diện viên tổng trấn thành phố, đoạn nói: ’’Đây là tài sản của Giáo Hội’’.
Hậu quả là, Laurensô chịu tử hình dưới hình thức bị đem đi nướng trên
vỉ sắt. Khi còn nằm trên vỉ sắt, Laurensô
nói: ’’Đảo
ngược tôi lại, một bên đã chín rồi.’’
Một số học giả nghĩ rằng, Laurensô bị trảm
quyết, bởi vì chặt đầu là phương cách trừng phạt rất thông thường của người Rôma
thời bấy giờ. Tuy nhiên, huyền thoại bị
nướng trên vỉ sắt đã làm cho Laurensô trở nên đấng bảo trợ, quan thầy các tay đầu
bếp và những tên kể chuyện khôi hài.
Thánh Tôma More – Nhân Vật Phục Hưng Đã Trở Thành Đấng Tử Đạo.
![]() |
Thánh Tôma More Tử Đạo |
Tôma More (sinh năm 1478, qua đời năm 1535), sinh ở Luân Đôn, là con của một thẩm phán. Tôma More theo bước chân của thân phụ, và đã rất thành đạt trong sự nghiệp, qua chức luật sư và chính trị gia. Trong cương vị thẩm phán, Tôma More có tiếng là người thanh liêm và chính trực. Tôma More còn là trước tác gia, và tác phẩm được biết đến nhất của Tôma More là Utopia (không tưởng).
Đời sống cá nhân, Tôma More được biết đến
như một học giả và nhà tư tưởng đại tài.
Tôma More còn là một người cha đầy thương mến trong gia đình, đã cho các
con gái mình học hành giỏi giang hơn các phụ nữ khác đồng thời, một cơ hội để
tiến thân.
Sự nghiệp của Tôma đạt tới chót đỉnh, khi
Vua Henrik VIII, vào năm 1529 đã thăng Tôma More lên chức tể tướng. Nhưng Tôma More xin từ nhiệm vào năm 1532, vì
bất đồng với ý của vua là, hủy bỏ hôn ước với Catarina Aagonien. Vua muốn thành hôn với Anne Boleyn, vì hy vọng
sinh được con trai để làm người thừa kế.
Cuộc xung đột hôn nhân dẫn vua tới quyết định
nắm giữ quyền lực tôn giáo tại Anh quốc. Tôma More từ chối lời cam kết phủ nhận thẩm
quyền của Đức Giáo Hoàng. Tôma More bị bỏ
tù, vì không thừa nhận vua là vị lãnh đạo thượng tôn của Giáo Hội, cuối cùng Tôma
More bị tố cáo phạm tội phản quốc, và bị kết án tử hình, bằng cách trảm quyết.
Tại phiên toà xét xử, Tôma More nhấn mạnh
rằng, ngài không thể phản lại lương tâm chân chính của mình và khi bước lên giàn
trảm quyết, Tôma More nói: ’’Tôi chết như một kẻ tôi trung của vua,
nhưng Thiên Chúa là trên hết.’’
Thánh Tôma More là quan thầy, đấng
bảo trợ của các luật gia, chính trị gia và giới công chức.
Thánh Maximilian Kolbe – Thí Mạng Sống Vì Bạn Tù Tại Auschwitz
![]() |
Thánh Maximillian Kolbe |
Maximillian Kolbe (sinh năm 1894, qua đời năm 1941), là một linh mục Dòng Phanxicô. Khi BaLan bị quân đội Đức quốc chiếm đóng, M. Kolbe tham gia giúp dân tị nạn, trong đó có 1.500 người Do Thái, và nhà Dòng của M. Kolbe phát hành một bản tin, cực lực chống đối các hành động của quân đội độc tài nazist. Vì thế, M. Kolbe bị đưa đi phát vãng ở Auschwitz.
Vào tháng bảy năm 1941, bất chợt mười tù
nhân được lựa chọn để chịu hình phạt nhịn đói cho đến chết, vì có một người trốn
ngục. Trong số tù nhân chịu hình phạt ấy,
một người tên là Franciszek Gajowniczek, than van rằng, có lẽ chẳng bao giờ anh
còn nhìn thấy mặt vợ và con nữa, thế là M. Kolbe tình nguyện chết thay cho anh.
Là linh mục, nên M. Kolbe nghĩ là mình có
bổn phận phải giúp đỡ các bạn tù cho đến giờ sau hết. Tại căn trại tuyệt thực, M. Kolbe không ngừng
khích lệ các tù nhân khác và chuẩn bị giờ chết cho họ, bằng cách hát và cầu
nguyện chung với họ. Sau một tuần lễ thì
M. Kolbe và các bạn tù còn sống sót mỗi người được chích một mũi thuốc tử vong.
Franciszek Gajowniczek chết hụt ở
Auschwitz, và đến năm 1995 mới qua đời.
Thánh Maximilian Kolbe là quan thầy, đấng
bảo trợ của giới ký giả và các tù nhân.
Hildegard Bingen - Một Phụ
Nữ Đáng Lưu Ý.
![]() |
Nữ Tu Heldegard Lập Dòng |
Hildegard (sinh năm 1098, qua đời năm 1179), xuất thân từ một gia đình qúi tộc. Khi còn nhỏ, Hildegard được gửi vào học tại tu viện Dòng Bênêđíctô, để học đọc, học viết. Đến năm 1136 thì Hildegard được các nữ tu bầu làm bề trên tu viện.
Hildegard có một sức khỏe tương đối yếu,
thế mà cũng sống tới 80 tuổi, và đạt tới khả năng thành lập hai tu viện, viết một
số sách y khoa, thiên nhiên, và nhiều bài khác nhau, mang chủ đề tôn giáo.
Hildegard đón nhận nhiều thị kiến kỳ diệu,
đến nỗi Hildegard được người đời tặng cho biệt danh là ’’Rhinen’s Sibylle-ngôn sứ xứ Rhine - profetina teutonica’’. Thị kiến của Hildegard đã được ghi lại và
được đức giáo chuẩn thuận, cho phép Hildegard công khai diễn thuyết.
Vào khoảng cuối đời, Hildegard di chuyển tới
nhiều nơi trong nước Đức để đàm đạo với những ai cần đến lời răn giải của mình. Hildegard quan hệ bằng thư từ với rất nhiều
người, trong đó có một số cấp lãnh đạo thế lực thời bấy giờ, tôn giáo cũng như
thế tục.
Ngoài ra, Hildegard cũng là một nghệ sĩ,
thi sĩ, tác giả truyện phim và nhà soạn nhạc; đặc biệt âm nhạc của Hildegard vẫn
còn được trình diễn.
Hildegard luôn được liệt vào hàng thánh nhân,
nhưng Hidegard chưa chính thức được phong thánh.
Tháng chín năm 2010, nhân dịp giới thiệu
loạt tài liệu giáo huấn của ngài, liên hệ tới những phụ nữ quan trọng nhất
trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã đề cập tới
Hildegard. Đức Thánh Cha tóm lược ý nghĩa
và niềm hân hoan đón nhận Hildegard của con người hiện đại, khi nói: ’’Hildegard
đã nói những gì, đều diễn ra rất chính xác trong thời đại chúng ta, vì Hildegrad
hiểu rõ dấu chỉ thời gian và vì yêu mến Đấng Tạo Dựng, y khoa, văn chương, âm
nhạc và Đức Kitô cũng như Hội Thánh của Người.’’