Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

THÁNG 10 – THÁNG MÂN CÔI

TRINH NỮ MARIA

    Hầu hết mọi người đều cho rằng đức tin công giáo là sự phối kết giữa Trinh Nữ Maria và Kinh Mân Côi.  Và như thế cũng đúng!  Bởi vì Đức Maria đóng một vai trò hệ trọng trong Giáo Hội công giáo. 
     Lý do:  là vì Đức Trinh Nữ Maria là một thiếu nữ Do Thái, được Thiên Chúa mời gọi thực hiện một tác vụ hoàn toàn đặc biệt.  Do đó, Đức Maria cũng giữ một vị thế riêng trong chương trình của Thiên Chúa. 
     Tuy nhiên, Đức Maria là người không mang thiên tính.  Người Kitô hữu công giáo không sùng kính Đức Maria giống như sùng kính Thiên Chúa.  Nhưng họ có thể xin Mẹ cầu cùng Chúa cho họ.
     Vậy là thế nào?  Nghĩa là người tín hữu tin rằng, Đức Maria có thể - thay thế họ - đến với Thiên Chúa, đồng thời còn là dấu chỉ, một Giáo Hội hiệp thông.  Trong Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện lẫn cho nhau, và chúng ta giúp đỡ lẫn nhau để đến gần với Đức Giêsu. 
     Là những người tín hữu công giáo, chúng ta cũng tin rằng, nhờ Đức Maria và các thánh có thể giúp chúng ta đạt được ý nguyện đó.
Lommerosenkrans, Rødlige perler m/rosenduft
     Kinh Kính Mừng Maria là lời nguyện thông dụng nhất đối với người tín hữu công giáo:
Kính mừng Maria
đầy ơn phúc!
Đức Chúa Trời ở cùng Bà!
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ,
và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ,
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời!
cầu cho chúng con là kẻ có tội,
khi này và trong giờ lâm tử .
Amen. 
     Kinh kính mừng mở đầu bằng lời thiên thần Gabriel nói với Đức Maria. Thiên thần được Thiên Chúa sai đến Nazarét để chào thăm Đức Maria, lúc bấy giờ là một thiếu nữ khoảng 13-15 tuổi: ’’Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng’’ (Luca 1,28).
     Sau khi nhận lời làm mẹ Đức Giêsu, Đức Maria lên đường đến thăm người chị họ Elisabéth.  Elisabéth cũng đang mang thai, mặc dù bà đã lớn tuổi. Maria đến và để giúp đỡ Elisabéth, cho đến khi Gioan Tẩy Giả chào đời.  Khi hai người phụ nữ mang thai gặp nhau, Elisabéth kêu lớn tiếng và nói rằng:
     ’’Em được chúc phúc hơm mọi người nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.’’ (Luca 1,42).  Lời của Elisabéth tạo nên phần sau kinh ’’Kính Mừng Maria’’. 
     Từ đó, chúng ta có thể nói rằng, Elisabéth là người đầu tiên đã tung hô Đức Maria.  Và Thiên Chúa hiểu rõ lời Elisabéth nói là do chính tác động của Chúa Thánh Thần; chúng ta đọc và suy niệm nội dung biến cố truyền tin sẽ rõ.  Đức Maria xứng đáng được chúc tụng và tôn vinh vì đã vâng lời Thiên Chúa, và tự nguyện cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa.  Chính vì thế, Đức Maria cũng đã trở nên gương mẫu cho chúng ta. Bắt chước Đức Maria, chúng ta có thể sẵn sàng tuân hành ý Chúa.
     Phần đầu Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta nhắc đến tên Giêsu.  Người là Đấng mà Đức Maria sinh hạ.  Giêsu nghĩa là Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc.
     Khi thiên thần Gabriel đến với Đức Maria, Người nói rằng, bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu (Luca 1,31).  Đối với người Kitô hữu công giáo, Kinh Kính Mừng Maria thực sự là lời cầu nguyện với Đức Giêsu.  Đức Giêsu là trọng tâm Kinh này.
     Xưng tụng ’’Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời’’ là đề cập tới Đức Maria trong toàn bộ Kinh Thánh.  Để cầu nguyện cách xứng đáng phần sau Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta cần hiểu và thừa nhận rằng, là con người, chúng ta không ngừng sai lầm và sa ngã.
     Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa và hủy diệt sự tương quan giữa chúng ta với nhau.  Con người có hai giai đoạn quyết định:  đó là giây phút hiện tại (khi này), vì bây giờ là lúc chúng ta có thể tái chọn Chúa, và giây phút lâm tử, lúc chúng ta sẽ trực tiếp gặp nhan thánh Người. 
     Người Kitô hữu công giáo tin rằng, Đức Maria là đấng, cùng với con Người là Đức Giêsu khẩn cầu cho chúng ta.
     Ngay trong cuộc sống đời thường, chúng ta đã cầu cho nhau rồi.  Nói rõ hơn, một người bạn hiểu hoàn cảnh của ta, luôn xin Chúa ban cho ta những ơn lành.  Người Kitô hữu công giáo không tin tình liên đới đó sẽ chấm dứt saukhi chết. 
     Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, và Người vẫn sống.  Nếu chúng ta tin vào Người, thì chúng ta cũng được hưởng sự sống lại của Người, và cuộc sống vĩnh cửu. Do đó, lời cầu nguyện vẫn còn tiếp nối ngay cả khi chúng ta đã chết.
     Kết thúc lời kinh nguyện này, người Kitô hữu công giáo xin Đức Maria giúp để được vững lòng tin theo Đức Giêsu ngay giây phút hiện tại cũng như trong giờ chết.
     Trình thuật tiệc cưới tại Kana (Gioan 2,1-12) có thể giúp chúng ta hiểu rõ tác vụ của Đức Maria.  Khi gia nhân cho biết không còn rượu nữa, Đức Maria nói, ’’Ngưởi bảo gì, các anh cứ việc làm theo.’’  

Thánh Nữ Mân Côi
     Người hướng về Đức Giêsu, và Người vẫn còn làm như vậy.  Đức Maria bảo tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, hãy làm theo lời Đức Giêsu nói. Từ đó chúng ta có thể suy ra rằng, Đức Maria chính là Đấng dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đến với Đức Giêsu.  Đức Giêsu luôn là trung tâm và là khởi đầu cho toàn thể đời sống đức tin và Giáo Hội.
     Giáo Hội công giáo có bốn tín điều về Đức Maria.  Tín điều là một chủ thuyết và là lối bày tỏ mới về đức tin cổ truyền.  Tín điều là một bổn phận mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải thi hành.  Tín điều không phải là một mới lạ bổ khuyết cho đức tin, nhưng là một việc làm để củng cố niềm tin và được trình bày với một cách mới, như chúng ta có thể hiểu như hiện nay. 
     Tín điều đã từng gây nhiều thắc mắc và khó khăn, đồng thời tạo nên những cuộc tấn công nhằm vào đức tin của chúng ta, mãi cho đến ngày nay.  Một công đồng đại kết hoặc Đức Giáo Hoàng (ex cathedra-tại chức) mới có quyền ban hành một tín điều.
     Giáo Hội công giáo có bốn quyết định (tín điều) về Đức Maria, buộc phải tin:
·      Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa – (lễ cử hành ngày 1 tháng giêng).
·  Đức Maria, trọn đời đồng trinh – (lễ truyền tin cử hành ngày 25 tháng 3).
·  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội – (lễ cử hành ngày 8 tháng 12).
·  Đức Maria hồn xác lên trời – (lễ cử hành ngày 15 tháng 8).
Hai tín điều đầu, tìm thấy ngay ở trong Kinh Thánh.  Hai tín điều sau đặt trên nền tảng Kinh Thánh, và được suy diễn thêm.
     Tất cả những điều nêu trên đều có trong ‘’Kinh Kính Mừng Maria’’ .
1.-  Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
     Trong Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta xưng tụng Đức Maria, ‘’Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời’’.  Trong câu này, chúng ta tưởng nhớ tới tín điều thứ nhất, liên quan tới vai trò Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.  Những gì chúng ta đề cập tới Đức Maria, là có sự liên quan sâu sắc tới Đức Giêsu.  Bởi vì, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nên Đức Maria dĩ nhiên mang tước hiệu ‘’Mẹ Thiên Chúa’’. 



Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
     Thánh sử Mátthêu và Luca tường thuật việc Đức Maria đã sinh Đức Giêsu.  Nhưng hài nhi nằm trong máng cỏ không phải là một em bé hoàn toàn bình thường.  Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người.  Do đó, Đức Maria được gọi là ‘’Mẹ Thiên Chúa’’ . 
     Như thế câu này không đả động gì đến Đức Maria, mà ám chỉ Đức Giêsu.  Người là Con Thiên Chúa.  Tuy nhiên, Đức Maria không phải là một nữ thần hay tiên nữ, nhưng là một người như tất cả chúng ta.  Nhưng đặc biệt ở chỗ là Thiên Chúa đã chọn Người thi hành một tác vụ hết sức đặc biệt. 
     Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Người đã ký thác Đức Mẹ cho Gioan, người môn đệ của mình.  Đồng thời, Người thỉnh cầu Gioan chăm sóc Đức Maria.  Do đó, truyền thống công giáo luôn coi Đức Maria là một người mẹ của tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, vì bà đã sinh hạ Đức Giêsu (Gioan 19,26-27). 
     Qua Bí Tích Rửa tội, tất cả chúng ta trở nên con cái Chúa.  Và Đức Maria, như một người mẹ, giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
2.-  Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh.  
     Bởi vì Đức Maria được chọn để trở nên mẹ Đức Giêsu, nên Thiên Chúa đã cư ngụ trong Mẹ bằng một cách thế hết sức đặc biệt. Người Kitô hữu không quên điều ấy khi nói, ‘’Đức Chúa Trời ở cùng Bà’’.
     Thánh sử Mátthêu và Luca đều là nhân chứng việc Đức Maria cưu mang Đức Giêsu, bằng cách Chúa Thánh Thần ngự xuống trên bà.  Do đó, Đức Giêsu không có người cha hoặc người mẹ bằng thể lý. 
Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh
(Thiên Thần Truyền Tin Cho Đức Maria)
     Chúng ta không vì lý do gì để có thể nghi ngờ những trình thuật của các thánh sử.  Nếu Đức Giêsu chỉ là một người Do Thái sùng đạo và là một người tốt lành, thì chắc chắn Người cũng sẽ không thể nào sống mãi như hiện nay.
     Nhưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Người còn sống.  Giả như Người không phải là Con Thiên Chúa (theo như trình thuật giáng sinh), thì chúng ta cũng không có thể gặp gỡ Người như Đấng Phục Sinh như ngày nay.
     Nếu chúng ta hoàn toàn tin rằng, Đức Giêsu được sinh ra bởi một trinh nữ, thì chắc chắn có người sẽ thắc mắc.
     Việc trinh nữ sinh đẻ là một thử thách đức tin của chúng ta.  Chúng ta thực sự có dám tin rằng, Thiên Chúa có thể chứng tỏ cho chúng ta những điều mà chúng ta không thể ngờ được không? 
     Điều không thể, đối với Thiên Chúa lại có thể. Việc trinh nữ sinh đẻ là tặng vật Thiên Chúa ban để cứu độ nhân loại. Chúng ta được cứu độ là vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta xứng đáng được hưởng ơn ấy.  Đúng là tặng vật Thiên Chúa ban cho chúng ta.
     Trinh Nữ Maria là một tấm gương trong đức tin. Đức Maria là một người hoàn toàn tín tưởng Thiên Chúa sẽ làm những việc cả thể, mà người đời không thể thực hiện được. Người công giáo tin rằng, Đức Maria trọn đời đồng trinh. 
     Trong Kinh Thánh Tân Ước đề cập tới ‘’anh chị em’’ của Đức Giêsu.  Những lời này ám chỉ cả về anh chị em theo thể lý (ruột thịt), nhưng cũng có thể là anh chị em họ nữa. Tại Trung Hoa quốc gia, ngày nay ngưòi ta vẫn coi anh chị em họ như ‘’anh chị em’’ ruột thịt.
3.-  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
     Người công giáo tin rằng, Đức Maria vào đời không mắc tội tổ tông (truyền).  Theo họ, Đức Maria có tràn đầy tình yêu và ơn phúc của Thiên Chúa, bởi vì tình yêu và ơn cứu độ nơi Đức Giêsu đã tác động sẵn trong Đức Maria.  Nhờ ơn ấy mà Đức Maria mới xứng đáng lãnh nhận sứ vụ làm Mẹ Đức Giêsu, và Người vẫn còn được gìn giữ không bị vướng mắc tội tổ tông.


The Immaculate Conception  of the Blessed Virgin Mary
Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
     Đức Maria được hoàn tự do chọn Chúa hay từ chối Chúa, giống như người đầu tiên của nhân loại cũng có tự do tuân hành ý Chúa hoặc quay mặt làm ngơ.
     Nhưng, thế nào gọi là tội tổ tông.
     Sách Kinh Thánh Cựu Ước kể về tội sa ngã của những con người đầu tiên, được Thiên Chúa yêu thương, nhưng không dám trực diện với Thiên Chúa, thấy mình trần truồng, vì bất tuân giữ lời răn bảo của Người, nhưng quay lưng phản nghịch, nên đã để cho sự dữ (tức ma qủi) thắng sức mạnh con người. 
     Sự dữ (tức ma qủi) là kẻ chống đối Thiên Chúa.  Và hiện nay tội lỗi (tức là sự chết) đã len lỏi vào cuộc sống.  Giáo Hội coi đó là hậu quả, mỗi khi nhắc tới tội tổ tông.  Hướng về sự dữ (tức ma qủi) là thuộc về bản tính con người hay sa ngã. 
     Mang theo tội lỗi, tức là để cho sự chết xâm nhập vào thế gian. Từ khi sa ngã phạm tội, con người có khuynh hướng chiều theo tội lỗi và đó cũng là kết qủa của long dạ ích kỷ.  Tội lỗi khiến chúng ta trở nên yếu đuối trước quyết định chọn lựa điều tốt lành.
     Điều này có thể dễ nhận thấy nơi con cái và cha mẹ.  Nhiều thanh thiếu niên muốn làm điều tốt lành hơn cha mẹ chúng, nhưng đáng trách ở chỗ là cha mẹ có cách ứng xử khác, thí dụ như họ dễ nổi nóng hoặc không dành nhiều thì giờ cho con cái. 
     Khi con cái đã thấm nhuần kinh nghiệm ấy, thì khi cũng trở thành cha mẹ, họ không đủ khả năng hành động tốt hơn… Đúng, rau nào sâu ấy là thế.
     Nhưng, người công giáo cho rằng, con người không đến nỗi qúa xấu xa tồi tệ. Nhân tri sơ, tính bản thiện, bởi vì con người được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương.  Nhưng tội lỗi lỗi đã làm cho con người trở nên yếu đuối và hành động sai lầm.
     Một tấm gương, rơi xuống trên sàn nhà, bị nứt.  Nhìn vào gương, chúng ta thấy mặt mình không lành lặn, rõ ràng nữa; mặc dù tấm gương còn dùng được. Con người cũng thế. 
     Tội lỗi gây thương tích cho con người; nhưng, dù sao chăng nữa thì cuộc sống con người vẫn luôn được Thiên Chúa che chở và yêu thương.
     Thiên Chúa muốn giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi.  Đức Maria góp phần vào việc này, bằng cách thưa lời xin vâng cùng Thiên Chúa để trở nên mẹ Đức Giêsu. Vì Đức Maria vẫn được che chở, không mắc tội tổ tông truyền, nên bà có thể thành tâm đóng góp vào chương trình của Thiên Chúa. 
     Đức Maria nói lời ‘’xin vâng’’ mà không dè dặt hoặc ngờ vực, vì bà đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa.  Đức Maria nói lời xin vâng, nhưng không hoàn toàn hiểu việc bà muốn đóng góp.  Đó chính là tấm gương cho những người sẵn sàng trả lời hai tiếng xin vâng, mỗi khi được Thiên Chúa mời gọi và trao cho một tác vụ, mặc dù không biết hậu qủa sẽ ra sao. 
     Evà đã làm đảo lộn chương trình của Thiên Chúa và ương ngạnh, mặc dù bà được tự do trả lời hai tiếng ‘’xin vâng’’ vào chương trình của Thiên Chúa.
     Trái lại, Đức Maria đã hợp tác với Thiên Chúa, và vì thế, bà trở nên mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta.  Đức Maria có thể thành tâm trả lời hai tiếng xin vâng vào chương trình của Thiên Chúa, bởi vì bà không vướng mắc tội tổ tông.
     Nhờ công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu bằng cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Maria khỏi tất cả mọi tội lỗi.  Thiên Chúa làm như vậy để chuẩn bị trao cho Đức Maria một tác vụ và có một ‘’nơi’’ để Người Con ‘’cư ngụ’’. 
     Trong Đức Maria, Thiên Chúa ước mong một thế giới hiện thực. Tất cả mọi người được mời gọi trở nên như Đức Maria: là những cá nhân được ơn cứu độ - từ loài người cho đến các tạo vật khác.
4.-  Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
     ‘’Thánh Maria Đức Mẹ…. Cầu cho chúng con là kẻ có tội…’’ Đó là đoạn kết Kinh Kính Mừng Maria.  Đức Maria có thể cầu bầu cho chúng ta, bởi vì Đức Maria đã được cất nhắc lên trời. 
     Đức Maria và các thánh có thể cầu cùng Chúa cho chúng ta, bởi vì các đấng đã  trở nên toàn thiện và đến ở cùng Thiên Chúa.
     Giáo Hội công giáo liên kết trong đức tin Do Thái giáo, dâng lời ca tụng cả Abraham, Isak và Jacob, trong khi họ chỉ ngợi khen danh Chúa. Đức Giêsu đã nói:
’Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.’’ (Máccô 12,27).
Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
    Đức Maria được cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác, bởi vì con người là một sự hiệp nhất của hồn và xác.  Cũng vậy, thân xác chúng ta tương quan với Thiên Chúa.  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã trở nên con người và mặc lấy xác người phàm. 
     Đức Giêsu không đến để cứu chuộc linh hồn con người, nhưng cứu chuộc một nhân vị, gồm thân xác và linh hồn.  Đức Giêsu tự sống lại - với thân xác - từ cõi chết.  Do đó, người công giáo tin ‘’xác loài người sẽ sống lại’’.
     Đức Maria đã nói lời xin vâng với Thiên Chúa bằng toàn thể con người của mình. Do đó, Thiên Chúa đã chấp nhận lời xin vâng của Đức Maria cũng bằng toàn thể con người của mình.
     Vì thế, Thiên Chúa đã ban thưởng cho Đức Maria, sau khi chết, được lên trời cả hồn lần xác.
     Do đó, Đức Maria là niềm hy vọng đối với chúng ta.  Đức Maria đang ở với Thiên Chúa là lời hứa vững chắc mà chúng ta phải tin nơi Đức Giêsu: một ngày nào đó, chúng ta - cả hồn lẫn xác - cũng sẽ được sống với Chúa.  
     Thân xác chúng ta phải được gìn giữ và bảo vệ ở đời này (dĩ nhiên chúng ta không biết ngày nào, và sự kiện sẽ diễn ra sao), cho đến khi chúng ta sống lại từ cõi chết.
     Do đó, chúng ta nên cẩn trọng chăm nom, săn sóc thân-xác chúng ta, bằng cách ăn uống đầy đủ, hợp vệ sinh, ngủ nghỉ điều hòa, tránh tình trạng xáo động, gò ép, giữ gìn sức khỏe và ăn mặc xứng hợp.

          













            



                         

Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Tiến Sĩ Giáo Hội – Ngày 1 Tháng 10

Các bài đọc trích sách: - Gióp 1,6-22; - Thánh Vịnh 17,1.2-3.6-7; - Luca 9,46-50

 
Nép Mình Bên Chúa An Bình Thảnh Thơi

 
     Trong một bài thơ cổ điển có câu:  ’’Người sinh ra hôm nay, và chết vào ngày mai, mất đi những giờ phút hưởng lạc, nhưng không phải chịu những tháng ngày phiền muộn.’’  Nhà thơ cổ Hy Lạp Sophocles viết:  ’’Tốt nhất là đừng sinh vào đời… và thứ nhì là càng chết sớm càng tốt, ngay lúc mới sinh ra..’’

     Ông Gióp rất tán thành việc thẩm định cuộc đời một cách bi quan như trên.  Ông Gióp muốn đừng bao giờ sinh ông ra đời thì hơn, hoặc là cho ông được chết ngay lúc mới sinh, thì rất tốt.  Và ông còn phàn nàn, sao trời không cho những người đã không muốn sống, chết quách cho xong. 

     Có thể chúng ta không cảm thông nổi nỗi lòng của ông Gióp, bởi vì ông đã phải gánh chịu qúa nhiều tai ương, hoạn nạn.  Nhưng thực tế, Thiên Chúa có một chương trình cụ thể dành riêng cho ông, và sau này Người đã ban cho ông mọi sự tốt đẹp hơn cả lúc trước.

     Mặc dù những bất hạnh diễn ra trong cuộc đời, nhưng chúng ta nên tiếp tục đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng hằng yêu thương chúng ta. 

     Ông Gióp có một sai lầm là ông muốn đừng bao giờ sinh ông vào đời, đồng thời ông còn nguyền rủa ngày sinh của ông. 

     Nếu chúng ta hối hận việc chúng ta sinh vào đời là chúng ta đang từ chối món qùa qúi báu Chúa ban .  Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, và thiết lập cho mỗi người một chương trình riêng.  Khi gặp khó khăn, và nếu tỏ ra nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, hoặc cảm thấy áy náy, khó chịu, chúng ta nên hướng lòng lên với Chúa.

Thánh Têrêsa Hái Đồng Giêsu (-Lisieux)

     Hôm nay, ngày lễ kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thành Lisieux.  Mặc dù là một nữ tu dòng kín, qua đời lúc mới 24 tuổi, nhưng kể từ ngày Têrêsa qua đời đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn tìm đến với thánh nữ. 

     Thánh nữ Têrêsa đã từng chịu nhiều thử thách trong thời gian cuối đời.  Nhưng thánh nữ không bao giờ than thân trách phận, oán ghét cuộc đời, và chỉ ước ao được chết theo ý Chúa, chấp nhận đau khổ vì lòng tin yêu Chúa.

     Thánh nữ viết:  ’’Tôi muốn chịu bệnh tật suốt cả đời tôi, nếu việc này đẹp lòng Chúa, và vui chịu như thế bao lâu Chúa muốn; chỉ với một tâm hồn yêu mến mà thôi.’’
Cùng với thánh nữ Têrêsa,
chúng ta nguyện rằng:
’’Ôi! lạy Chúa! Con nài xin Chúa ban cho con
và cho tất cả những người thân yêu của con ơn
luôn làm mọi sự hoàn toàn theo thánh ý Chúa,
và hân hoan đón nhận niềm vui,
cũng như nỗi buồn
trong cuộc sống trần gian,
hầu sau này, con được kết hợp
với Chúa trên nước hằng sống.  Amen.’’