Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 23,1-4.19.24,1-8.62-67; - Thánh Vịnh 106,1-5; - Mátthêu 9,9-13

 
Muôn Ngàn Đời Chúa Vẫn Trọn Tình Thương

 
Sara đã cùng Abraham trải qua cuộc hành trình xuất phát từ quê hương xứ sở, và đã chung sống với ông vượt qua nhiều thăng trầm.  Với tất cả hy vọng và qua lời Thiên Chúa hứa, Sara đã sinh cho Abraham một người con tên là Isaac. 

Abraham và Sara gắn liền với nhau trong cuộc sống lâu dài, khiến Abraham cảm thấy qúa thương tiếc, và đã khóc lóc thảm thiết, trước sự vĩnh biệt của Sara.  Khi Sara chết, Abraham quyết định tìm một nơi thích hợp để an táng Sara tại Canaan, mặc dù Abraham không sở hữu đất đai ở đây.  Điều này chứng tỏ Abraham có một niềm tin vững mạnh vào lời Thiên Chúa đã hứa. 

Tuy vẫn còn ‘’là khách lạ và là kiều dân’’ trong nước, Abraham xác tín rằng, đây là đất Thiên Chúa hứa ban cho con cháu ông.  Tìm một chỗ chôn xác người nhà tại Đất Hứa, Abraham muốn chứng minh cho mọi người biết, ông coi nơi đây như chính quê hương mình, bởi vì, một ngày nào đó, con cháu ông sẽ làm chủ địa giới này.   

Abraham cũng có một niềm tin tương tự, khi ông muốn tìm một ngưoơi vợ cho con trai là Isaac.  Abraham truyền lệnh cho người quản gia trở về cố hương và tìm cưới cho con trai ông một người vợ thuộc dòng tộc, nhưng quyết định không muốn Isaac rời bỏ đất Canaan. 

Abraham cũng tin là thiên thần Chúa sẽ ở với người quản gia và hướng dẫn anh tìm được một người phụ nữ tương hợp với Isaac.  Người quản lý hết lòng trông cậy vào Thiên Chúa và nguyện xin Chúa chỉ cho anh một phụ nữ như lòng anh mong ước; và Thiên Chúa đã nhận lời anh.  Người quản gia bàn hỏi kỹ lưỡng với gia đình của Rêbecca, và sau đó dẫn nàng về với Isaac. 

Phần kết câu truyện này ngắn gọn, và khá cảm động.  Cảnh thơ mộng diễn ra, khi Isaac phóng tầm mắt ra xa, thấy đàn lạc đà đang băng qua các cánh đồng, vào buổi chiều, thế rồi Rêbecca nhẹ nhàng lấy khăn che mặt, và tiến tới gặp Isaac.  ‘’Isaac tiếp đón Rêbecca, nhận nàng làm vợ; và Isaac yêu thương nàng lắm.’’ 

Nền văn hóa Phương Tây không chấp nhận một cuộc hôn nhân ‘’sắp đặt sẵn’’ giữa hai người chưa từng gặp gỡ nhau trước, bởi vì hôn nhân phải phù hợp với ý định của Thiên Chúa, giúp hai người suốt đời hết lòng yêu thương nhau, hầu trổ sinh nhiều hoa trái. 

Nhiều người trong xã hội chúng ta tìm kiếm tình yêu trong ‘’lãng mạn’’, trên mạng Internet, và chính vì thế mà có biết bao cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng các vụ ly dị, làm tan vỡ đời sống gia đình!  Nền tảng của tình yêu hôn nhân đích thực là người nam cũng như người nữ sẵn sàng thi hành bổn phận theo thánh ý Thiên Chúa, đồng thời tin tưởng rằng, Thiên Chúa luôn ở với họ và nâng đỡ đời sống hôn nhân của họ - lúc vui cũng như khi buồn.  

‘’Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa dẫn dắt những kẻ đang tìm kiếm, gặp được người bạn đời xứng hợp trong hôn nhân.  Xin cho hững người đã thành hôn biết đặt trọn niềm tin vào Chúa, và biết hướng về Chúa để xin thêm sức mạnh hầu đối phó với những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống.  Amen.’’


Thứ Năm Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 22,1-19; - Thánh Vịnh 115,1-6.8-9; - Mátthêu 9,1-8

 
Abraham đã vâng lời và đem đứa con trai duy nhất của ông hiến tế cho Thiên Chúa, khiến chúng ta ngạc nhiên và khâm phục.  Abraham không một lời biện giải hoặc phiền trách quyết định của thần ý. 

Hai lý do chính yếu thúc đẩy Abraham thực hiện đức tuân phục: 

Thứ nhất, Abraham nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trọn tốt trọn lành, là Đấng cai quản mọi loài mọi vật, là Đấng có quyền phép vô cùng, và dĩ nhiên Thiên Chúa cũng có thể lấy đi sự sống người con duy nhất của Abram, nếu Người muốn. 

Thứ hai, Abraham quyết tâm phó thác hoàn toàn và trọn vẹn cho Thiên Chúa.  Đức tin của Abraham đặt trên nền tảng tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa. Người thực hiện các điều đã phán hứa, bởi vì không việc gì Người không làm được.

Hiến dâng là lý tưởng sống Tin Mừng của người Kitô hữu. Thiên Chúa ‘’đã ban Con Một của Người đến trong thế gian để cứu chuộc những kẻ thù nghịch’’ (Gioan 3,16).  Đức Giêsu, gương mẫu của tình yêu tận hiến, đã tự dâng trọn cuộc sống vô tội của mình như một lễ vật hoàn toàn, để xóa bỏ tội lỗi chúng ta, và để giao hoà chúng ta với Thiên Chúa Cha, hầu chúng ta được hưởng cuộc sống thần thánh trên trời.  Đức Giêsu ‘’đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người’’ (Mátthêu 20,28).

Là người Kitô hữu thuộc ‘’thời đại tân tiến’’, sống cuộc đời tận hiến, đối với chúng ta, là một vấn đề không dễ.  Rất nhiều người đang chạy nhanh theo chiều hướng trái ngược.  Thế giới dậy chúng ta tự bảo vệ các nguồn lợi cá nhân, và thu tích càng nhiều của cải càng tốt.

Tin Mừng Tình Yêu và Dâng Hiến nói bằng một thứ ngôn ngữ khác biệt, có nghĩa: ‘’cho là nhận’’, ‘’nghèo khó vì tha nhân, chúng ta sẽ trở nên giầu có’’, ‘’chết để chúng ta đi vào sự sống’’.  Sống cuộc đời hiến dâng, chúng ta sẽ cảm nhận rõ những lời vừa kể trên. 

Đức Giêsu là Thầy dậy và hướng dẫn chúng ta đi từng bước êm đềm, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.  Nếu dùng thì giờ gần gũi Đức Kitô Giêsu trong lúc cầu nguyện, dần dần Người sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta thành dịu mềm, và tạo dựng trong chúng ta một tinh thần phục vụ hơn thụ động.  

Cùng với Abraham, Thiên Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta nên sống cuộc đời hiến dâng.  Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể đem lời quyền năng này áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày. 

Là người đã lập gia đình, chúng ta cần luyện tập để quên mình, hoặc chết đi chính bản thân mình, chỉ vì yêu thương người phối ngẫu và con cái.  Là người sống độc thân, hoặc chấp nhận đời tu sĩ, giáo sĩ, chúng ta cần trung thành bước theo tiếng gọi của Chúa. Những khi gặp khó khăn, bệnh tật, hoặc bất lực, chúng ta nên vui vẻ kết hợp với Đức Giêsu đau khổ, bị đóng đinh trên thập giá trên đồi Calvariô, vì tội lỗi chúng ta.

Bất cứ hoàn cảnh nào, Chúa Thánh Thần đều dẫn đường chỉ lối, để chúng ta có thể tìm cách giải quyết được, đồng thời giúp chúng ta cảm thấy tự do trong việc khước từ chính mình và hiệp nhất với Đức Kitô, khi chúng ta chìm đắm trong sự chết và sống lại của Người.

‘’Lạy Thiên Chúa Cha, Cha đã không giữ Con Một Cha lại, nhưng đã ban Người Con ấy cho thế gian, vì lợi ích chúng con.  Qua tác động của Chúa Thánh Thần, xin Cha dậy chúng con biết sống cuộc đời tận hiến, để chúng con loan truyền Tin Mừng đến cho anh chị em chúng con đang sống trong thế giới đầy thất vọng và đau khổ hôm nay.  Amen.’’

Thánh Tôma Tông Đồ - Ngày 3 Tháng 7

Thánh Tôma Tông Đồ  -  Ngày 3 Tháng 7
Các bài đọc trích sách:
- Isaia 35,1-6.10;
- Thánh Vịnh 146,6-10;
- Giacôbê 5,7-10;
- Mátthêu 11,2-11


Muôn Dân Hỡi, Nào Ca Ngợi Chúa


     Thánh Tôma Tông Đồ, mà chúng ta cử hành lễ kính nhớ hôm nay, được mệnh danh là một nhân vật đa nghi, và là vị tông đồ truyền giáo tại Ấn Độ.

Thánh Tôma Tông Đồ Trên
Đường Truyền Giáo
     Đức Giêsu đã xây dựng Giáo Hội trên nền tảng các Tông Đồ.  Giáo Hội là một ‘’Israel Mới’’; chính vì lý do đó mà Đức Giêsu đã chỉ tuyển chọn mười hai vị trong số rất đông môn đệ của Người, và cũng chính vì lý do đó mà sau khi Giuđa phản bội và chết, các tông đồ còn lại đã mau mắn đề cử một môn đệ khác bổ xung đủ túc số lúc ban đầu. 

    Điểm đặc biệt là Tông Đồ đoàn được trao phó vai trò chủ yếu trong Giáo Hội, thế mà chúng ta chỉ biết các Ngài một cách rất giới hạn.  Ngay cả Phêrô, trưởng Tông Đồ đoàn, cũng bất chợt biến dạng trong sách Công Vụ Tông Đồ, và không ai đề cập tới Ngài nữa, cho đến sau này mới xuất hiện một số huyền thoại. 

     Trong số các Tông Đồ, ngoại trừ Phêrô, có lẽ chỉ một mình thánh Tôma là người được bộ sách Tin Mừng mô tả rõ ràng nhất.  Tuy nhiên, kể từ sau ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tất cả những điều nói về Tôma chỉ còn là huyền thoại, với mục đích định rõ cá tính của Ngài mà thôi. Sách Tin Mừng số bốn nhắc tới Tôma bốn lần. 

     Lần đầu tiên, Đức Giêsu được mời trở lại Bêtania, nơi Lazarô vừa chết.  Đây là vấn đề sinh tử của một con người, bởi vì Giêrusalem cách Bêtania, nơi Đức Giêsu vừa bị người ta xua đuổi, không xa.  Khi Đức Giêsu quyết định lên đường, dường như Tôma tán thành việc làm nguy hiểm ấy ngay, và Ngài nói với các Tông Đồ khác: ‘’nào, chúng ta cùng đi và chết với Thầy.’’

     Lần thứ hai, trong bữa Tiệc Ly, tại Căn Phòng Thượng Tầng, Đức Giêsu nói với các Tông Đồ rằng, Người sẽ ra đi, và các Ngài không biết Người đi đâu.  Dường như tất cả các Tông Đồ đều tỏ ra bối rối, nhưng Tôma liền lên tiếng phát biểu, hầu làm tan biến sự thiếu hiểu biết chung của các Tông Đồ, nhất là, nhờ đoán được ý Đức Giêsu trong câu Người nói: ‘’Ta là Đường,….’’

     Lần thứ ba và thứ tư, liên quan tới cùng một câu chuyện, đã làm nổi bật đặc tính ‘’nghi ngờ’’ của nhân vật Tôma.  Khi Đức Giêsu sống lại và hiện ra với các Tông Đồ tại Căn Phòng đóng kín ở Thượng Thượng Tầng, lúc đó Tôma không có mặt.  Các Tông Đồ khác vui mừng kể lại cho Tôma biết Đức Giêsu hiện ra với các Ngài như thế nào, nhưng Tôma nhất định không tin.  Tôma nói là, chỉ khi nào Ngài nhìn thấy vết thương từ các lỗ đinh trên tay và vết thương ở cạnh sườn Chúa thì Ngài mới tin.

     Tôma tỏ ra buồn rầu suốt một tuần lễ.  Các Tông Đồ khác dường như cũng chẳng vui, vì không thuyết phục được Tôma tin theo các sự việc các Ngài đã chứng kiến và trình thuật. 

     Đoạn Đức Giêsu lại hiện đến tại Căn Phòng Thượng Tầng, lần này có cả Tôma.  Đức Giêsu không phán xét thái độ nghi ngờ của Tôma.  Người chiều theo mọi quyết định của các Tông Đồ, và để Tôma thực hiện những điều Tôma mong muốn, hầu có thể nhận ra sự thật về Đấng Phục Sinh.

Tôma Thọc Tay Vào Cạnh Sườn Đức Giêsu
     Đức Giêsu gọi Tôma lại gần và bảo Ngài đặt ngón tay vào các vết thương nơi tay và cạnh sườn của Đức Giêsu.  Tôma đã làm như vậy, và tin.  Vì lẽ đó, Đức Giêsu nói rằng, Tôma là người có phúc; và Người nói thêm, những kẻ không nhìn thấy mà tin còn có phúc hơn.

     Tôma có mặt trong buổi thả lưới bắt cá kỳ diệu tại biển hồ Galilê.  Tôma có mặt tại Căn Phòng Thượng Tầng trong buổi lễ tuyển chọn Mathias bổ túc vào sự khiếm khuyết của tông đồ phản bội Giuđa.  Tôma được bộ sách Tin Mừng, trong phần danh sách mười hai Tông Đồ, đề cập tới -  vỏn vẹn chỉ có thế! 

     Những việc Tôma cũng như các Tông Đồ khác làm được ghi chép thêm sau này, có thể chỉ là huyền thoại.

     Huyền thoại về thánh Tôma Tông Đồ được tô vẽ cách màu mè, nhưng số người tin vào các điều đó rất hiếm.  Theo tập ký Công Vụ của Tôma, thì mỗi Tông Đồ có bổn phận đến rao giảng Tin Mừng tại một địa giới riêng trên hoàn vũ. 

     Các Tông Đố khác đặt chân tới nhiều nơi, còn Tôma có trách nhiệm lo giúp người dân nước Ấn Độ trở lại, nhưng Tôma cảm thấy không hoàn toàn thích hợp với vai trò ấy, thế rồi Đức Giêsu tự ra tay. 

     Trong khi Gundaphorus, vua nước Ấn Độ, cần một người thợ mộc để phụ giúp thiết dựng một căn nhà tại triều đình, nên truyền lệnh cho các cận thần đi kiếm một người thợ mộc từ xuất thân từ Giêrusalem.  Đức Giêsu gặp viên chức liên hệ, và giả bộ nói rằng, Tôma là một thợ mộc chuyên nghiệp, đang phục vụ với tư cách là nô lệ của Đức Giêsu; bây giờ Người muốn bán nô lệ Tôma cho viên chức này, tên là Abban. 

     Thế là Tôma đến Ấn Độ, và bắt đầu sứ vụ truyền bá Tin Mừng.  Tôma thực hiện nhiều cuộc du hành loan báo Lời Chúa, và cuối cùng đã chết vì đạo tại đất nước này.  Ngay thời gian đầu tây lịch, mộ phần của Tôma đã được khai quật và đưa hài cốt của Người từ Ấn Độ sang Edessa, miền đất phương Tây, (cổ Hy Lạp – Macêđônia).  

     Huyền thoại này thật hư thế nào, chúng ta không cần quan tâm, nhưng biết chắc rằng, Gundaphorus là một nhân vật lịch sử thuộc thế kỷ đầu Kitô giáo, và những người Kitô hữu miền duyên hải Malabar nước Ấn Độ coi thánh Tôma Tông Đồ là vị khai sáng nền Kitô giáo của họ.

     Vào thời trung cổ, Tôma thường được mô tả là một người thợ mộc gương mẫu; chính vì thế mà giới thợ mộc, cũng như kiến trúc sư nhận Ngài là thánh quan thầy. 

     Nhưng, ngày nay, qua các việc Ngài làm, chứng minh Ngài là một môn đệ trung tín của Đức Giêsu, nên Ngài xứng đáng là đấng phù trợ giới ký giả và cảnh sát hơn.

     Đề cập tới thánh Tôma Tông Đồ, thánh Gioan Chrysostom viết:
‘’Người đã thấy gian nguy, khổ cực
nhưng quyết tâm thực hiện chuyến hành trình ngắn tới Bêtania.
Ngài được kể là nhân vật dũng cảm
và đầy lòng tin hơn tất cả các Tông Đồ khác.’’