Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Chúa Nhật III Mùa Chay - Năm A

Chúa Nhật III Mùa Chay  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Sách Xuất Hành 17,3-7; - Thánh Vịnh 95,1-2.6-7c.7d-9; 
- Rôma 5,1-2.5-8; - Gioan 4,5-42

Chính Người Là Thiên Chúa Ta Thờ

Nhập Lễ:
                 ’’Mắt tôi luôn luôn hướng nhìn về Chúa, vì chính Người gỡ chân tôi khỏi lưới dò.  Xin Chúa đoái nhìn và thương xót con vì con cô đơn và thân con khốn khổ’’ (Thánh Vịnh 24,15-16).
Bài Đọc 1:
’’Cho chúng tôi nước uống đi’’  (Sách Xuất Hành 17,3-7).            
Đáp Ca:
 ’’Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán:  Các ngươi chớ cứng lòng’’ (Thánh Vịnh 94,7b.8a).
Bài Đọc 2:
                 ’’Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta. (Rôma 5,1-2.5-8).
Tung Hô Tin Mừng:
Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng cứu độ trần gian, xin ban cho con nước hằng sống, để con không bao giờ khát nữa’’ (xem Gioan 4,42.25)
Tin Mừng:
’’Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’’ (Gioan 4,5-42).
Lời Nguyện Hiệp Lễ:
’’Lạy Chúa, khi chúng con lãnh nhận bảo chứng mầu nhiệm thiên quốc, và lúc còn sống ở trần gian, đã được no nê bánh bởi trời, chúng con khẩn khoản nài xin Chúa làm cho mầu nhiệm ấp ủ trong chúng con, được thực thi bằng việc làm.  Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.’’  Amen.

*****

                 Đức Giêsu ước mong người phụ nữ Samaria xin Người một chút nước uống, hầu Người ban cho chị thứ nước hằng sống (Gioan 4,10).  Làm như thế là cách Đức Giêsu thi hành ý muốn Chúa Cha, và hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó cho Người (Gioan 4,34).

Ý muốn Chúa Cha là có được những người ‘’thờ phượng đích thực’’ (Gioan 4,23).  Những người thờ phượng đích thực biết Thiên Chúa; họ biết tình yêu Chúa Cha ban cho họ (Rôma 5,5), và ơn cứu độ do Người rộng lòng thương ban cho họ trong Đức Kitô (Rôma 5,10). 

Những người thờ phượng trong thần khí là những người, Chúa Thánh Thần đã cư ngụ sẵn trong tâm hồn của họ, là những người hiệp thông mật thiết với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống tâm hồn họ thần khí, đó chính là nước hằng sống.

                 Bình thường, nước làm cho thân thể được khoan khoái, và giải thoát chúng ta khỏi cơn khát. Đó là lẽ sống của con người.  Không có nước, chúng ta sẽ chết!  Cũng vậy, nước hằng sống mà Đức Giêsu ban, cho chúng ta sự khoan khoái và hồi sinh.  Nước ấy giải cứu chúng ta từ sự chết (do tội lỗi, vô ân, phản nghịch, sống xa lìa Thiên Chúa, phải cô đơn và lẻ loi) tiến lại sự sống (nhờ giải hòa với Thiên Chúa, tha thứ, am hiểu tình yêu Thiên Chúa và sống liên kết năng động với Thiên Chúa).

                 Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa Cha trong thần khí và sự thật, nhờ tin vào Đức Giêsu:  ‘’Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’’ (Gioan 14,6). Nhờ tin Đức Giêsu, nên Người mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa (Rôma 5,2) – nghĩa là được hưởng sự tương quan sống động với Chúa Cha. 

Do đó, Đức Giêsu tìm kiếm lòng tin nơi người phụ nữ Samaria.  Nhờ tiết lộ các chi tiết trong đời sống cá nhân của người phụ nữ, Đức Giêsu đã tạo được lòng tin nơi chị, cũng như nhiều người khác trong xứ Samarita.  Chị nhận biết Đức Giêsu là ‘’Đấng cứu độ trần gian’’ (Gioan 4,42).

Đức Giêsu đã hoàn tất tác vụ Chúa Cha trao phó trong người phụ nữ, qua việc ban nước hằng sống cho chị.  Đức Giêsu muốn hoàn tất tác vụ Chúa Cha trao phó trong chúng ta, qua việc ban nước hằng sống cho chúng ta.  Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta vào hưởng ân sủng, nơi tràn ngập sự sống của Chúa Thánh Thần. 

Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Đức Giêsu ban nước hằng sống, để tâm hồn chúng ta luôn được mát dịu và hoan lạc. Với niềm tin vững chắc, hãy nài xin Đức Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha.
’Lạy Đức Giêsu,
xin ban cho con nước hằng sống,
để giải thoát cơn khát của con.
Xin ban cho con ‘’mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời’’ (Gioan 4,14).
Lạy Chúa, xin luôn ban cho

con nước hằng sống này.  Amen’’ 

Qui Luật Ăn Uống Trong Các Tôn Giáo

Qui Luật Ăn Uống Trong Các Tôn Giáo


Thức ăn được kể là ô uế hoặc thanh sạch, giữ một địa vị quan trọng trong đời sống con người, nên đã trở thành qui luật ăn uống trong các Tôn Giáo.  Gọi là ô uế hoặc thanh sạch, trong tôn giáo, không hoàn toàn có nghĩa là theo tiêu chuẩn vệ sinh y học, trái lại ô uế hoặc thanh sạch, được hiểu theo truyền thống tế tự hay phụng vụ, tạo sự gần gũi giữa con người với Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa.

Tất cả mọi tôn giáo đều khẳng định rằng, Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn trong sạch và thánh thiện; vì thế, trước khi tiếp cận với Thiên Chúa, hoặc tiến vào một nơi thánh, con người, dù sao vẫn thuộc thành phần ô uế, đều phải làm cho mình trở nên thanh sạch, tức là tẩy rửa mình cho tinh tuyền trước đã.

Dĩ nhiên, có những thứ bị xếp vào loại ô uế, con người cần xa tránh.  Ba tôn giáo độc thần: Do Thái giáo, Kitô giáoHồi giáo đều minh định, khi nào con người được kể là ô uế hay thanh sạch.  Tất cả mọi dẫn chứng đều đã được Kinh Thánh Cựu Ước minh họa, mà cả ba tôn giáo nêu trên, cho đó là nền tảng.

Do Thái giáo
                 Cựu Ước nêu lên nhiều điều khiến con người có thể trở thành ô uế, trong đó gồm có vấn đề bệnh tật, sinh đẻ và nhiều loại thực phẩm khác nhau. Từ Do Thái giáo, chúng ta biết, sách thánh đề cập tới thực phẩm, đặc biệt là máu:  ’’Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.  Bất cứ người nào, thuộc con cái Israel hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và lấy bụi đất phủ lên; vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Israel:  các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ’’ (Sách LêVi 17,12-14).

                 Người Do Thái chỉ ăn thịt thú vật đã được giết chết theo phương pháp đặc biệt, gọi là shcächtning, bảo đảm, máu bị loại ra khỏi con thú tới mức tối đa. Người đồ tể, gọi là shochet, được huấn nghệ cách riêng biệt, làm công việc Schächtning, khiến con thú hoàn toàn không kêu thét.  Ngay cả lúc chuẩn bị nấu nướng, cũng phải cố gắng loại trừ càng nhiều máu càng tốt. Món ăn đã hoàn tất biến chế và được phép xử dụng, Do Thái giáo gọi là kosher

                 Sách Sáng Thế, tại phân đoạn sáng tạo loài vật và con người (1,29) nhắn bảo:  Thiên Chúa cho phép con người được sử dụng tất cả các loài rau trái và thú vật ăn cây, cỏ, để làm lương thực:  ’’Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn’’ (Sách LêVi 11,3), nhưng thú vật ăn thịt, các động vật có vỏ cứng như tôm, cua và cá không lột bỏ vảy hay da, thì tuyệt đối cấm, không được ăn (Sách Dân Số 11,9).

                 Một trong những qui tắc quan trọng trong Do Thái giáo, được ghi nơi Sách Xuất Hành, phân đoạn 23, câu 19 như sau:  ’’Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.’’  Đoạn văn này được nhắc tới nhiều lần, và được diễn giải rằng, thịt và sữa không được nấu chung với nhau, cũng không được mời khách dùng thức ăn dưới hình thức ấy.  Không được ăn thịt chung với sữa trong cùng một bữa, hoặc khi làm thức ăn, đừng để hai thứ kia chung đụng nhau.
Hồi giáo
                 Qui luật trong Hồi giáo không qúa phức tạp như Do Thái giáo.  Thí dụ, trong Hồi giáo, cho phép ăn các động vật có vỏ cứng như tôm, cua và tất mọi loài khác ở dưới biển (Koran 5,97), nhưng máu và thịt heo thuộc loại ô uế, nên bị cấm.

’’Các ngươi không được ăn các loài thịt động vật đã chết, máu và thịt heo, cùng thịt động vật chết ngạt, bị ném đá hay dùng gậy đánh chết, té ngã chết, bị động vật khác húc bằng sừng chết, bị hoang thú gặm nhấm chết, và thịt động vật đã dâng cúng trên bàn thờ cho các ngẫu tượng’’ (Koran 5,4).

Tín hữu Hồi giáo được ăn thịt động vật do các (quán) đồ tể chuyên nghiệp halal cung cấp.  Lúc làm thịt, phải cắt đứt mạch máu ở cổ thú vật liên hệ, cùng lúc kêu tên Allah, như thế máu sẽ tuôn trào ra khỏi thú vật.  Không được để cho người ngoại giáo làm thịt thú vật, mà chỉ những đồ tể chuyên nghiệp – halal - mới được phép làm thịt thú vật mà thôi.

Không cần biết giết thú vật theo thể thức nào, nhưng điều chắc chắn, thịt heo là loại thực phẩm người tín hữu Hồi giáo (muslim) không được phép ăn. Vì thế, thật là khó đối với những người tín hữu hồi giáo định cư tại các nước Tây phương, bởi vì, hầu hết các loại thực phẩm đã biến chế, không nhiều thì ít, đều xuất phát từ thịt heo, đó là chưa kể tới một số phụ chất hoặc mỡ…, cũng xuất phát từ thịt heo, mà thường không được kê khai trong mỗi món thực phẩm biến chế.
Kitô giáo
                 Cho đến thời Đức Giêsu, các qui tắc về ăn uống vẫn áp dụng theo truyền thống Do Thái giáo.  Để Kitô giáo thực sự có những khác biệt rõ ràng giữa các tôn giáo khác, Đức Giêsu thiết lập những nguyên tắc liên quan tới sự thanh sạch.

                 Quan niệm của Kitô giáo về sự thanh sạch được mô tả trong Tin Mừng theo thánh Máccô, chương 7 như sau:  ’’… Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: ’Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:  Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được, nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.’’

                 Đức Giêsu tranh luận với những người Pharisêu và giải thích cho các môn đệ về sự thanh sạch, đoạn Người tuyên bố: ’’… bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế…, nhưng chỉ cái gì từ lòng người, phát xuất những ý định xấu mới làm cho con người ra ô uế’’.  Lời phát biểu của Đức Giêsu về sự thanh sạch đã trở thành một trong những điều khích bác nặng nề nhất đối với nền Do Thái giáo thời bấy giờ.

                 Đức Giêsu là người Do Thái, nên dân Do Thái cảm thấy thật sự khó có thể thông suốt được các nguyên tắc mới.  Trên nẻo đường đến Antiokia, Thiên Chúa truyền lệnh cho môn đệ Phêrô vào nhà một người ngoại giáo.  Ông lên sân thượng cầu nguyện.  Ông cảm thấy đói và muốn ăn.  Đang khi người ta dọn bữa, thì ông xuất thần.  Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, trong đó có mọi giống vật và đủ các loại thực phẩm.  Từ Trời, Đức Giêsu phán bảo ông:  ’’Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn.’’  Phêrô thưa:  ’’Lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.’’  Tiếp theo, lại có tiếng phán bảo Phêrô ba lần, trước khi ông thấu hiểu, rằng:  ’’Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì mọi người đều được phép ăn’’ (Công Vụ Tông Đồ 10).

                 Từ đó, con đường rộng mở, Kitô giáo trải dài khắp hoàn cầu, không chỉ giới hạn trong cộng đồng dân Do Thái.  Giữa các tông đồ cũng có những vụ tranh luận về việc dân ngoại ô uế được phép ngồi ăn chung với người Do Thái tại những cộng đoàn tín hữu (Công Vụ Tông Đồ 15).  Chính tông đồ Phaolô cũng gặp khó khăn khi được trao phó sứ vụ mở rộng Kitô giáo giữa cộng đồng người ngoại giáo.  Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Phaolô cho biết mọi sự là do Thiên Chúa tạo dựng, nên tất cả đều thanh sạch, và con người có thể ăn được.  Phaolô đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, người Do Thái được ăn chung với dân ngoại, và được phép ăn thịt đã dâng cúng cho ngẫu tượng, và bầy bán trong các đền thờ, đó là thứ thịt duy nhất mà con người được phép ăn. Tuy nhiên, Phaolô thiết tha kêu gọi những người mới gia nhập Kitô giáo không nên ăn các thực phẩm đã dâng cho ngẫu tượng, vì sợ có sự hiểu lầm đáng tiếc.  Nhưng hãy đợi một thời gian cho đến khi bỏ được các thói tục xưa cũ đã (1 Côrintô 8).
Ấn Giáo (Hinduismen) và Phật Giáo (Buddhismen)
                 Ấn giáo cũng có qui luật đề cập tới những gì người ta được ăn. Qui luật ăn uống gắn liền với bốn giai đoạn trong cuộc sống của một con người. Mỗi giai đoạn được phép ăn những loại thực phẩm riêng, và sự thanh sạch của con người tùy thuộc vào các điều khoản qui luật do mình tuân giữ.  Giáo huấn Dharmashastra qui định rõ, con người phải tuân giữ qui luật ăn uống nào trong mỗi giai đoạn trong đời sống.  Nếu ăn không đúng, ô uế có thể xâm nhiễm vào con người; hoặc nếu ăn chung với kẻ ô uế, thì mình sẽ tự trở nên lây nhiễm ô uế.

                 Phật giáo cũng có một số qui luật, cho phép người tín hữu ăn những loại thực phẩm nào.  Phật giáo không có những qui luật ăn uống qúa đặc biệt, so với các tôn giáo, nhưng gồm có năm điều khoản, trong đó người phật tử muốn đắc đạo chỉ cần tuyệt đối theo đuổi và tuân hành suốt cuộc đời một điều khoản là đủ. 

                 Điều ấy nhắn bảo người tín hữu không được sát sinh, vì thế, đa số phật tử chấp nhận ăn chay trường.  Trong một số qui luật ăn uống của Phật giáo, không cho phép bậc tu trì: ông sư, thầy chùa, bà vãi, ni cô… ăn thịt ; và sẽ bị liệt vào thành phần thiếu luân lý, nếu phật tử ăn thịt, cá do chính họ săn bắt được, ngay cả trong các dịp lễ hội lớn.