Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

SỰ CHẾT - Nhân Tháng 11 (Cầu Hồn)

SỰ CHẾT

Nhận Thức Thì Hiện Tại.
     Chết là một thử thách về thái độ sống của mỗi người.  Những người sợ chết là sợ cuộc sống.  Một người sợ chết thì không thể không sợ cuộc sống với muôn vàn phức tạp và nguy hiểm. 

     Vì thế, giải quyết vấn đề chết không phải là việc làm dư thừa.  Nếu sợ chết thì chúng ta sẽ không bao giờ được chuẩn bị để tiếp nhận những rủi ro tối hậu, hoặc bất chợt xẩy đến; do đó, chúng ta sẽ sống một cuộc đời với thái độ thận trọng, dè dặt, nhu nhuợc và nhút nhát. 

Xin Cho Các Linh Hồn Được Nghỉ Yên Muôn Đời
     Chỉ khi nào đứng trước sự chết, chúng ta mới có thể hiểu rõ điều đó, mới xác định đúng vị trí sự chết và vị trí chúng ta, để có thể sống với thái độ không sợ sệt, bằng khả năng tròn đầy của mình.

     Nếu chúng ta đối diện với sự chết, hay nói đúng hơn, nếu chúng ta luôn luôn chuẩn bị, tức là ’’dọn mình’’ chết, ngay từ lúc còn thật trẻ, thì đến cuối cuộc đời và đứng trước sự chết, chúng ta sẽ cảm nhận được cuộc sống thật khác biệt và thú vị.

     ’’Nhớ đến sự chết’’ là lệnh truyền từ một giáo phụ, được lập đi lập lại, từ nhiều thế kỷ, nhắc chúng ta lưu ý trong suốt cuộc sống của mình. 

     Nhưng, nếu lệnh truyền kia lọt vào tâm trí một thanh niên sống trong thời hiện đại, vốn dĩ là một người rụt rè, đức tin đang bị lung lạc, lại đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, chắc chắn anh sẽ nghĩ rằng, anh được gọi vào đời để sống trong cảnh u tối, núp dưới bóng sự chết, và có thể chết bất thình lình; như vậy anh sẽ chẳng ghi được điểm nào đáng kể trong cuộc sống trên cõi đời này.

     Nếu anh cứ liên tục nhớ tới sự chết cách bi thảm, sâu đậm, thì sự chết khác gì thanh guơm của Damocles đang treo lơ lửng trên đầu anh, với khoảng cách chỉ bằng gang tấc, khiến anh không thể hưởng thụ trọn vẹn cuộc sống cũng như thực hiện đầy đủ khát vọng riêng của mình.
 
     Nếu lối suy luận của anh thanh niên là một sự thật thì lệnh truyền của vị giáo phụ sẽ bị bác bỏ hoàn toàn.  

     Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa thâm sâu cụm từ ’’nhớ tới sự chết’’ như một cách nâng cao sức sống, chứ không nên để cuộc đời trở nên èo ọt, ảo não.

     Chúng ta cần dành thời giờ để làm một bản dự tính cho từng ngày trong cuộc đời mà chúng ta phải sống.  Chúng ta không theo lối sống vội, nhưng tạm thời, như thể đang chuẩn bị cho ngày chúng ta thực sự sẽ bắt đầu sống, giống như người viết một bản dự thảo giản dị, không trau chuốt, với ý định sau này sẽ làm một bản văn kỹ lưỡng, hoàn chỉnh hơn. 

     Nhưng, tiếc thay bản văn cuối cùng không bao giờ được hoàn tất.  Bởi vì sự chết đến bất ngờ, trước khi chúng ta có thì giờ hoặc thậm chí chưa nẩy sinh ý định thực hiện dứt khóat một quan điểm. 

     Vì bận rộn hoặc vì nghĩ, mình khoẻ mạnh, trẻ trung, còn nhiều năm nữa mới chết.  Do đó chúng ta luôn cho rằng việc nọ việc kia sẽ được làm vào ngày mai, ngày mốt… cũng được; vì ngày mai, ngày mốt vẫn tương tự ngày hôm nay mà thôi.

     Ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ hành động một cách dứt khoát, xong xuôi mọi việc. Tôi thầm nói: ’’Suy nghĩ như vậy có lẽ là sai lầm, nhưng hãy cho tôi thời gian.  Bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ sắp xếp để mọi việc đâu vào đấy, hoặc tự nó có thể xoay vần sao cho phải lẽ.’’ 

     Tuy nhiên, tất cả mọi người chúng ta đều biết, thời gian thật sự không bao giờ đến, trong rất nhiều trường hợp.

     Lệnh truyền ’’nhớ tới sự chết’’ không phải là lời kêu gọi sống với cảm giác kinh sợ, lo âu, vì nghĩ rằng sự chết sẽ bắt kịp chúng ta và sẽ hủy diệt tất cả những gì chúng ta sở hữu. 
    
     Thực tế, nhớ tới sự chết có nghĩa là chúng ta hãy chú ý tới những lời chúng ta sắp sửa nói, những việc chúng ta đang chuẩn bị làm, những gì chúng ta đang nghe, những khó khăn chúng ta đang chịu, những nhận xét chúng ta đang tự hữu, và những gì chúng ta cho hoặc nhận bây giờ..., có thể là một biến cố hoặc một trải nghiệm cuối cùng trong cuộc sống của mình.  

     Cũng vậy, nếu chúng ta biết là chúng ta đang đối diện với một người vào lúc cuối cùng cuộc sống của mình, chắc chắn chúng ta sẽ quan tâm đặc biệt tới từng suy nghĩ, từng lời nói và từng việc mình làm, để không bị sai lầm.

     Một câu chuyện, dành cho thiếu nhi nước Nga, kể rằng, người ta hỏi một thanh niên được kể là khôn ngoan ba câu:
1.)  Thời điểm quan trọng nhất trong cuộc sống là gì? 
2.)  Hành động quan trọng nhất trong cuộc sống là gì? 
3.)  Và ai là người quan trọng nhất?  
     Người thanh niên đem các câu trên đi hỏi khắp nơi mà không tìm được những giải đáp thoả đáng.  Cuối cùng, anh gặp một nữ nông dân, và chị hết sức ngạc nhiên vì những câu hỏi như vậy mà anh không hiểu nổi ý nghĩa. 
’’Thời điểm quan trọng nhất trong cuộc sống là hiện tại; đó là giây phút mà chúng ta đang có, vì qúa khứ đã đi qua, tương lai chưa tới. 
''Hành động quan trọng nhất trong hiện tại là phải làm điều đúng, ngay thẳng, tốt lành, công bình.´´
''Người quan trọng nhất trong cuộc sống là người ở bên ta, gần gũi ta, ngay giây phút hiện tại; và ta được phép chọn lựa, hoặc là làm điều tốt, điều đúng hay làm điều xấu, điều sai trái đối với họ.’’  

     Những điều nhắc nhở chúng ta nghĩ đến sự chết là như vậy.

     Giá trị của thời điểm hiện tại phải được hiểu, khi người thân yêu chúng ta mắc một chứng bệnh, được kể là thập tử nhất sinh, đặc biệt hơn, khi chúng ta nhận ra rằng người thân yêu có thể sẽ chết trong vòng vài phút nữa. 

     Lúc đó, chúng ta mới biết rõ tầm mức quan trọng của từng cử chỉ và hành động của mình, nhờ thế chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa những gì chúng ta cho là thật sự quan trọng trong cuộc sống và những gì chúng ta coi là tầm thường.  

     Cách chúng ta nói, thái độ chúng ta sắp đặt cái khay với một chiếc tách đựng trà, cách chúng ta sửa chiếc gối đầu từ vị thế kém thoải mái sang tình trạng dễ chịu cũng quan trọng như những việc to lớn nhất mà chúng ta đã từng giải quyết. 

     Hành động khiêm tốn nhất, lời nói đơn giản nhất, làm cho mối tương giao giữa chúng ta với mọi người càng trở nên sâu đậm, thể hiện tình yêu, sự quan tâm và chân thành nơi chúng ta. 

     Nếu chúng ta cảm nhận được tính cấp bách của giây phút đang sống có thể là cuối cùng, thì cuộc đời chúng ta sẽ thay đổi từ tận gốc rễ.  

     Những lời nói vô ích có tính cách nhàn rỗi mà Tin Mừng lên án (Mátthêu 12,36) là những lời nói và việc làm vô ý thức, mơ hồ và gây tổn thương sẽ không có chỗ đứng. 

     Lời nói và hành động của chúng ta phải được cân nhắc, suy xét thật kỹ lưỡng, để có thể đạt được kết qủa tốt nhất trong cuộc sống và thể hiện sự hoàn hảo về quan hệ và tương giao.

     Nhận thức về sự chết cách đúng đắn mới tạo cho cuộc sống một chiều sâu và ý nghĩa, mới mang sự sống đến cho sự sống, mới cho chúng ta cảm nhận là tất cả đều tóm gọn trong giây phút hiện tại.

     Như vậy, chính là cách thức mà các nhà khổ tu đã dầy công chiến đấu chống lại thái độ vô tâm, bất cẩn, thiếu chú ý; chống lại tất cả hoặc đúng hơn là không cho phép chúng ta bỏ lỡ bất cứ khoảnh khắc nào trôi qua mà không tạo cơ hội làm điều tốt cho người khác, đừng hất gạt họ qua một bên, để mình tiến lên, không quan tâm tới nhu cầu khẩn thiết của họ.  

     Một trong những điều chính yếu chúng ta được mời gọi đến trong thế gian là để học hiểu và nhận thức - nhận thức về chính mình và nhận thức về hoàn cảnh của mọi người sống chung quanh mình; một nhận thức về sự chết và sự sống.  Tất cả cuộc sống đều quy về hành động cuối cùng.

Sợ Chết, Ước Ao Chết
     Qua kinh nghiệm và tâm lý chung, dường như mọi người đều sợ chết hoặc ở trong trạng thái âu lo, lưỡng lự, không chắc chắn đối với sự chết.  Chính xác là chúng ta sợ cách chết hơn là việc chết.

     Có lẽ hầu hết ai cũng sẵn sàng đón nhận cái chết - bởi vì đã sinh thì có tử - nhưng nếu chúng ta biết chắc sự chết sẽ đến với mình như một giất ngủ, mà không diễn ra một giai đoạn sợ hãi hay lo buồn, thì thật là tuyệt diệu!


Linh Hồn Nghỉ Yên Bên Chúa
     Thật vậy, dường như sự chết có cả sức quyến rũ và hấp dẫn, chẳng thế mà nhiều người vẫn nói: ’’Tôi ước ao được chết cho xong’’.  Lối nói này ngụ ý: ’’Tôi mong sao không còn trách nhiệm đối với chính mình hoặc với Chúa hay bất cứ ai khác; tôi muốn được trở về đời sống hồn nhiên như hồi còn ở tuổi thanh xuân, chẳng phải chịu trách nhiệm gì, đơn giản chỉ ăn với chơi thôi.’’  
    
     Đa số trong chúng ta chỉ muốn có một cuộc sống hưởng thụ, chứ không muốn gom trách nhiệm vào mình.  Vì thế, việc ước ao chết chỉ là cách muốn giải thoát khỏi gánh nặng và trách nhiệm cuộc đời. 

     Nhưng thực tế, câu nói trên cho biết, sự chết được xem như là kẻ thù, mà chúng ta muốn ruồng bỏ, vì không vượt qua được các thách đố trong cuộc sống hoặc bị các mối tương giao chà đạp.

     Có những người nói:  ’’Tôi không sợ chết’’, thì chúng ta nên hỏi xem họ có sẵn sàng đón nhận sự chết và ước ao được chết bất cứ lúc nào, mà không tỏ vẻ sợ hãi hoặc e ngại không? 
    
     Câu nói vừa rồi mang ý nghĩa:  ’’Tôi ghê tởm và chán ghét cuộc đời, nên muốn trốn chạy ra khỏi đó bằng bất cứ giá nào - nếu tôi có thể ngủ mà không thức dậy, nếu tôi có thể trao mọi trách nhiệm, những việc làm dở dang hoặc sai trật cho người khác được!’’

     Chúng ta không nên có những thái độ viển vông mơ mộng đối với sự chết.

     Nhìn vào cuộc đời các thánh, chúng ta sẽ khám phá được một thái độ hoàn toàn khác biệt đối với sự chết.  Các ngài yêu sự chết đến nỗi không tỏ vẻ sợ hãi cuộc đời.  Như thánh Phaolô nói:  ’’Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi […].  Tôi ước ao ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần.’’ (Philiphê 1,21,23).

     Thánh Phaolô tỏ ra hoàn toàn tích cực đối với sự chết.  Dường như thánh Phaolô coi sự chết như cửa ngõ dẫn vào cuộc sống đời đời, để gặp gỡ Đức Kitô, Đấng Người yêu mến trên hết mọi sự và hơn cả sự sống của chính mình.

     Điều này không thể đạt được nếu chỉ bằng suy tưởng suông; nhưng còn cần tới nhiều chi tiết cụ thể khác nữa.  Để có thể khao khát sự chết bằng một cách thế đặc biệt và coi sự chết như vương miện cuộc đời, thì ít nhất chúng ta phải có một cảm nhận về sự sống đời đời ngay ở đây và bây giờ.
    
     Chúng ta không nên nghĩ rằng cuộc sống đời đời giống như một cái gì sẽ chỉ diễn ra sau này, hoặc như một tương lai tràn đầy an vui và hạnh phúc.  Các tông đồ trở nên những người dũng cảm chỉ vì các ngài đã tự biến mình thành những người dự phần vào sự sống đời đời - ở đây và bây giờ -.
  
     Bao lâu các ngài chưa chấp nhận làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh, thì các ngài chưa nhận được Thánh Linh, và vì thế các ngài vẫn còn sợ hãi và bám chặt vào sự sợ hãi trong cuộc đời trần tục của mình.  
Tôi Sẽ Đi Vào Cõi Đời Đời

     Nhưng ngay giây phút các ngài tiến vào cõi đời đời, thì sự sợ hãi vì phải mất đi cuộc sống trần tục biến dạng ngay; các ngài biết rằng hận thù, bách hại, tàn sát không cản được việc các ngài sẵn sàng giải thoát khỏi những giới hạn cuộc đời và khiến các ngài tiến vào cõi sống hoan lạc muôn đời. 

     Và cõi sống đời đời được biết như một cảm nhận trong hiện tại, không chỉ bằng một hành động của lòng tin.  Giống y hệt như sự kiện đã xẩy ra với các vị tử đạo.  Các ngài sẵn lòng chết và được hưởng quyền tự do tối thượng vì tự hiến, nhờ các ngài biết rõ cuộc sống đời đời giá trị đến như thế nào.

 Chết Giống Như Một Biến Cố Trong Cuộc Sống Hằng Ngày.
     Chúng ta có thể hiểu biết nhiều về sự chết, nếu chúng ta lấy khó khăn trong cuộc đời để nhìn thẳng vào kinh nghiệm sống của mình.  Sự chết gần gũi với chúng ta hơn chúng ta tưởng tượng rất nhiều, và ai trong chúng ta cũng đều có thể nói những kinh nghiệm về sự chết của mình với cảm giác không sợ hãi.  

     Tôi phải nói gì về cái chủ đề chẳng mới mà cũng chẳng của riêng tôi này:  may ra thì khá hơn nội dung những gì tôi đã suy nghĩ, được vay mượn từ nhiều người khác.

     Trước hết, sự chết từ một quan điểm thực tế, nghĩa là chối bỏ mình, để tiến vào tình trạng quên lãng chính mình.  Đó là điều mà nhiều người sợ không dám làm.

     Dẫu sao thì mọi người đều phải đi ngủ vào mỗi buổi chiều tối; chúng ta tự quên mình trong giấc ngủ, và chắc chắn lúc ấy chúng ta không còn sợ hãi gì nữa. 
    
     Tại sao?  Bởi vì chúng ta cảm thấy chắc chắn - đến một mức độ không sao giải thích được -  rằng chúng ta sẽ không thức dậy vào sáng ngày hôm sau. 

     Nhưng, buổi sáng hôm sau vẫn hiện ra với chúng ta, chứng tỏ giấc ngủ chỉ là kinh nghiệm nhứt thời về sự chết.  Liệu chúng ta có thể coi đây như một dụ ngôn mô tả tiến trình việc chúng ta chết và thức dậy trong cõi đời đời? 

Xi Cho Kẻ Chết Sống Lại Với Chúa
     Vì trong thực tế, có một nguy cơ lớn trong việc nhắm mắt ngủ, tức là không nơi nào đáng sợ hơn chiếc giường, như đã được ghi trong câu chuyện chàng thủy thủ và người nông dân đang suy nghĩ về những điều kiện sống của riêng mình.  

     Người nông dân qủa quyết rằng anh sẽ không bao giờ gặp tai họa nếu được sống trên biển cả: ’- Chẳng có gì đáng nguy hiểm’’.

     Khi chàng thủy thủy hỏi tại sao anh nghĩ như vậy, thì người nông dân hỏi lại: 
’’Cha anh chết ở đâu?’’  ’’
- Ở biển.’’  
’’Và ông anh thì sao?’’  ’’
- Cũng ở biển.’’ 
’Và anh vẫn không thể nhận thấy đi biển nguy hiểm đến thế nào sao?   
Nhưng chàng thủy thủ hỏi ngược lại:  ’’Và cha anh chết ở đâu?’’  
- ’’Ông chết ở trên chiếc giường ngủ của mình.’’
’’Và cha anh thì sao?’’  
- ’’Cũng ở trên giường ngủ của mình.’’  
’’Và như vậy anh có dám lên giường ngủ mỗi tối không?’’ 

     Với quan niệm qua cuộc đàm thoại nêu trên, chúng ta cảm thấy thực sự phải đứng trước cái chết vào mỗi buổi tối.  Và khi loại chết tạm thời này không đến với chúng ta cách êm đềm, thì buộc lòng chúng ta phải dùng tới những viên thuốc ngủ hoặc các mũ che mắt để ngủ ban đêm. 

     Kỳ lạ ở chỗ là chúng ta quên rút tỉa những kết qủa từ các điều đơn giản nhất trong cuộc đời.

     Một cách khác sau đây liên quan tới kinh nghiệm về sự chết cũng rất quen thuộc với mọi người chúng ta. Trong cuốn sách mang tựa đề ’’The Last Things - Những Thứ Cuối Cùng’’ của Romano Guardini, nêu lên dăm bảy cách chết trong suốt tiến trình cuộc sống. 

     Ví dụ, chúng ta đi từ sơ sinh sang tuổi ấu thơ, rồi từ niên thiếu sang tuổi thanh xuân, đoạn từ trưởng thành đến tuổi già, chúng ta cho rằng mình đã phát triển từ thời kỳ này sang giai đoạn khác. 
    
     Nhưng nếu phải phát triển từ trạng thái này sang tư thế khác, thì một số những gì chúng ta có trước kia phải chết đi, tức là bộ phận mới thay thế bộ phận cũ. 
    
     Đối với một thiếu niên hoặc một người trưởng thành mà duy trì những đặc tính ấu thơ của mình thì sẽ trở nên giống hay ngang hàng với trẻ thơ. 
    
     Để có được tuổi trưởng thành, tức là ở vào thời kỳ phát triển kế tiếp, chúng ta phải chấp nhận một cái gì đó trong chúng ta chết đi.  Và sự chết đi này có thể là một tiến trình nhức nhối và khó khăn. Khó khăn này không khác gì thân thể chúng ta đang trong tình trạng thực sự chết. 

     Nhiều cha mẹ biết rất rõ về vấn đề này.  Họ mong ước con mình mãi là một cậu bé và họ thực sự âu lo khi nhìn thấy người thiếu niên biến thể thành một chàng thanh niên.  

     Tiến trình sự chết liên tục từ thời gian này sang thời gian kế tiếp trong suốt cuộc sống; là cha mẹ, chúng ta phải hiểu rõ và tích cực tham gia vào tình trạng biến thể của thanh thiếu niên đang tuổi dậy thì.

Đi Vào Cõi Trường Sinh
     Nhờ thế chúng ta sẽ coi sự chết như một mất mát không thể tránh được. Hoặc nói cách khác là chúng ta phải coi đó như một sự tiến hóa tất nhiên thành một cuộc sống tăng trưởng và hoàn chỉnh hơn.

Chết Cho Chính Mình.
     Đức Kitô kêu gọi chúng ta chết cho chính bản thân mình.  Như thế nghĩa là gì?  Cụm từ này được kể là khó hiểu, giống như tất cả những suy tư về sự chết. Phải chăng có nghĩa là tự hủy diệt? 

     Nhiều người nghĩ như vậy và cố tình áp dụng đúng ý nghĩa ấy.  May mắn thay, họ thất bại, nhưng để lại thương tích vì kinh hãi.  Một cách chính xác phải hiểu, chết cho chính mình có nghĩa là chấp nhận tiến trình sự chết của những gì trong chúng ta, cho đến khi đạt tới điểm mà chúng chúng ta nhận ra rằng một cái gì đó trong chúng ta thực sự thuộc về cõi đời đời, và một bản thể tự ngã sẽ bị giải thể. Chúng ta phải đi ra khỏi cái bản chất tự ngã để có thể sống cách hoàn bị.

     Nhiều người cảm thấy không thể nhận ra sự hiện hữu của mình, mãi đến khi họ biết chắc là chính mình, rồi đòi người khác phải thừa nhận mình, bằng các hành động diễn tiến cụ thể trong cuộc sống hằng ngày và cố gắng bảo vệ ý tưởng ấy.

     Chúng ta có thể  không thừa nhận chính mình, cũng không nên gây áp lực người khác, khiến họ phải thừa nhận sự của hiện hữu. Chỉ khi nào chúng ta có thể tin chắc chắn – qua kinh nghiệm – mình được yêu mến và được người khác xác nhận mình mới đáng qúi.  Chúng ta phải học tập để trở nên thật sự hiểu biết con người hiện tại của mình. 

     Thiên Chúa yêu thương và thừa nhận chúng ta.  Chúng ta cần được người thân cận, ít nhất là một người, xác nhận và nói với chúng ta:  ’’Bạn là người quan trọng đối với tôi.’’  

     Gabriel Marcel nhấn mạnh tới ý tưởng ấy tại một trong số những cuốn sách của ông rằng, để có thể nói với một người ’'tôi yêu mến bạn’’, tương đương câu ’’bạn không bao giờ chết’’, nghĩa là ’’bạn là người vô cùng quan trọng đối với tôi, đến nỗi tôi sẽ thừa nhận bạn trước mặt Chúa, ngay cả không ai thừa nhận bạn – nhưng chắc chắn có Chúa và tôi.’’ 

     Chúng ta có thể làm được một việc thật sự tốt, nếu chúng ta sẵn sàng thừa nhận lẫn nhau, mặc dù đó chỉ là tạm thời, khi nói: ’’Vâng, tôi sẵn sàng thừa nhận bạn, nhưng tôi không biết phải làm cách nào để cho phải lẽ, bởi vì sự hiện hữu của bạn cho đến nay là một thách thức, và như một cuộc xâm lăng, nên tôi cảm thấy sợ, tuy nhiên tôi sẽ chấp nhận bạn theo khả năng của tôi.’’ 

     Bằng cách ấy, chúng ta sẽ trở nên lớn mạnh để dám chấp nhận người khác, và tuyên xưng giá trị tuyệt đối của họ bằng bất cứ giá nào.  Người được chấp nhận dưới hình thức ấy có thể tự quên mình và quên cuộc sống.  Đó là cách mà chúng ta được mời gọi tiến bước trên cõi đời.

     Chúng ta phải can đảm trong việc đấu tranh để vượt qua các lớp sợ hãi, hầu sẵn sàng chấp nhận nhau - chiến đấu để khắc phục âu lo.  Ở mỗi bước, chúng ta đều phải từ bỏ chính mình để cho người khác có thể . 

     Như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói chính mình phải lu mờ đi, hầu Ngôi Lời có thể nổi bật lên (Gioan 3,30), như thế có nghĩa là chúng ta được mời gọi để tự hủy diệt mình dần dần, hầu người thân cận và những người khác sống.  Tự hủy diệt tức là chết, và có nghĩa là không giữ lại bất cứ thứ gì cho mình, ngoại trừ chiếm đoạt sự trọn lành trong cuộc sống - đó là điều rất cần thiết! 

Sự Chết Như Kẻ Thù Địch và Bạn Hữu.
     Tuy nhiên, mọi việc không qúa đơn giản, nhưng là sự thật, khi thánh Phaolô nói, sống là Đức Kitô và chết là được. Thực ra, chết không phải là loại bỏ cuộc sống trần tục, nhưng là mặc lấy cõi đời đời.  Một điểm nhấn mạnh hơn nữa của thánh Phaolô, cũng như phần còn lại trong Kinh Thánh.  

     Con người được tạo dựng không phải để chết; con người được kêu gọi để vào cõi sống đời đời; chết là kết qủa của tội lỗi, theo suy nghĩ chung là xa lìa Chúa và chia cắt sự liên hệ với tha nhân, làm mất sự tương quan đích thực và mật thiết với chính mình. 

     Từ quan điểm đó chứng tỏ, chết là kẻ thù địch cuối cùng, cần phải tiêu diệt (1 Côrintô 15,26).  Chết là kẻ thù địch, còn Thiên Chúa thuộc về chúng ta.  Thực vậy, sự chết là kẻ địch thù của Thiên Chúa theo cách thế rõ ràng và gớm ghiếc nhất, vì nó trải dài ngay cả tới chính Đức Kitô. Nhưng, trong khi, sự chết, một mặt là kẻ địch thù như vậy, thực tế, nó đuổi theo tới Đức Kitô, tức là nó giết chết Người, là Đấng vẹn toàn và chính là Thiên Chúa nhập thế, chứng tỏ nó mang đầy ác ý và nọc độc. 

     Tuy nhiên, tội lỗi hoặc sự dữ gây nên sự chết, nhưng riêng tội lỗi hay sự dữ không thể đụng chạm được vào tất cả mọi người.  Đức Kitô không bị nhơ nhớp, mặc dù chết trên thap giá. Người không mang di truyền của nòi giống đáng sa hỏa ngục, nhưng Người dự phần vào thảm trạng sự chết.  Cá nhân Người không bị hoen ố vì liên kết với mầu nhiệm sự chết.  

    Thật là một điều khó hiểu.  Một mặt, chết không tồn tại; chết là kết qủa của sự dữ và sẽ bị tiêu diệt.  Một mặt, chết cho phép chúng ta phá vỡ cái vòng xấu xa vô tận; (vô tận là một cái gì khác biệt với cõi đời đời). Nếu không có sự chết trong một thế giới sự dữ, tội lỗi và đồi bại, thì dần dần chúng ta sẽ bị suy tàn và tan rữa, mà không bao giờ thoát ra khỏi cảnh kinh hoàng vì bị tiêu hủy lần lần như vậy.

     Nước Nga có câu chuyện ngụ ngôn rằng, một người lính lo thu gom cái chết và để vào một cái bao.  Chàng đeo cái bao trên lưng cách an toàn, và trước nhất, tự coi mình là một ân nhân có công cứu mạng người thoát khỏi tình trạng hiểm họa nhất.  Nhưng rõ ràng là trong khi cái chết đã được đem cất dấu đi, bệnh tật và tuổi già vẫn còn nhiều như thuở trước.

     Và vào một ngày, anh lính gặp một bà cụ già bệnh hoạn, lưng còng vì tuổi tác, bà nắm bàn tay lại chỉ về phía anh lính và la lên:  ’’Coi, anh làm gì thế kia, anh là tên ác, chẳng tốt lành gì.  Anh thu góp cái chết, nhưng anh lại tước đoạt sự tự do của tôi.  Đây này, tôi là một tù nhân vô tận, bộ phận của một tiến trình không hồi phân giải.’’  Anh lính hiểu rõ việc tai hại anh đã làm nên cởi bao, bỏ cái chết đi.

     Tôi thật sự muốn thêm rằng, con người cần giải phóng khỏi cái chết và được sống tự do.

Chết Thể Lý và Chết Tinh Thần
     Nửa đêm lễ Phục Sinh và trong suốt bốn mươi ngày kế tiếp chúng ta hát: Đức Kitô đã sống lại..., nghĩa là sự chết đã bị sự chết phá hủy. Tuy nhiên, chúng ta thấy gì? Cái chết đã được giải phóng và được tự do, nhưng con người vẫn chết như thuở trước.  Dường như chúng ta đang khẳng định một cái mà chúng ta biết là không đúng với sự thật.

     Nhưng, chúng ta nên nhớ rằng có hai phương diện hoặc hai cái chết.  Có cái chết về thể lý, nhưng cũng có cái chết, được hiểu là xa rời Thiên Chúa, như tự hạ mình xuống âm phủ - Sheol – nơi không có Thiên Chúa, nơi thiếu bóng dáng và gương mặt Người.  
 
     Phương diện thứ hai về sự chết, chắc chắn ghê sợ và rùng rợn hơn nhiều. Qua các tượng ảnh, chúng ta thấy Đức Giêsu tỏ ra đau khổ khi nhìn thấy hỏa ngục, hoặc qua cách trình bầy trong Kinh Tin Kính của các Tông Đồ, chúng ta phải đối đầu với một thực trạng không thể ngờ vực được.  

     Đức Giêsu không chỉ có kinh nghiệm về cái chết liên quan tới phương diện thứ nhất, mà cả phương diện thứ hai nữa. Người chấp nhận chia sẻ với chúng ta trong mọi hậu qủa của sự dữ - bao gồm sự cách biệt Chúa Cha vào giờ sau hết. (’’Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con?’’)  Nhưng, Người xuống tận nơi tất cả nhng kẻ bị giam cầm vì đã mất Thiên Chúa, và đem họ lên với Thiên Chúa trong tình trạng hoàn toàn thánh thiện. Bởi thế, không còn chỗ nào là không có Thiên Chúa.  

     Sự kiện ấy cho phép chúng ta hiểu hoàn cảnh của mình, kể từ sau cái chết và sống lại của Đức Kitô. Chúng ta còn phải trải qua một cái chết tạm thời, cái chết mà thánh Phaolô mô tả như một người đang ’’buồn’’ ngủ (1 Côrintô 15,6).  Như thế, không còn cái chết nào làm con người phải sợ hãi, tiêu tan và xa cách Thiên Chúa nữa.  Trong ý nghĩa ấy, chết chính là cái chết đã bị cái chết phá hủy.  Do đó, ngay hiện nay – chúng ta đang và sẽ là những kẻ thừa tự sự sống đời đời. 

Đối Mặt Với Sự Chết
     Có một lần tôi được mời đến nói chuyện về sự chết ở một Đại Học tại Anh quốc.  Sau đó, một vị tuyên úy nói với tôi, ’’anh biết không, tôi chưa từng thấy một người chết bao giờ.’’  

     Tôi vô cùng ngạc nhiên, vì một linh mục, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi, mà chưa từng thấy sự chết diễn ra trong chính gia đình mình, hoặc trong đơn vị mình làm tuyên úy – kể cả trong thời chiến. 

     Tình huống đó khiến tôi quan tâm nhiều tới các địa giới lân cận và tôi có cảm nhận mãnh liệt rằng, sự chết là một vấn đề đa số đều muốn tránh né, không thích nhắc đến. 

     Bởi vì kẻ đã chết thì được trao phó cho người lo việc chôn cất, còn người sống thì lẩn trốn trách nhiệm, ít ai tìm cách phát triển cuộc giao thoa giữa sự sống và cái chết. Tôi cảm thấy khá nhức nhối trước các diễn biến như vậy. 

     Từ buổi nói chuyện ấy, tôi tạo nhiều dịp để đề cập tới cách chuẩn bị, tức là dọn mình, cho người chết, với các sinh viên y khoa, bác sĩ, y tá và bất cứ ai có thiện ý muốn nghe.  Và cuối cùng, tôi khám phá ra rằng, tất cả mọi người đều thực sự sẵn sàng nghĩ tới việc chuẩn bị cái chết cho những kẻ khác. 

     Tuy nhiên, rất ít người suy nghĩ tới số phận của mình rồi cũng sẽ tới, để rồi thực sự chuẩn bị và định hình về cái chết của chính bản thân, hoặc đặt ra một nguyên tắc, và học hiểu cách sống sao cho thật hạnh phúc, hầu khi chết cũng tốt đẹp – không chỉ theo từ ngữ luân lý - hay khéo hơn là theo con đường chính trực.

     Tuy nhiên, tất cả mọi người chúng ta đều mắc bệnh, một căn bệnh cuối cùng, tức là căn bệnh mang tính phải chết.  Trước khi chết, sự kiện mang căn bệnh ấy có thể  kéo dài, ba mươi, sáu mươi năm hoặc lâu hơn.  Không ai tránh khỏi căn bệnh ấy, trước khi sự chết thật sự đến.  Việc chuẩn bị cho sự chết không chỉ đơn thuần liên hệ tới người khác hoặc nhiều người khác, nhưng liên hệ ngay tới bản thân mình - gọi chung là tất cả các bộ phận trực thuộc phải ưu tư hoạch định.

Giải Phóng Khỏi Thế Lực Sự Chết
     Vậy chúng ta phải chuẩn bị ’’dọn mình’’ như thế nào? Từ một quan điểm cho rằng sự chết có thế lực trên chúng ta, bởi vì chúng ta được sinh ra thì chúng ta sẽ phải chết.  Đó là vấn đề  rất đơn giản.  Nhưng có một khía cạnh khác liên quan tới sự chết khiến chúng ta phải chú ý kiểm tra liên tục.

     Mấy năm về trước, một giáo dân trong giáo xứ của tôi ngã bệnh. Anh được chở đi nhà thương; người ta khám phá ra anh mắc chứng bệnh ung thư ở trạng thái vô phương cứu chữa và sẽ phải chết.  Lúc ban đầu, không ai nói cho anh biết điều ấy.  Nhưng gia đình anh được biết, và tôi cũng được biết.  Khi tôi đến gặp anh, phản ứng đầu tiên (thường là như vậy) của anh là phản đối và kháng cự.  ’’Tôi còn rất nhiều việc phải hoàn tất, mà giờ đây tôi phải nằm trên giường này, chẳng làm được một việc gì.  Thời gian kéo dài bao lâu nữa đây?’’  

     Tôi nhắc anh nhớ lại mấy điều anh thường nói:  ’’Giả như chỉ một mình tôi có thể bắt thời gian dừng lại, tôi sẽ làm ngay.’’ Tôi cũng nhắc lại cho anh hiểu, nếu như trước kia, anh không bao giờ có thể làm được việc ''giữ lại thời gianNhưng, bây giờ Chúa đã làm giúp anh. Vì thế, anh không còn lý do gì phải phàn nàn, hoặc cảm thấy mình lầm lỗi.  Tất cả mọi thứ ngoài quyền hạn của anh nay đã hoàn toàn thay đổi.  Tuy nhiên, anh còn nằm đây, trong khi thời gian vẫn chuyển động bên cạnh anh.  Anh đang ở trong thể tĩnh với điều kiện hiện tại.  Bây giờ, anh có thể hoàn toàn sống phần cuối đời trong tự do, tròn đầy và hoàn hảo, tùy ý anh chọn lựa.'' 

     Khi tôi hỏi anh là anh có cảm thấy bằng lòng với điều kiện hiện tại này không thì anh trả lời:  ’’Tình trạng náo động vẫn xoay vần trong tôi.  Tôi không thể làm được gì, nhưng tôi trải nghiệm các chuyển động bằng thái độ tôn trọng tất cả mọi sự và mọi người ’’  

     Tôi giải thích cho anh hiểu, bệnh tật luôn đối đầu với chúng ta, cái mà vào giờ phút cuối cùng, rõ ràng nhất là sự chết. Trong sự chết có hai phạm vi hoặc hai thế lực hoạt động. 

     Một thế lực ngoại vi, đó là:  vi trùng, vi khuẩn, ung thư hay bất cứ thứ gì tìm cách hủy diệt cơ thể. Thế lực khác gồm tất cả các hành vi tiêu cực và những cảm súc cuốn hút mất sức sống nội tại như: oán giận, cay đắng, ân hận, hối tiếc, thiếu bình an.  Tôi khuyên anh tập trung vào thế lực sự chết đang nằm ngay trong anh, và hãy để cho các bác sĩ săn sóc phần còn lại.

     Sau đó chúng tôi bước qua một tiến trình lâu dài (trên nhiều tháng). Trong thời gian ấy, từ ngày này sang ngày khác, anh lượng giá thái độ của mình đối với những nguời sống gần gũi anh.  Anh có thời gian làm công việc đó; hơn nữa, anh có thể làm việc đó với tâm tình đúng đắn, coi tất cả mọi sự việc đã xẩy ra như là những dữ kiện hiện hữu, không từ một quan điểm thực dụng, nhưng từ một góc độ tuyệt đối. Trong suốt tiến trình, anh đã tạo được hòa thuận với tất cả mọi người sống chung quanh mình.

     Tiếp theo, chúng tôi trở ngược lại qúa khứ của anh, từ việc này sang việc khác, tìm hiểu cảm nhận vấn đề lỗi lầm của anh, để lượng định việc nào anh đã hoàn tất và việc nào anh còn bỏ dở, việc nào những người khác đã làm hoặc chưa xong.  Dần dần tất cả mọi lãnh vực đều được đưa ra ánh sáng.  Phải có can đảm lắm mới làm được việc này.  Bởi vì nhìn thẳng vào chính cuộc sống của mình, từ giây phút ổn định trong hiện tại là điểm Chúa bắt đầu phán xét anh, là điều ti cần. 

     Cuối cùng, anh đã tới được điểm mà anh gần như nhận ra mình qúa yếu nhược đến nỗi không còn đủ khả năng dùng hai bàn tay đưa thức ăn vào miệng mình nữa.  

     Đột nhiên, anh nói với tôi:  ’’Lạ lùng thay!... Tôi là người đang chờ chết.  Tôi chẳng còn lại một chút sức lực nào. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ cảm thấy trong mình có một sức sống mãnh liệt như hiện nay.’’ 

     Anh đã tìm thấy chính anh đang ở điểm hoàn toàn thăng bằng và vững chắc trong tự do và độc lập, không lo ngại gì trước bất cứ điều gì có thể xẩy ra cho cơ thể anh.

     Chỉ khi nào chúng ta cảm thấy mình là người được tự do đối với tất cả mọi mầm mống của sự chết vẫn đang ám ảnh mình, lúc đó chúng ta mới đạt tới điểm có thể nhận biết mình là con người bất tử, mặc dù cơ thể chúng ta đã chết.

Chưa Qúa Muộn
     Khi chúng ta hồi tưởng lại qúa khứ của mình như anh bạn nêu trên đã làm, thỉnh thoảng chúng ta nhớ đến một người nào đó mà chúng ta đã gây thiệt hại cho họ, vật chất hoặc tinh thần, nhưng hiện nay người ấy đã chết từ lâu, hoặc không còn cơ hội gặp lại nữa, và dường như không còn cách nào để có thể sắp xếp sự việc cách ổn thỏa theo dự kiến của mình được. 

     Tôi xin nêu lên một thí dụ.  Tôi gặp một người c ông khoảng tám mươi tuổi, và cách nay sáu mươi năm về trước, lúc cụ còn là một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Chiến Tranh Dân Sự Nga Sô, chẳng may c bắn chết cô gái mà c yêu thương, lúc đó đang là y tá trong đơn vị c.  Suốt cuộc đời còn lại, c không bao giờ tìm được sự bình an.  Cụ nói với tôi rằng c vô cùng ân hận, c đã xưng tội và nhận được ơn tha tội, nhưng tâm tư c không cảm thấy khác biệt:  không gì có thể giải thoát c khỏi cảm giác tội lỗi. 

     Đoạn tôi nói với c, ’’Thế thì tại sao c lại nhờ cậy vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào một linh mục để được ơn tha thứ?  Những người này có là nạn nhân của c đâu?  C hãy nhờ cậy vào người mà c đã giết, đó là cô gái.’’ 

     C nhìn tôi một cách rất ngạc nhiên và hỏi:  ’’Nghĩa là làm sao, tôi phải nhờ cậy vào cô gái ư?  Tôi giết cố ấy cách nay sáu mươi năm rồi mà.’’  

     Tôi trả lời, ’’Thực sự c đã giết cô gái ấy, vì lẽ đó, trong buổi cầu nguyện tối nay, c hãy hướng lòng về cô ấy và nói, cách nay đã sáu mươi năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn mang theo trong mình tội lỗi và cảm thấy hổ thẹn về việc tôi đã làm cho cô.  Là nạn nhân, nên chỉ cô mới là người có quyền tha thứ cho tôi.  Vậy cô hãy tha thứ cho tôi, đồng thời xin Chúa ban cho tôi ơn tha tội để tôi được sự bình an trong tâm hồn.’’ 

     Cụ ấy làm như tôi đề nghị và thực sự cụ đã được an tâm.    

     Nhiều vấn đề xẩy ra trong qúa khứ khiến chúng ta giải quyết không được, chỉ vì chúng ta rẽ qua hướng sai lệch.  Vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống (Mátthêu 22,33), nên tất cả những ai đã giã biệt cõi đời này sẽ được sống trong Người; về phần chúng ta, chúng ta có thể hướng về họ, những người mà chúng ta lỗi phạm tới họ, và xin chuyển cầu lên Chúa để được ơn tha thứ. 

     Phần đông những người đã bị mất đi người mà họ yêu thương đều nghĩ rằng họ không yêu thương người ấy cách hoàn bị lúc người ấy còn sống, như lòng họ mong ước; họ phải chịu ơn người ấy theo nghĩa yêu thương, nhưng bây giờ thì qúa trễ rồi, chẳng làm được gì nữa. 

     Đó là một lỗi lầm mà đáng lẽ chúng ta không bao giờ được phép làm.  Không bao giờ được kể là qúa trễ nếu chúng ta thực sự tin rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.  Nhưng, chúng ta không bao giờ nên nói rằng chúng ta chỉ yêu thương nhau trong thời qúa khứ, lúc còn ở trần gian.  Cơ thể chết không làm tan vỡ mối tương quan đã có, nhưng luôn gắn bó giữa những người đã gặp gỡ và yêu thương nhau trên mặt đất.

Những Hạt Giống Chúng Ta Gieo
     Chết không phải là hết.  Việc tốt lành chúng ta đã làm tiếp tục diễn ra sau này, và sinh hoa kết trái trong cuộc sống cho những người khác.  Chẳng may, hệ qủa tất yếu cũng là đúng, nếu chúng ta để lại một di sản sự ác. 

     Về mặt tích cực, có thể nghĩ tới ảnh hưởng của Kinh Thánh.  Từ xưa tới nay, đã có vô số người được ơn trở lại hoặc thay đổi nhờ chỉ đọc một đoạn ngắn Kinh Thánh. 

     Điều mà họ đạt được từ một nhân vật, đã từ nhiều thế kỷ trước, bầy tỏ và viết thành sách, chỉ vì muốn tạo lợi ích cho Đức Kitô.  Niềm tin của tôi thực sự chịu ảnh hưởng rất sâu đậm bởi Tin Mừng do thánh Máccô viết.  Nếu tôi làm được điều gì tốt trong đời sống, là nhờ mỗi ngày, kể từ khi còn rất trẻ, đều đọc và suy niệm một đoạn Phúc Âm của thánh Máccô, và chính vì thế Đức Kitô đã tỏ mình ra và đi vào cuộc sống của tôi.

     Trái lại, tôi cũng nghĩ tới những người khác đã từng viết nhiều sách, chẳng hạn như nhà văn Pháp thế kỷ XIX, Arthur de Gobineau.  Gobineau viết một số truyện ngắn đáng chú ý, trong đó gồm một khái luận hơi buồn khổ về sự bất bình đẳng chủng tộc.  Đó là một khái luận mà hiện nay đã hoàn toàn và đáng bị quên lãng, ngoại trừ một điều được Hitler xử dụng đọc lên.  Điều thật sự khó mà nghĩ rằng Gobineau lại có thể tỏ ra vô trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi đã viết thành cuốn sách với nội dung như vậy.  Ông là một lý thuyết gia.  Nhưng lý thuyết đã biến thành thực trạng, và làm thiệt mạng hàng triệu người dân vô tội. 

     Liên quan tới vấn đề này, tôi nhớ tới một chuyện ngụ ngôn của Ivan Andreyevich Krylov: Hai cá nhân bị kết án đầy xuống hỏa ngục và được đặt trong những cái vạc gần nhau. 

     Một người phạm tội sát nhân, còn người khác đơn thuần chỉ vì viết một số truyện ngắn vô giá trị. Tác giả đưa một cái nhìn nhanh qua mép vại của mình xem tên sát nhân bên chiếc vại kia đang ăn uống ra sao.  

     Bản thân ông đang bị nấu sôi cách vô cùng tàn nhẫn, đến nỗi ông không thể mường tượng được người bên cạnh ông được đối xử ra sao.  

     Nhưng, trong cơn phẫn nộ, ông nhìn thấy kẻ sát nhân đang ngâm mình trong nước nước ấm.  Ông kêu đám ma qủi đang thi hành công vụ lại và bầy tỏ nỗi bất bình của mình: ’’Tôi đơn thuần chỉ viết một số truyện ngắn, và các bạn cho tôi vào vại nước sôi kinh khủng như vậy, trong khi tên kia phạm tội giết người lại được thư giãn trong tư thế tắm rửa thoải mái.’’  

    Đám ma qủi nói:  ’’Đúng, đó không phải là tai họa, nhưng là sự việc có toan tính.’’  
- ’’Sao vậy?’’  
Đám ma qủi nói:  ’’Phải, tên này đã giết người trong một cơn giận dữ, nên mỗi khi thịnh nộ của hắn bùng dậy thì chúng tôi đun sôi hắn cách thật dữ dằn, sau đó lại cho hắn nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Còn đối với ông, mỗi khi có người mua cuốn sách của ông thì chúng tôi đổ thêm nhiên liệu và cho lửa ở dưới cái vạc bùng cháy mãnh liệt.’’

     Ở đây có một điểm mang nội dung thần học.  Cuộc sống của chúng ta không kết liễu thuận lợi bằng cái chết ngay ở trên trái đất này, nhưng kéo dài hằng nhiều thế kỷ, thông qua di truyền và các sản vật chứng minh sự tồn vong của chúng ta; đồng thời chúng ta vẫn có một trách nhiệm đối với những gì để lại do các việc làm của mình.

     Vì thế, những người chúng ta đã gặp hôm nay; những gì tôi và bạn đã thấy; những gì tôi và bạn đã nói, chúng ta đều có trách nhiệm, nhất là về những gì bạn sẽ nhận được từ nơi tôi và lối sống nào ảnh hưởng tới cuộc đời bạn./.