SỰ CHẾT
Nhận Thức Trong Hiện Tại.
Chết là một thử thách về thái độ sống của mỗi người. Những người sợ chết là sợ cuộc sống. Một người sợ chết thì không thể không sợ cuộc
sống với muôn vàn phức tạp và nguy hiểm.
Vì thế, giải quyết vấn đề chết không phải là một sự xa xỉ. Nếu sợ chết thì chúng ta sẽ không bao giờ
được chuẩn bị để tiếp nhận những rủi ro tối hậu, hoặc bất chợt xẩy đến; do đó, chúng
ta sẽ sống một cuộc đời với thái độ thận trọng, dè dặt, nhu nhuợc và nhút
nhát. Chỉ khi nào đứng trước sự chết,
chúng ta mới có thể hiểu rõ điều đó, và xác định đúng vị trí của sự chết, và vị
trí của chúng ta, để có thể sống với thái độ không sợ sệt, bằng khả năng tròn đầycủa
mình. Nếu chúng ta đối diện với sự chết, hay nói đúng hơn, nếu chúng ta luôn
luôn chuẩn bị, tức là ’’dọn mình’’
chết, ngay từ lúc còn thật trẻ, thì đến cuối cuộc đời và đứng trước sự chết, chúng
ta sẽ cảm nhận được cuộc sống thật khác biệt và thú vị.
’’Nhớ đến sự chết’’ là lệnh truyền từ một giáo phụ, đuợc lập đi
lập lại, từ nhiều thế kỷ, nhắc chúng ta phải lưu ý trong suốt cuộc đời của mình. Nếu lệnh truyền kia lọt vào tâm trí một thanh
niên sống trong thời hiện đại, nhưng vốn dĩ là một người rụt rè, đức tin đang
bị khủng hoảng, lại đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, chắc chắn
anh sẽ nghĩ rằng, anh được gọi vào đời để sống trong cảnh u tối, núp dưới bóng
sự chết, và có thể chết bất thình lình; như vậy thì anh sẽ chẳng ghi được điểm
nào đáng kể trong cuộc sống trên cõi đời này. Nếu anh cứ liên tục nhớ tới sự
chết cách bi thảm sâu đậm, thì sự chết khác gì thanh guơm của Damocles đang treo lơ lửng trên đầu anh,
với khoảng cách chỉ bằng gang tấc, khiến anh không thể nào hưởng thụ trọn vẹn
cuộc sống cũng như thực hiện đầy đủ khát vọng riêng của mình. Nếu lối suy luận của anh thanh niên là một sự
thật thì lệnh truyền của vị giáo phụ sẽ bị đẩy lui hoàn toàn. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa thâm sâu của cụm từ ’’nhớ tới sự chết’’ như một cách nâng
cao cuộc sống, chứ không nên làm cho cuộc sống trở nên èo ọt, chao đảo.
Chúng ta cần dành thời giờ
để làm một bản dự tính cho từng ngày trong cuộc đời mà chúng ta phải sống. Chúng ta không theo lối sống vội, nhưng tạm
thời, như thể đang chuẩn bị cho ngày chúng ta thực sự sẽ bắt đầu sống, giống
như người viết một bản dự thảo giản dị, không trau chuốt, với ý định sau này sẽ
làm một bản văn kỹ lưỡng, hoàn chỉnh hơn.
Nhưng, tiếc thay bản văn cuối cùng không bao giờ được hoàn tất. Bởi vì sự chết đến bất ngờ, trước khi chúng
ta có thì giờ hoặc thậm chí chưa nẩy sinh ý định thực hiện dứt khóat một quan
điểm. Vì bận rộn hoặc vì nghĩ rằng mình
khoẻ mạnh, trẻ trung, còn lâu lắm mới chết.
Do đó chúng ta luôn cho rằng việc nọ việc kia sẽ làm vào ngày mai, ngày
mốt…cũng được; vì ngày mai, ngày mốt vẫn tương tự ngày hôm nay. Ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ hành động một cách
dứt khoát, xong xuôi mọi việc.’’Suy nghĩ như
vậy có lẽ là sai lầm, nhưng hãy cho tôi thời gian. Bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ sắp xếp để
mọi việc đâu vào đấy, hoặc tự nó có thể xoay vần ra sao cho phải lẽ.’’ Tuy nhiên, tất cả mọi người chúng ta đều
biết, thời gian thật sự không bao giờ đến, trong rất nhiều trường hợp.
Lệnh truyền ’’nhớ tới sự chết’’ không
phải là lời kêu gọi sống bằng cảm giác kinh sợ, vì nghĩ rằng sự chết sẽ bắt kịp
chúng ta và sẽ hủy diệt tất cả những gì chúng ta sở hữu. Thực tế, nhớ
tới sự chết có nghĩa là chúng ta hãy chú ý tới những lời chúng ta sắp sửa
nói, những việc chúng ta đang chuẩn bị làm, những gì chúng ta đang nghe, những
khó khăn chúng ta đang chịu, những nhận xét chúng ta đang tự hữu, và những gì
chúng ta cho hoặc nhận bây giờ, có thể là một biến cố hoặc một trải nghiệm cuối
cùng trong cuộc sống riêng mình. Cũng vậy,
nếu chúng ta biết chắc là chúng ta đang đối diện với một người vào lúc
cuối cùng cuộc sống, có lẽ chúng ta sẽ quan tâm đặc biệt tới từng
suy nghĩ, từng lời nói và từng việc làm của mình, để
không bị sai lầm.
Một câu chuyện, dành cho
thiếu nhi nước Nga, kể rằng, người ta hỏi một thanh niên được kể là khôn ngoan ba
câu: 1.) thời điểm quan trọng nhất trong
cuộc sống là gì? 2.) Hành
động quan trọng nhất trong cuộc sống là gì?
3.) Và ai là người quan trọng nhất? Người thanh niên đem các câu nêu trên
đi hỏi khắp nơi mà không có được những giải đáp thoả đáng. Cuối cùng, anh gặp một nữ nông dân và chị hết
sức ngạc nhiên vì những câu hỏi như vậy mà anh không hiểu rõ ý nghĩa. ’’- Thời
điểm quan trọng nhất trong cuộc sống là hiện tại; đó là giây phút mà chúng ta đang
có, vì qúa khứ đã đi qua, tương lai chưa tới.- Hành động quan trọng nhất trong
hiện tại là phải làm điều đúng, ngay thẳng, tốt lành, công bình. - Người quan
trọng nhất trong cuộc sống là người ở bên ta, gần gũi ta, ngay giây phút hiện tại,
và ta được phép chọn lựa, hoặc là làm điều tốt, điều đúng hay làm điều xấu,
điều sai trái đối với họ.’’ Những điều nhắc nhở chúng ta nghĩ đến sự chết
là như vậy.
Giá trị của thời điểm hiện
tại phải được hiểu, khi người thân yêu của chúng ta mắc một chứng bệnh, được kể
là thập tử nhất sinh, đặc biệt hơn, khi chúng ta nhận ra rằng người thân yêu có
thể sẽ chết trong vòng vài phút nữa. Lúc
đó, chúng ta mới biết rõ tầm mức quan trọng của từng cử chỉ và hành động của
mình, nhờ thế chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa những gì chúng ta cho
là thật sự quan trọng trong cuộc sống và những gì chúng ta coi là tầm thường. Cách chúng ta nói, thái độ chúng ta sắp đặt
một cái khay với một chiếc tách đựng trà, cách chúng ta sửa chiếc gối đầu từ vị
thế kém thoải mái sang tình trạng dễ chịu cũng quan trọng như những việc to lớn
nhất mà chúng ta đã từng giải quyết. Hành
động khiêm tốn nhất, lời nói đơn giản nhất, làm cho mối tương giao giữa chúng ta
với mọi người càng trở nên sâu đậm hơn, thể hiện tình yêu, sự quan tâm và chân
thành nơi chúng ta.
Nếu chúng ta cảm nhận được
tính cấp bách của giây phút đang sống có thể là cuối cùng, thì cuộc đời chúng
ta sẽ thay đổi từ tận gốc rễ. Những lời nói vô ích có tính cách nhàn rỗi mà Tin
Mừng lên án (Mátthêu 12,36) là những lời nói và việc làm vô ý thức, mơ hồ và gây
tổn thương sẽ không có chỗ đứng. Lời nói
và hành động của chúng ta phải được cân nhắc, suy xét thật kỹ lưỡng, để có thể đạt
được kết qủa tốt nhất trong cuộc sống và thể hiện sự hoàn hảo về quan hệ và tương
giao.
Nhận thức về sự chết cách đúng đắn mới tạo cho cuộc sống một chiều sâu
và ý nghĩa, mới mang sự sống đến cho sự sống, mới cho chúng ta cảm nhận là tất
cả đều tóm gọn trong giây phút hiện tại. Như vậy, chính là cách thức mà các nhà khổ tu
đã dầy công chiến đấu chống lại thái độ vô tâm, bất cẩn, thiếu chú ý; chống lại
tất cả hoặc đúng hơn là không cho phép chúng ta bỏ lỡ bất cứ khoảnh khắc nào
trôi qua mà không tạo cơ hội làm điều tốt cho người khác, nhưng lại gạt họ qua
một bên, để mình tiến lên, không quan tâm tới nhu cầu khẩn thiết của họ. Một trong những điều chính yếu chúng ta được
mời gọi đến trong thế gian là để học hiểu và nhận thức- nhận thức về chính mình
và nhận thức về hoàn cảnh của mọi người sống chung quanh mình; một nhận thức về
sự chết và sự sống. Tất cả cuộc sống đều
quy về hành động cuối cùng.
Sợ Chết, Ước Ao Chết
Qua kinh nghiệm và tâm lý chung, dường như mọi người đều sợ chết hoặc ở
trong trạng thái âu lo, bấp bênh, không chắc chắn đối với sự chết. Chính xác là chúng ta sợ về cách chết hơn là
về việc chết. Có lẽ hầu hết ai cũng sẵn
sàng đón nhận cái chết - bởi vì đã sinh thì có tử - nhưng nếu chúng ta biết chắc
sự chết sẽ đến với mình như một giất ngủ, mà không diễn ra một giai đoạn sợ hãi
hay lưỡng lự nào, thì thật là tuyệt diệu!
Thật vậy, dường như sự chết
có cả sức quyến rũ và hấp dẫn, chẳng thế mà nhiều người vẫn nói: ’’Tôi
ước ao được chết cho xong’’. Lối nói
này ngụ ý: ’’Tôi mong sao không còn trách
nhiệm đối với chính mình hoặc với Chúa hay bất cứ ai khác; tôi muốn được trở về
đời sống hồn nhiên như hồi còn ở tuổi thanh xuân, chẳng phải chịu trách nhiệm
gì, đơn giản chỉ ăn với chơi thôi.’’ Đa số trong chúng ta chỉ muốn có một
cuộc sống hưởng thụ, chứ không muốn gom trách nhiệm vào mình. Vì thế, việc ước ao chết chỉ là cách muốn
giải thoát khỏi gánh nặng và trách nhiệm cuộc đời. Nhưng thực tế, câu nói trên cho biết, sự chết
được xem như là kẻ thù, mà chúng ta muốn ruồng bỏ, vì không vượt qua được các thách
đố trong cuộc sống hoặc bị các mối tương giao chà đạp. Có những người nói: ’’Tôi
không sợ chết’’, thì chúng ta nên hỏi xem họ có sẵn sàng đón nhận sự chết
và ước ao được chết bất cứ lúc nào, mà không tỏ vẻ sợ hãi hoặc e ngại
không? Câu nói vừa rồi mang ý nghĩa: ’’Tôi
ghê tởm và chán ghét cuộc đời, nên muốn trốn chạy ra khỏi đó bằng bất cứ giá
nào - nếu tôi có thể ngủ mà không thức dậy, nếu tôi có thể trao mọi trách
nhiệm, những việc làm dở dang hoặc sai trật cho người khác được!’’ Chúng ta
không nên có những thái độ viển vông, mơ mộng đối với sự chết.
Nhìn vào cuộc đời các thánh,
chúng ta sẽ khám phá được một thái độ hoàn toàn khác biệt đối với sự chết. Các ngài yêu sự chết đến nỗi không tỏ vẻ sợ
hãi cuộc đời. Như thánh Phaolô nói: ’’Đối
với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi […]. Tôi ước
ao ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần.’’ (Philiphê
1,21,23). Thánh Phaolô tỏ ra hoàn toàn tích cực đối với sự chết. Dường như thánh Phaolô coi sự chết như cửa
ngõ dẫn vào cuộc sống đời đời, để Người gặp gỡ Đức Kitô, Đấng Người yêu mến
trên hết mọi sự và hơn cả sự sống của chính mình. Điều này không thể đạt được
nếu chỉ bằng suy tưởng suông; nhưng còn cần tới nhiều vấn đề cụ thể khác nữa. Để có thể khao khát sự chết bằng một cách thế
đặc biệt và coi sự chết như vương miện của cuộc đời, thì ít nhất chúng ta phải
có một cảm nhận về sự sống đời đời ngay ở
đây và bây giờ. Chúng ta không nên nghĩ rằng cuộc sống đời đời giống như
một cái gì sẽ diễn ra sau này, hoặc như một tương lai tràn đầy an vui và hạnh
phúc. Các tông đồ trở nên những người
dũng cảm chỉ vì các ngài đã tự biến mình thành những người dự phần vào sự sống
đời đời - ở đây và bây giờ -. Bao lâu
các ngài chưa chấp nhận làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh, thì các ngài
chưa nhận được Thánh Linh, và vì thế các ngài vẫn còn sợ hãi và bám chặt vào sự
sợ hãi trong cuộc đời trần tục của mình.
Nhưng ngay giây phút các ngài tiến vào cuộc sống đời đời, thì sự sợ hãi
vì phải mất đi cuộc sống trần tục, biến mất; các ngài biết rằng hận thù, bách
hại, tàn sát không cản được việc các ngài sẵn sàng giải thoát khỏi những giới
hạn của cuộc đời và khiến các ngài tiến vào cuộc sống đời đời, bất tận. Và cuộc sống đời đời được biết như một cảm
nhận trong hiện tại, không chỉ bằng một hành động của lòng tin. Giống y hệt như sự kiện đã xẩy ra với các vị
tử đạo. Các ngài sẵn lòng chết và được
hưởng quyền tự do tối thượng vì tự hiến, nhờ các ngài biết rõ cuộc sống đời đời
giá trị đến như thế nào.
Chết Giống Như Một Biến Cố Trong
Cuộc Sống Hằng Ngày.
Chúng ta có thể hiểu biết nhiều về sự chết, nếu chúng ta lấy khó khăn
trong cuộc đời để nhìn thẳng vào kinh nghiệm sống của mình. Sự chết gần gũi với chúng ta hơn chúng ta
tưởng tượng rất nhiều, và ai trong chúng ta cũng đều có thể nói tới những kinh
nghiệm về sự chết của mình với cảm giác không sợ hãi. Tôi phải nói gì về cái chủ
đề chẳng mới mà cũng chẳng của riêng tôi này:
may ra thì khá hơn nội dung những
gì tôi đã nói, được vay mượn từ nhiều người khác.
Trước hết, sự chết từ một
quan điểm thực tế, nghĩa là từ bỏ cái tự nhận thức, để tiến vào tình trạng quên
lãng chính mình. Đó là điều mà nhiều
người sợ không dám làm. Dẫu sao thì mọi người đều phải đi ngủ vào mỗi buổi
chiều tối; chúng ta tự quên mình trong giấc ngủ, và chắc chắn lúc ấy chúng ta không
còn sợ hãi gì nữa. Tại sao? Bởi vì chúng ta cảm thấy chắc chắn - đến một
mức độ không sao giải thích được - rằng
chúng ta sẽ không thức dậy vào sáng ngày hôm sau. Nhưng, buổi sáng hôm sau vẫn hiện ra với
chúng ta, chứng tỏ giấc ngủ chỉ là kinh nghiệm nhứt thời về sự chết. Liệu chúng ta có thể coi đây như một dụ ngôn mô
tả tiến trình việc chúng ta chết và thức dậy trong cõi đời đời? Vì trong thực tế, có một nguy cơ lớn trong
việc nhắm mắt ngủ. Không nơi nào đáng sợ
hơn chiếc giường, như đã được ghi trong câu chuyện chàng thủy thủ và người nông
dân đang suy nghĩ về các hiểm nguy trong những điều kiện sống của riêng họ. Người
nông dân qủa quyết rằng anh sẽ không bao giờ gặp tai họa nếu được sống trên biển
cả: ’’-
Chẳng có gì đáng nguy hiểm’’. Khi chàng thủy thủy hỏi tại sao anh nghĩ như
vậy, thì người nông dân hỏi lại: ’’Cha anh chết ở đâu?’’- Ở biển.’’ - ’'Và ông
của anh thì sao?’’ - ''Cũng ở biển.’’ -’’Và anh vẫn không thể nhận thấy đi biển nguy
hiểm đến thế nào sao?'' Nhưng chàng
thủy thủ hỏi ngược lại: ’’Và cha của anh chết ở đâu?’’- ’'Ông chết ở trên
chiếc giường ngủ của ông.’’’’Và cha anh thì sao?’’- ’'Cũng ở trên giường ngủ của
ông.’’ -’’Và như vậy anh có dám lên giường ngủ mỗi tối không?’’ Với quan niệm qua
cuộc đàm đạo nêu trên, chúng ta cảm thấy thực sự phải đứng trước cái chết vào mỗi
buổi tối. Và khi loại chết tạm thời này
không đến với chúng ta cách êm đềm, thì buộc lòng chúng ta phải dùng tới những
viên thuốc ngủ hoặc các mũ để ngủ ban đêm. Kỳ lạ ở chỗ là chúng ta quên rút tỉa những kết
qủa từ các điều đơn giản nhất trong cuộc đời.
Một cách khác liên quan tới
kinh nghiệm về sự chết cũng rất quen thuộc với mỗi người chúng ta. Trong cuốn
sách mang tựa đề ’’The Last Tings - Những
Thứ Cuối Cùng’’ của Romano Guardini, nêu lên dăm bảy cách chết trong suốt
tiến trình cuộc sống. Ví dụ, chúng ta đi
từ sơ sinh sang tuổi ấu thơ, rồi từ niên thiếu sang tuổi thanh xuân, đoạn từ
trưởng thành đến tuổi già, chúng ta tưởng rằng mình đã phát triển từ thời kỳ này
sang giai đoạn khác. Nhưng nếu chúng ta
phải phát triển thì một số những gì chúng ta có trước kia phải chết đi, tức là
bộ phận mới thay thế bộ phận cũ. Đối với
một thiếu niên hoặc một người trưởng thành mà duy trì những đặc tính ấu thơ của
mình thì sẽ trở nên giống hay ngang hàng với trẻ thơ. Để có được tuổi trưởng thành, tức là ở vào
thời kỳ phát triển kế tiếp, chúng ta phải chấp nhận một cái gì đó trong chúng
ta chết đi. Và sự chết đi này có thể là
một tiến trình nhức nhối và khó khăn. Khó khăn này không khác gì thân thể chúng ta
đang trong tình trạng thực sự chết. Nhiều
cha mẹ biết rất rõ vấn đề này. Họ
mong ước con mình mãi là một cậu bé và họ thực sự âu lo khi nhìn thấy người
thiếu niên biến thể thành một chàng thanh niên. Tiến trình sự chết liên tục từ thời gian này
sang thời gian kế tiếp diễn ra trong cuộc sống chúng ta: trái ngược với những
loại cha mẹ nêu trên chúng ta phải hiểu rõ và tích cực tham gia vào tình trạng
biến thể ấy. Nhờ thế chúng ta sẽ coi như
chết như một mất mát không thể tránh được. Hoặc nói cách khác là chúng ta phải
coi đó như một sự tiến hóa tất nhiên để có một cuộc sống trưởng thành và hoàn
chỉnh hơn.
Chết Cho Chính Mình.
Đức Kitô kêu gọi chúng ta chết cho chính bản thân mình. Như thế nghĩa là gì? Cụm từ này được kể là khó hiểu, giống như tất
cả những suy tư về sự chết. Phải chăng có nghĩa là tự hủy diệt? Nhiều người nghĩ như vậy và cố tình áp dụng đúng
ý nghĩa ấy. May mắn thay, họ thất bại,
nhưng để lại thương tích vì kinh hãi. Một
cách chính xác phải hiểu, chết cho chính mình có nghĩa làchấp nhận tiến trình
sự chết của những gì trong chúng ta, cho đến khi đạt tới điểm mà chúng chúng ta
nhận ra rằng một cái gì đó trong chúng ta thực sự thuộc về cõi đời đời, và một bản
thể tự ngã sẽ bị giải thể. Chúng ta phải đi ra khỏi cái bản thể tự ngã để có
thể sống cách hoàn bị.
Nhiều người cảm thấy không thể nhận ra sự
hiện hữu của mình, mãi đến khi họ nhận ra chính mình, rồi đòi người khác
phải thừa nhận mình, bằng các hành động diễn tiến cụ thể trong cuộc sống hằng
ngày và cố gắng bảo vệ ý tưởng ấy. Chúng ta có thể không thừa nhận chính mình, cũng không gây
ảnh hưởng cho người khác, hầu họ phải thừa nhận rằng mình hiện hữu, và chỉ khi
nào chúng ta có thể tin chắc chắn – qua kinh nghiệm – mình được yêu mến và được
người khác xác nhận chúng ta. Chúng ta
phải học tập để trở nên thật sự hiểu biết hơn con người hiện tại của mình. Thiên Chúa yêu thương và thừa nhận chúng ta. Chúng
ta cần được người thân cận, ít nhất là một người, xác nhận và nói với chúng
ta: ’’Bạn
là người quan trọng đối với tôi.’’ Gabriel Marcel nhấn mạnh tới một trong
số những cuốn sách của ông rằng, để có thể nói với một người ’'tôi yêu mến bạn’’ tương đương với câu ’’bạn không bao giờ chết’’, nghĩa là ’’bạn là người vô cùng quan trọng đối với
tôi, đến nỗi tôi sẽ thừa nhận bạn trước mặt Chúa, ngay cả không ai thừa nhận
bạn – nhưng chắc chắn có Chúa và tôi.’’ Chúng
ta có thể làm được một việc thật sự tốt, nếu chúng ta sẵn sàng thừa nhận lẫn
nhau, mặc dù đó chỉ là tạm thời, khi nói: ’’Vâng,
tôi sẵn sàng thừa nhận bạn, nhưng tôi không biết phải làm cách nào để cho phải
lẽ, bởi vì sự hiện hữu của bạn cho đến nay là một thách thức, và như một cuộc
xâm lăng, nên tôi cảm thấy sợ, tuy nhiên tôi sẽ chấp nhận bạn theo khả năng của
tôi.’’ Bằng cách ấy, chúng ta sẽ trở
nên lớn mạnh để có thể chấp nhận người khác, và tuyên xưng giá trị tuyệt đối
của họ bằng bất cứ giá nào. Người được
chấp nhận dưới hình thức ấy có thể tự quên mình và quên cuộc sống. Đó là cách mà chúng ta được mời gọi tiến bước
trên cõi đời.
Chúng ta phải can đảm trong
việc đấu tranh để vượt qua các lớp sợ hãi, hầu sẵn sàng chấp nhận nhau - chiến
đấu để khắc phục âu lo. Ở mỗi bước,
chúng ta đều phải từ bỏ chính mình để cho người khác có thể là. Như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói về chính
mình phải lu mờ đi, hầu Ngôi Lời có thể nổi bật lên (Gioan 3,30), như thế
có nghĩa là chúng ta được mời gọi để tự hủy diệt mình dần dần, hầu người thân
cận và những người khác sống. Tự hủy
diệt tức là chết, và có nghĩa là không giữ lại bất cứ thứ gì cho mình, ngoại
trừ chiếm đoạt sự trọn lành trong cuộc sống - mới là quan trọng.
Sự Chết Như Kẻ Thù Địch và Bạn
Hữu.
Tuy nhiên, mọi việc không qúa đơn giản.
Đó là sự thật, khi thánh Phaolô nói, sống
là Đức Kitô và chết là được. Thực ra, chết không phải là loại bỏ cuộc sống
trần tục, nhưng là mặc lấy cõi đời đời.
Một điểm nhấn mạnh hơn nữa của thánh Phaolô, cũng như phần còn lại trong
Kinh Thánh. Con người được tạo dựng không phải là để chết; con người được kêu
gọi để vào cõi sống đời đời; chết là kết qủa của tội lỗi, theo suy nghĩ chung
là xa lìa Chúa và chia cắt sự liên hệ với tha nhân, làm mất sự tương quan đích
thực và mật thiết với chính mình. Từ
quan điểm đó chứng tỏ, chết là kẻ thù cuối cùng, cần phải tiêu diệt (1 Côrintô
15,26). Chết là kẻ thù, còn Thiên
Chúa thuộc về chúng ta. Thực vậy, sự
chết là địch thù của Thiên Chúa theo cách thế rõ ràng và gớm ghiếc nhất, vì
nó trải dài ngay cả tới chính Đức Kitô. Nhưng, trong khi, sự chết, một mặt là
kẻ thù như vậy, thực tế, nó đuổi theo tới Đức Kitô, tức là nó giết chết
Người, là Đấng vẹn toàn và chính là Thiên Chúa nhập thế, chứng tỏ nó mang đầy
ác ý và nọc độc. Tuy nhiên, tội lỗi hoặc
sự dữ gây nên sự chết, nhưng riêng tội lỗi hay sự dữ không thể đụng chạm được
vào tất cả mọi người. Đức Kitô không bị
nhơ nhuốc, mặc dù chết trên thập giá. Người không mang di truyền của nòi giống
đáng sa hỏa ngục, nhưng Người dự phần vào thảm trạng của sự chết. Cá nhân Người không bị hoen ố vì liên kết với
mầu nhiệm sự chết.
Thật là một điều khó
hiểu. Một mặt, chết không tồn tại; chết
là kết qủa của sự dữ và sẽ bị tiêu diệt.
Một mặt, chết cho phép chúng ta phá vỡ cái vòng xấu xa vô tận; (vô tận
là cái một cái gì khác biệt với cõi đời đời). Nếu không có sự chết trong một thế
giới của sự dữ, tội lỗi và đồi bại, thì dần dần chúng ta sẽ bị suy tàn và tan
rữa, mà không bao giờ thoát ra khỏi cảnh kinh hoàng vì bị tiêu hủy lần lần như
vậy.
Nước Nga có câu chuyện ngụ ngôn rằng, một người lính lo thu gom cái chết
và để vào một cái bao. Chàng đeo cái bao
trên lưng cách an toàn, và trước nhất, tự coi mình là một ân nhân có công cứu
mạng người thoát khỏi tình trạng hiểm họa nhất.
Nhưng rõ ràng là trong khi cái chết đã được đem cất dấu đi, bệnh tật và
tuổi già vẫn còn nhiều như thuở trước. Và vào một ngày, anh lính gặp một bà cụ
già bệnh hoạn, lưng còng vì tuổi tác, bà nắm bàn tay lại chỉ về phía anh lính và
la lên: ’’Coi, anh làm gì thế kia, anh là tên ác, chẳng tốt lành gì. Anh thu góp cái chết, nhưng anh lại tước đoạt
sự tự do của tôi. Đây này, tôi là một tù
nhân vô tận, bộ phận của một tiến trình không hồi phân giải.’’ Anh lính hiểu rõ việc tai hại anh đã làm nên
cởi bao, bỏ cái chết đi. Tôi thật sự muốn thêm rằng, con người cần được giải
phóng cái chết và sống tự do.
Chết Thể Lý và Chết Tinh Thần
Nửa đêm lễ Phục Sinh và trong suốt bốn mươi ngày kế tiếp chúng ta hát
rằng, Đức Kitô đã sống lại, nghĩa là sự
chết đã bị sự chết phá hủy. Tuy nhiên, chúng ta thấy gì? Cái chết đã được giải
phóng và tự do, nhưng con người vẫn chết như thuở trước. Dường như chúng ta đang khẳng định một cái gì
đó mà chúng ta biết là không đúng với sự thật.
Nhưng, chúng ta cần nhớ rằng
có hai phương diện hoặc hai cái chết. Có cái chết về thể lý, nhưng cũng có cái
chết, được hiểu là xa rời Thiên Chúa, như tự dìm mình xuống âm phủ - Sheol – nơi không có Thiên Chúa, nơi
thiếu bóng dáng và gương mặt của Người. Phương diện thứ hai về sự chết, chắc chắn ghê
sợ và rùng rợn hơn nhiều. Qua các tượng ảnh, chúng ta thấy Đức Giêsu tỏ ra đau
khổ khi nhìn thấy hỏa ngục hoặc qua cách trình bầy trong Kinh Tin Kính của các
Tông Đồ, chúng ta phải đối đầu với một thực trạng không thể ngờ vực được nữa. Đức Giêsu không chỉ có kinh nghiệm về cái chết
liên quan tới phương diện thứ nhất, mà cả phương diện thứ hai. Người chấp
nhận chia sẻ với chúng ta trong mọi hậu qủa của sự dữ - bao gồm sự cách biệt
Chúa Cha vào giờ sau hết. (’’Lạy Cha, lạy
Cha, sao Cha bỏ con?’’) Nhưng, dường như Người đi xuống nơi tất cả nhưng kẻ
đã mất Thiên Chúa, và đem họ lên với Thiên Chúa trong tình trạng hoàn toàn
thánh thiện. Bởi thế, không còn chỗ nào là không có Thiên Chúa. Sự kiện ấy cho phép chúng ta hiểu tình trạng
của mình, kể từ sau cái chết và sống lại của Đức Kitô. Chúng ta còn phải trải
qua một cái chết tạm thời, cái chết mà thánh Phaolô mô tả như một người đang ’’buồn’’ ngủ (1 Côrintô 15,6). Như thế, không còn cái chết nào làm con người
phải sợ hãi, tiêu tan và xa cách Thiên Chúa nữa. Trong ý nghĩa ấy, chết chính là cái chết đã
bị cái chết phá hủy. Do đó, hiện nay – chúng ta đang và sẽ là những kẻ thừa
tự sự sống đời đời.
Đối Mặt Với Sự Chết
Có một lần tôi được mời đến
nói chuyện về sự chết ở một Đại Học tại Anh quốc. Sau đó, một vị tuyên úy
nói với tôi, ’’anh biết không, tôi chưa từng
thấy một người chết bao giờ.’’ Tôi
vô cùng ngạc nhiên, vì một linh mục, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi, mà
chưa từng thấy sự chết diễn ra trong chính gia đình mình, hoặc trong đơn vị
mình làm tuyên úy – kể cả trong thời chiến.
Tình huống đó khiến tôi quan tâm nhiều tới các địa giới lân cận và tôi
có cảm nhận mãnh liệt rằng, sự chết là một vấn đề đa số đều muốn tránh né,
không thích nhắc đến. Người chết được giao phó cho người lo việc chôn cất, còn người còn sống thì lẩn trốn
trách nhiệm, ít ai tìm cách tạo sự việc tiến tới khả quan hơn.Tôi cảm thấy khá
nhức nhối trước các diễn biến như vậy.
Từ buổi nói chuyện ấy, tôi tạo nhiều dịp để đề cập tới cách chuẩn bị, tức là dọn mình, cho người chết, với các
sinh viên y khoa, bác sĩ, y tá và bất cứ ai có thiện ý muốn nghe. Và cuối cùng, tôi khám phá ra rằng, tất cả
mọi người đều thực sự sẵn sàng nghĩ tới việc chuẩn bị cái chết cho những kẻ
khác. Tuy nhiên, rất ít người suy nghĩ
là số phận của mình rồi cũng sẽ tới, để rồi thực sự chuẩn bị và định hình về cái
chết của bản thân mình, đặt ra một nguyên tắc, và học hiểu cách sống sao
cho thật hạnh phúc, hầu khi chết cũng tốt đẹp – không chỉ theo từ ngữ luân lý,
hay khéo hơn là theo con đường chính trực.
Tuy nhiên, tất cả mọi người chúng ta đều mắc bệnh, một căn bệnh cuối
cùng, tức là căn bệnh mang tính phải chết.
Trước khi chết, sự kiện ấy kéo dài, có thể là ba mươi, sáu mươi năm hoặc
lâu hơn. Không ai tránh khỏi căn bệnh ấy, trước khi sự chết thật sự đến. Việc chuẩn bị cho sự chết không chỉ đơn thuần
liên hệ tới người khác hoặc nhiều người khác, nhưng chính là liên hệ tới bản
thân mình - gọi chung là các bộ phận phải ưu tư liên tục.
Giải Phóng Khỏi Thế Lực Của Sự
Chết
Vậy chúng ta phải chuẩn bị ’’dọn
mình’’ như thế nào? Từ một quan điểm, sự chết có thế lực trên chúng ta. Chúng ta được sinh ra và chúng ta sẽ phải
chết. Đó là điều rất đơn giản. Nhưng có một khía cạnh khác liên quan tới sự
chết khiến chúng ta phải chú ý kiểm tra liên tục.
Mấy năm về trước, một giáo dân
trong giáo xứ của tôi ngã bệnh. Anh được chở đi nhà thương; người ta khám phá
ra anh mắc chứng bệnh ung thư ở trạng thái vô phương cứu chữa và sẽ phải
chết. Lúc ban đầu, không ai nói cho anh
biết điều ấy. Nhưng gia đình anh biết, và tôi cũng biết. Khi tôi đến
gặp anh, phản ứng đầu tiên (thường là như vậy) của anh là phản đối và kháng
cự. ’’Tôi
còn rất nhiều việc phải làm, mà giờ đây tôi phải nằm trên giường này, chẳng làm
được một việc gì. Thời gian kéo dài bao
lâu nữa đây?’’ Tôi nhắc anh nhớ lại mấy điều anh thường nói: ’’Giả
như chỉ một mình tôi có thể bắt thời gian dừng lại, tôi sẽ làm ngay.’’ Tôi
cũng nhắc lại cho anh nhớ, như trước kia, là anh không bao giờ có thể làm được
việc đó. Và, bây giờ Chúa đã làm giúp anh. Vì thế, anh không còn lý do gì phải
phàn nàn, hoặc cảm thấy mình lầm lỗi.
Tất cả mọi thứ ngoài quyền hạn của anh đã hoàn toàn thay đổi. Tuy nhiên, anh còn nằm đây, trong khi thời
gian vẫn chuyển động bên cạnh anh.
Anh đang ở trong thể tĩnh với điều kiện hiện tại. Bây giờ, anh có thể hoàn toàn sống phần cuối
đời trong tự do, tròn đầy và hoàn hảo, tùy ý anh chọn lựa.
Khi tôi hỏi anh là anh có
cảm thấy bằng lòng với điều kiện hiện tại này không thì anh trả lời: ’’Tình
trạng náo động vẫn xoay vần trong tôi.
Tôi không thể làm được gì, nhưng tôi trải nghiệm các chuyển động bằng
thái độ tôn trọng tất cả mọi sự.’’ Tôi giải thích cho anh hiểu, bệnh tật luôn đối
đầu với chúng ta, cái mà vào giờ phút cuối cùng, rõ ràng nhất là sự chết. Trong
sự chết có hai phạm vi hoặc hoặc hai thế lực hoạt động. Một thế lực ngoại vi, đó là: vi trùng, vi khuẩn, ung thư hay bất cứ thứ gì
tìm cách hủy diệt cơ thể. Thế lực khác gồm tất cả các hành vi tiêu cực và những
cảm súc hút đi sức sống nội tại như: oán giận, cay đắng, ân hận, hối tiếc,
thiếu bình an. Tôi khuyên anh tập trung
vào thế lực sự chết đang nằm ngay trong anh, và hãy để cho các bác sĩ săn sóc
phần còn lại.
Sau đó chúng tôi bước qua
một tiến trình lâu dài (trên nhiều tháng). Trong thời gián ấy, từ ngày này sang
ngày khác, anh lượng giá thái độ của mình đối với những nguời sống gần gũi anh. Anh có thời gian làm công việc đó; hơn nữa,
anh có thể làm việc đó với tâm tình đúng đắn, coi tất cả mọi sự việc đã xẩy ra
như là những dữ kiện hiện hữu, không từ một quan điểm thực dụng, nhưng từ một
góc độ tuyệt đối. Trong suốt tiến trình, anh đã tạo được hòa thuận với tất cả
mọi người sống chung quanh mình.
Tiếp theo, chúng ta trở lại
qúa khứ của anh, từ việc này sang việc khác, tìm hiểu cảm nhận về vấn đề lỗi
lầm của anh, để lượng định việc nào anh đã hoàn tất và việc nào anh còn bỏ dở,
việc nào những người khác đã làm hoặc chưa xong. Dần dần tất cả mọi lãnh vực đều được đưa ra
ánh sáng. Phải có can đảm lắm mới làm
được việc này. Bởi vì việc nhìn vào
chính cuộc sống của mình, từ giây phút ổn định trong hiện tại và cũng là điểm
Chúa bắt đầu phán xét anh.
Cuối cùng, anh đã tới được
điểm mà anh gần như nhận ra mình qúa yếu nhược đến nỗi không còn đủ khả năng
dùng hai bàn tay đem thức ăn để vào miệng nữa mình nữa. Tuy nhiên, anh nói với tôi: ’’Lạ
lùng thay! Tôi là người đang chờ chết.
Tôi chẳng còn lại một chút sức lực nào. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ cảm thấy trong mình
có một sức sống mãnh liệt như hiện nay.’’ Anh đã tìm thấy chính anh đang ở
điểm hoàn toàn thăng bằng và vững chắc trong tự do và độc lập, không còn lo ngại trước bất cứ điều gì có thể xẩy ra cho cơ thể anh.
Chỉ khi nào chúng ta cảm
thấy mình là người được tự do đối với tất cả mọi mầm mống của sự chết vẫn đang
ám ảnh trong mình, lúc đó chúng ta mới đạt tới điểm mà chúng ta có thể nhận biết
rằng mình là những con người bất tử, mặc dù cơ thể chúng ta đã chết.
Chưa Qúa Muộn
Khi chúng ta hồi tưởng lại
qúa khứ của mình như anh bạn nêu trên đã làm, thỉnh thoảng chúng ta nhớ đến một
người nào đó mà chúng ta đã gây thiệt hại cho họ, vật chất hoặc tinh thần,
nhưng hiện nay người ấy đã chết từ lâu rồi, hoặc không còn cơ hội gặp mặt nữa,
và dường như không còn cách nào để có thể sắp xếp sự việc cách ổn thỏa theo dự
kiến của mình được. Tôi xin nêu lên một
thí dụ. Tôi gặp một người đàn ông khoảng
tám mươi tuổi, và cách nay sáu mươi năm về trước, ông còn là một viên sĩ quan
trẻ trong quân đội Chiến Tranh Dân Sự Nga Sô, chẳng may ông bắn chết cô gái mà
anh yêu thương, lúc đó đang là một y tá trong đơn vị ông. Suốt cuộc đời còn lại, ông không bao giờ tìm
được sự bình an. Ông nói với tôi rằng
ông vô cùng ân hận, ông đã xưng tội và nhận được ơn tha tội, nhưng tâm tư ông
không cảm thấy khác biệt: không gì có thể giải thoát ông khỏi cảm giác tội
lỗi. Đoạn tôi nói với ông, ’’Thế thì tại sao ông lại nhờ cậy vào Thiên
Chúa, vào Đức Kitô, vào một linh mục để được ơn tha thứ? Những người này có là nạn nhân của ông
đâu? Ông hãy nhờ cậy vào người mà ông đã
giết, đó là cô gái.’’ Ông nhìn tôi
một cách rất ngạc nhiên và hỏi:’’ Nghĩa là
làm sao, tôi phải nhờ cậy vào cô gái ư? Tôi giết cố ấy cách nay sáu mươi năm rồi
mà.’’ Tôi trả lời, ’’Thực sự ông đã giết
cô gái ấy, vì lẽ đó, trong buổi cầu nguyện tối nay, ông hãy hướng lòng về cô ấy
và nói, cách nay đã sáu mươi năm, nhưng tôi vẫn còn mang theo trong mình
tội lỗi và cảm thấy hổ thẹn về việc tôi đã làm cho cô. Là nạn nhân, nên chỉ cô mới là người có quyền
tha thứ cho tôi. Vậy cô hãy tha thứ cho
tôi, đồng thời xin Chúa ban cho tôi ơn tha tội để tôi được sự bình an trong tâm
hồn.’’ Ông ấy làm như tôi đề nghị và
thực sự ông đã được an tâm.
Nhiều vấn đề xẩy ra trong
qúa khứ khiến chúng ta giải quyết không được, chỉ vì chúng ta rẽ qua hướng sai
lệch. Vì Thiên Chúa không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống (Mátthêu 22,33), nên tất cả những ai đã
giã biệt cõi đời này sẽ được sống trong Người; về phần chúng ta, chúng ta có
thể hướng về họ, những người mà chúng ta lỗi phạm tới họ, và xin chuyển cầu lên
Chúa để được ơn tha thứ. Phần đông những
người đã bị mất đi người mà họ yêu thương đều nghĩ rằng họ không yêu thương
người ấy cách hoàn bị lúc người ấy còn sống, như lòng họ mong ước; họ phải chịu
ơn người ấy theo nghĩa yêu thương, nhưng bây giờ thì qúa trễ rồi, chẳng làm được
gì nữa. Đó là một lỗi lầm mà đáng lẽ
chúng ta không bao giờ được phép làm.
Không bao giờ được kể là qúa trễ nếu chúng ta thực sự tin rằng Thiên
Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Chúng ta
không bao giờ nên nói rằng chúng ta chỉ yêu nhau trong thời qúa khứ. Cơ thể chết không làm tan vỡ mối tương quan
đã có, nhưng luôn gắn bó giữa những người đã gặp gỡ và yêu thương nhau trên mặt
đất.
Những Hạt Giống Chúng Ta Gieo
Chết không phải là hết. Việc tốt
lành chúng ta đã làm tiếp tục diễn ra sau chúng ta và sinh hoa trái trong cuộc
sống của những người khác. Chẳng may, hệ
qủa tất yếu cũng là đúng, nếu chúng ta để lại một di sản sự ác.
Về mặt tích cực, có thể nghĩ
tới ảnh hưởng của Kinh Thánh. Từ xưa tới
nay, đã có vô số người được ơn trở lại hoặc thay đổi nhờ chỉ đọc một đoạn ngắn
Kinh Thánh. Điều mà họ đạt được từ một
nhân vật, đã từ nhiều thế kỷ trước, bầy tỏ và viết thành sách, chỉ vì muốn tạo
lợi ích cho Đức Kitô. Niềm tin của tôi
thực sự chịu ảnh hưởng rất sâu đậm bởi Tin Mừng do thánh Máccô viết. Nếu tôi làm được điều gì tốt trong đời sống, là
nhờ mỗi ngày, kể từ khi còn rất trẻ, đều đọc và suy niệm một đoạn Phúc Âm của
thánh Máccô, và chính vì thế Đức Kitô đã tỏ mình ra và đi vào cuộc sống của tôi.
Trái lại, tôi cũng nghĩ tới
những người khác đã từng viết nhiều sách, chẳng hạn như nhà văn Pháp thế kỷ
XIX, Arthur de Gobineau. Gobineau viết
một số truyện ngắn đáng chú ý, trong đó gồm một khái luận hơi buồn khổ về sự
bất bình đẳng chủng tộc. Đó là một khái
luận mà hiện nay đã hoàn toàn và đáng bị quên lãng, ngoại trừ một điều được
Hitler xử dụng đọc lên. Điều thật sự khó
mà nghĩ rằng Gobineau lại có thể tỏ ra vô trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa đến
nỗi đã viết thành cuốn sách với nội dung như vậy. Ông là một lý thuyết gia. Nhưng lý thuyết đã biến thành thực trạng, và
làm thiệt mạng hàng triệu người dân vô tội.
Liên quan tới vấn đề này, tôi nhớ tới một chuyện ngụ ngôn của Ivan
Andreyevich Krylov. Hai cá nhân bị kết
án đầy xuống hỏa ngục và được đặt trong những cái vạc gần nhau. Một người phạm tội sát nhân, còn người khác
đơn thuần chỉ vì viết một số truyện ngắn vô giá trị. Tác giả đưa một cái nhìn
nhanh qua mép vại của mình xem tên sát nhân đang ăn uống ra sao. Bản thân ông đang bị nấu sôi cách vô cùng tàn
nhẫn, đến nỗi ông không thể mường tượng được người bên cạnh ông được đối xử ra
sao. Trong cơn phẫn nộ, ông nhìn thấy kẻ
sát nhân đang ngâm mình trong nước nước ấm.
Ông kêu đám ma qủi đang thi hành công vụ lại và bầy tỏ nỗi bất mãn của
mình: ’’Tôi đơn thuần chỉ viết một số
truyện ngắn, và các bạn cho tôi vào vại nước sôi kinh khủng như vậy, trong khi
tên kia phạm tội giết người lại được thư giãn trong tư thế tắm rửa thoải mái.’’
Đám ma qủi nói: ’’Đúng, đó không phải là tai họa, nhưng là sự việc có toan tính.’’ ’’Sao
vậy?’’ Đám ma qủi nói: ’’Phải, tên này đã giết người trong một cơn
giận dữ, nên mỗi khi thịnh nộ của hắn vùng dậy thì chúng tôi đun sôi hắn cách
thật dữ dằn, sau đó lại cho hắn nghỉ ngơi bồi dưỡng. Còn đối với ông, mỗi khi có người mua cuốn
sách của ông thì chúng tôi lại đổ thêm nhiên liệu và cho lửa ở dưới cái vạc
bùng cháy.’’
Ở đây có một điểm mang nội
dung thần học. Cuộc sống của chúng ta
không kết liễu thuận lợi bằng cái chết ngay ở trên trái đất này, nhưng kéo dài
hằng nhiều thế kỷ, thông qua di truyền và các sản vật chứng minh sự tồn vong của
con người; đồng thời chúng ta vẫn có một trách nhiệm về những gì để lại, do
các việc mình đã làm. Vì thế, những người chúng ta đã gặp hôm nay; những gì
tôi và bạn đã thấy; những gì tôi và bạn nói, chúng ta đều có trách nhiệm với
nhau, nhất là về những gì bạn sẽ nhận được từ nơi tôi và lối sống nào ảnh hưởng
tới cuộc đời của bạn và tôi./.