Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

Giáo Hoàng XXIII Là Ai Mà Nay Được Phong Thánh?

Giáo Hoàng XXIII Là Ai Mà Nay Được Phong Thánh?

Công Trường Thánh Phêrô Trước Giờ Cử Hành Đại Lễ Phong Thánh
Cho Giáo Hoàng Gioan XXIII Và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Khi Angelo Roncalli được chọn làm giáo hoàng vào năm 1958, lúc 77 tuổi, khiến mọi người ngạc nhiên.  Người triệu tập công đồng Vatican 2, và từ đó Giáo Hội thêm tăng triển, đồng thời thế giới trở nên hiện đại hóa. Nhờ hấp lực của Người mà Giáo Hội công giáo đã được biết đến nhiều hơn.

Giáo hoàng Gioan XXIII, mà người ta ta thường gọi là ’’giáo hoàng tốt lành’’, được tôn phong á thánh vào năm 2000.  Và nay cùng với giáo hoàng Gioan Phaolô II, được phong hiển thánh, qua một nghi thức vô cùng trọng thể tại công trường thánh Phêrô, ở Rôma.

Thuở Thanh Niên và Thiếu Thời
                   Angelo Giuseppe Roncalli sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881 tại một làng nhỏ gần Bergamo, thuộc miền Bắc nước Ý.  Người là con thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo, gồm 14 anh chị em, và chỉ một mình Người là được đi học.  Sau này, người thiếu nhi đạo hạnh và thông minh ấy được phép thoát khỏi cảnh lam lũ trên các cánh đồng, để theo học La ngữ do cha xứ chỉ dậy, rồi chẳng bao lâu sau, được thu nhận vào các lớp bậc trung học tại Bergamo.  Người bắt đầu môn thần học, trước tiên ở Bergamo, và sau này tại Rôma.

                 Sau khóa thi với kết qủa tốt, Người chịu chức linh mục vào năm 1904.  Đoạn Angelo trở về Bergamo phục vụ với tư cách là thư ký cho đức tân giám mục Radini-Tedeschi, nhân vật đã để lại cho Angelo nhiều ấn tượng trong suốt cuộc đời.  Cùng lúc, Người được bổ nhiệm làm giáo sư dậy môn lịch sử Giáo Hội tại chủng viện tại Bergamo.  Chẳng bao lâu sau, Người trở thành một nhà giảng thuyết nổi tiếng, thanh nhã và hấp dẫn.

                 Khi đệ nhất thế chiến I bùng nổ vào năm 1915 tại Ý, Người được bổ nhiệm làm sỹ quan và linh mục chiến trường, nhưng trở lại nhiệm sở tại Bergamo, sau khi chiến tranh kết thúc.

Sứ vụ Ngoại Giao Tòa Thánh

Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
                 Năm 1921, Angelo Roncalli được gọi về Rôma phục vụ trong tổ chức truyền bá đức tin công giáo – Propaganda Fide, đồng thời tiếp tục việc giảng dậy và viết lịch sử Giáo Hội.

                 Thời gian này Người có nhiều dịp tiếp xúc với giáo hoàng Piô Xi (1922-39), nên số phận đã đẩy đưa Người tới một tác vụ trong lãnh vực ngoại giao.  Người được tấn phong giám mục và trở thành sứ thần toà thánh tại Bảo-gia-lợi (Bulgaria) vào năm 1935, sau khi mà đây đã được phép thành lập những cộng đoàn công giáo, mở ra các cuộc đối thoại với chính thống giáo.

                 Tiếp đến, Người được bổ nhiệm làm sứ thần tòa thánh tại ThổNhĩKỳ, trụ sở đặt tại Istabul.  Tại đây, Người tận dụng khả năng và quyền hạn của một nhà ngoại giao để khai mở những buổi đối thoại với chính thống giáo, đặc biệt là với những đoàn thể hồi giáo ThổNhĩKỳ.

                 Thời gian HyLạp bị Đức quốc xã chiếm đóng, Roncalli được bổ nhiệm tới Athen, với tư cách là sứ thần toà thánh.  Nơi đây, Người đóng một vai trò lớn trong việc ngăn cản quân đội Nazi lùng bắt và trục xuất những người dân HyLạp gốc DoThái.  Theo người ta nói thì Người đã cấp phát chứng chỉ Rửa tội cho một số người Do Thái, hầu họ có thể sống yên ổn với nhãn hiệu Kitô hữu mà, mà không cần phải chịu phép Rửa tội. Ngoài ra, Người còn giúp nhiều người Do Thái trở về Palestine an toàn.

                 Trong khi đó, tại Rôma, giáo hoàng Piô XII ban hành lệnh bổ nhiệm Người làm sứ thần toà thánh, tức là chức vụ đại sứ tại Paris, một ngôi vị được kể là rất uy tín và quan trọng.

Tổng Giám Mục Venedig – Và Giáo Hoàng
                 Năm 1953, Angelo Roncalli được tấn phong tổng giám mục Venedig, đồng thời trở thành hồng y.  Tại Venedig, Người mau chóng trở thành nhân vật nòng cốt trong sứ vụ linh hướng và nổi danh nhờ đặc biệt quan tâm tới người nghèo.

                 Lúc này Người đã 72 tuổi và ước mong dùng quãng đời còn lại chuyên lo về mục vụ; nhưng số mệnh không như mình suy tưởng riêng.  Tháng 10 năm 1958, giáo hoàng Piô XII tạ thế.  Các hồng y rất hoang mang, không biết phải hoạch định đường hướng nào trong việc bầu tân giáo hoàng.

Giới hồng y cao niên bảo thủ, muốn tiếp tục chính sách của giáo hoàng Piô XII, trong khi nhóm hồng y trẻ tuổi hơn tỏ ra chán chường và thất vọng trước chủ nghĩa bao thủ đang diễn ra trong giáo hội.  Cuối cùng, phiếu bầu cử đã dồn cho Roncalli.  Cuộc bầu cử này được diễn giải là một cuộc bầu cử cho một ’’giáo hoàng chuyển tiếp’’, nghĩa là cuộc bầu cử lần kế cận sẽ chỉ định một nhân vật có tinh thần cấp tiến, hầu dẫn đưa Giáo Hội vào con đường canh cải hiện đại.

                 Roncalli chọn tên giáo hoàng là Gioan XXIII.  Vào đầu thập niên 1400 đã có một vị giáo hoàng lấy tên là Gioan XXIII, được tuyển chọn để trở thành một ’’giáo hoàng đối lập – antipope’’, nhưng đã bị công đồng Constance (Konstanz) năm 1414 truất phế. 

                 Roncalli đã tự chọn tên giáo hoàng Gioan XXIII với lời giải thích như sau:  ’’Đó là một tên đã được nhiều đời giáo hoàng thuộc Giáo Hội Rôma xử dụng, mà hầu hết các Đấng đều chỉ ở ngôi vị giáo hoàng trong một thời gian ngắn mà thôi’’.

Công Đồng Vatican II
                 Gioan XXIII gây ngạc nhiên khi triệu tập một đại nghị hội, Công Đồng Vatican II, với chỉ một điểm duy nhất trong chương trình nghị sự, được kể là có thể giúp Giáo Hội ’’theo kịp thời đại – aggiornamento’’ và những thách thức trên toàn cầu.

                 Tuy nhiên, một số ủy ban đã mau chóng được thành lập để chuẩn bị đại hội như đã dự liệu – và vào tháng 10 năm 1962, Người đã khai mai đại hội với sự tham dự của khoảng 3.000 giám mục, cộng thêm các đại diện từ những tôn giáo không thuộc Giáo Hội công giáo.  Gioan XXIII muốn cải tiến Giáo Hội, và Người muốn đối thoại với các tôn giáo khác, để hướng tới sự hiệp nhất – và cuối cùng Người muốn đối thoại với chế độ cộng sản.

                 Gioan XXIII không đạt tới chung cục của Đại Hội.  Ngày 3 tháng 6 năm 1963, Người từ giã cõi đời, sau nhiều tháng bệnh hoạn. Mặc dù triều đại giáo hoàng của Người ngắn ngủi, nhưng Người đã đưa Giáo Hội công giáo bước vào một thời đại mới. Người có nhiều đặc tính riêng như đạo đức, lịch sự, nhân từ, khoan nhã, cũng như một kiến thức sâu rộng về ngôn ngữ và thiên khiếu thần học.

                 Năm 1966, một nữ tu thuộc miền Nam nước Ý mắc bệnh đau dạ dầy, sau khi xin sự chuyển cầu của đức cố giáo hoàng Gioan XXIII, đã được lành bệnh một cách lạ lùng.  Năm 2000, Gioan XXIII đã được đức giáo hoàng Gioan Phaolô II phong á thánh và nay Người được tôn phong lên bậc hiển thánh trong Giáo Hội công giáo.

Kinh Thánh Gioan XXIII

Thân lạy thánh giáo hoàng Gioan –
nhân cách bình dị và khiêm tốn của Ngài tỏa sáng –
thúc đẩy chúng con ước muốn trở nên những cá nhân tốt lành –
Ngài thường nói tới vẻ đẹp của một gia đình -
tụ họp quanh bàn ăn - để chia sẻ thực phẩm và đức tin –
Xin cầu cùng Chúa cho chúng con - nhờ đó – chúng con trở nên
những gia đình đích thực trong căn nhà chúng con đang cư ngụ -
Với bàn tay quảng đại – Ngài gieo niềm hy vong –
và dạy bảo chúng con - lắng tai nghe từng bước đi của Chúa –
chuẩn bị cho một nhân loại mới: -
xin giúp chúng con sở hữu vẻ lạc quan lành mạnh –
để vượt thắng ác thần - bằng những hành động tốt lành.
Ngài yêu mến ánh sáng – cũng như bóng tối trong thế gian –
và Ngài tin rằng – hòa bình là điều có thể: Xin giúp chúng con -
trở nên khí cụ bình an - từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.-
Ngài kêu gọi chúng con - với tấm lòng thương xót của người cha –
hãy nâng niu từng trẻ thơ: - Các cuộc viễn du của Ngài trên trần thế -
cốt ý dạy chúng con hiểu rằng – bàn tay không phải là -
vật dụng để hành hung – nhưng là để vuốt ve –
ôm ấp và lau khô những giọt nước mắt –
Xin Ngài cầu cùng Chúa cho chúng con - hầu chúng con không chỉ ngồi
than van trong bóng tối – nhưng thắp ngọn nến sáng –
đem Đức Kitô đến khắp mọi nơi - nhờ lời chuyển cầu
không ngừng của Đức Maria – Amen./  

                                                                                                                                Biên Soạn:  Giám Mục Angelo Comastri   

Thánh ''Giáo Hoàng Tốt Lành'' Gioan XXIII

Phong Thánh Cho 
Giáo Hoàng XXIII
Là Thổi Sinh Khí 
Tới Thị Xã Núi Nhỏ Bé

Thị xã núi Sotto il Monte, nơi giáo hòang Gioan XXIII chào đờisẽ trở thành địa điểm hành hương, sau lễ Người được 
phong thánh vào Chúa Nhật, 
27 tháng 4 năm 2014; 
nhưng vẫn chỉ là lối sống 
trầm tĩnh riêng.

Với sự tham dự của trên 800.000 tín hữu trong đại lễ phong thánh  
cho giáo hoàng Gioan XXIII và giáo hoàng Gioan Phaolô II,
tại Công Trường thánh Phêrô.


Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II 

                 Hôm nay (27-04-2014) có lẽ cũng là một ngày trọng đại đối với thị xã núi khiêm nhường Sotto il Monte, nơi Gioan XXIII sinh ra và lớn lên trong suốt 10 năm đầu đời.  Đã từ lâu, thị xã này cũng như các khu vực phụ cận, chỉ mong vào ngày phong thánh có thể đón tiếp tối đa từ 5 tới 6.000 khách hành hương, vì thật sự, đó là một con số to lớn, so với nhân dân thị xã chỉ khoảng 4.300 người.

                 Từ thời trung cổ, những địa danh gắn liền với cuộc sống và việc làm của các thánh, thường tạo được một đời sống kinh tế dồi dào, từ khách hành hương đem tới, do việc thuê phòng trọ, ăn uống và mua kỷ vật… Nhà sử học đặc trách về giáo hoàng, Ecbecca Rist, tại đại học Reading, Anh quốc, cho biết như vậy.

                 Nhà sử học kia nói:  ’’Ý kiến cho rằng kinh doanh thấp kém thì đời sống tôn giáo sẽ trở nên khiêm nhu’’ .  Người Việt Nam cũng có câu ngạn ngữ tương tự:  ’’Có thực mới vực được đạo’’

                 Những dấu chỉ điển hình cho thấy, Assisi là thị xã của thánh Phanxicô, Assisi thuộc vùng Umbrien, nước Ý, người dân sống nhờ kỹ nghệ du lịch.  Hoặc thị xã Wadowice tại BaLan, quê hương của Gioan Phaolô II, nơi thiết lập bảo tàng viện dành cho vị giáo hoàng này, hàng năm chắc chắn có khoảng 250.000 du khách tới thăm viếng.  Mỗi khách du lịch vào cửa bảo tàng viện phải trả 10 mỹ kim, như thế mỗi năm thu hoạch chừng 2,5 triệu mỹ kim.

                 Khác với Sotto il Monte, hoàn toàn không có một khách sạn; tất cả mọi địa điểm tham quan đều miễn phí.  Nơi được kể là hoành tráng nhất trong thị xã là một tấm bảng thật lớn đặt ở triền núi, viết tên Gioan XXIII, tương tự khuôn mẫu HOLLYWOOD.

                 Số tiền duy nhất thu góp được tại Sotto il Monte từ dịch vụ tham quan thị xã núi, dùng để chi trả cho nhân viên hướng dẫn du khách, bữa ăn trưa và bảo trì các công thự cổ kính; Gimmy Schiavi, người tổ chức các chuyến du ngoạn cho biết như thế.

                 Bộ mặt khiêm nhường của thị xã núi nhắc du khách nhớ tới Gioan XXIII, một nhân vật được biết đến qua tước hiệu ’’giáo hoàng tốt lành’’, bởi vì Người sống giản dị như tất cả những người dân bình thường khác.  Tuy nhiên, linh mục Claudio Dolcini tại Sotto il Monte hy vọng rằng, việc phong thánh cho Gioan XXIII, nhiều người tìm hiểu về vai trò của vị ’’giáo hoàng tốt lành’’ này.

                 Qua nhiều chuyến du hành mục vụ và đưa cặp mắt quan sát rộng rãi bên ngoài, giáo hoàng Gioan XXIII đã có thể đưa Giáo Hội tới điểm quyết định - một là phải canh tân hoặc tự chôn vùi giữa lòng thế giới hiện đại; linh mục Claudio Dolcini phát biểu với báo Guardian như vậy.

                 Thuốc cao sản xuất ở Sotto il Monte không phải là một kỹ nghệ sáng giá, tạo nhiều hấp lực.  Bộ mặt thị xã vẫn thế, khó có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, mặc dù Emmanuela và Mauro, cặp vợ chồng ở tuổi trung niên, đến từ Turino, rất thích địa danh này.  Họ ước mong Sotto il Monte biến thành khu vực kinh doanh sầm uất như Assisi.  Hiện nay, ’’cuộc sống ở đây giản dị quá’’ , đó là lời Emmanuela nói với nhà báo The Guardian.

Gioan Phaolô II - Vị Giáo Hoàng Có Khuynh Hướng Toàn Cầu, Nay Trở Thánh Một Đấng Thánh

Gioan Phaolô II - Vị Giáo Hoàng Có Khuynh Hướng Toàn Cầu,
Nay Trở Thánh Một Đấng Thánh



Kinh Thánh Gioan Phaolô II

Thân lạy thánh Gioan Phaolô –
từ cửa sổ Nước Trời – xin Ngài ban phép lành cho chúng con! –
xin Ngài ban phép lành cho Giáo Hội –
mà Ngài hằng yêu mến - phục vụ và can đảm dẫn dắt
trên bước đường trần gian - hầu đem Đức Giêsu đến với mọi người –
và mọi người đến với Đức Giêsu. – xin Ngài ban phép lành cho giới trẻ -
những người mà Ngài rất thương mến –
xin Ngài dạy họ biết tái mộng ước - hướng nhìn lên ánh sáng –
soi dẫn cuộc sống của họ tại trần thế này –
Xin Ngài ban phép lành cho các gia đình – xin Ngài ban phép lành
cho từng gia đình! - Ngài báo trước cho chúng con biết sức tấn công
của satan - hầu chúng con canh chừng các báu vật cần thiết tại Nước Trời –
mà Chúa đã gây dựng ở trần gian. - Lạy thánh Gioan Phaolô II –
nhờ lời cầu bầu của Ngài – xin gìn giữ các gia đình – và đời sống
mỗi cá nhân – đang triển nở trong từng gia đình.-
Xin Ngài cầu cùng Chúa cho toàn thể thế giới - vẫn sống trong
tình trạng căng thẳng - chiến tranh khắp trần gian – và bất công.
– Ngài đã chống lại chiến tranh – dưới hình thức kêu gọi đối thoại –
và gieo rắc tình yêu – xin Ngài cầu cùng Chúa cho chúng con -
để chúng con trở nên hạt giống ươm trồng
cây hòa bình – mà không cảm thấy mỏi mệt –
Lạy thánh Gioan Phaolô – xin Ngài ban cho chúng con phép lành từ
cửa sổ Nước Thiên Chúa – nơi chúng con thấy –
Ngài đang ngồi bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria – Amen./

                                                                                                  Biên Soạn:  Giám Mục Angelo Comastri    
 
Người là một trong số các giáo hoàng có thời gian trị vì 
lâu dài nhất lịch sử giáo hội công giáo, 
và Người được quần chúng biết đến
nhờ truyền thống bảo thủ, khôn ngoan, 
cũng như hướng tới toàn cầu.

                 Khi Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng vào ngày 16 tháng 10 năm 1978 và lấy tên là Gioan Phaolô 2, Người trở thành vị giáo hoàng không thuộc dòng giống người Ý kể từ năm 1523, đồng thời là vị giáo hoàng duy nhất thuộc khối Indo-European (những người dân nói thứ ngôn ngữ lai Á-Ấn-Âu, như Nga,BaLan, Tiệp…).  Người tạ thế vào năm 2005, và là một trong số các giáo hoàng có thời gian trị vì lâu dài nhất lịch sử giáo hội công giáo.
 
                 Ngay vào năm 2011 Người đã được phong Á thánh; và được tôn phong hiển thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014, tại Công Trường Thánh Phêrô, cùng với giáo hoàng Gioan XXIII, với sự hiện diện của hàng trăm ngàn tín hữu công giáo từ khắp nơi đến tham dự. 
 
Thuở Thanh Niên và Thiếu Thời
                 Karol Wojtyla sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại làng Wadowice, cách Krakow 50 kilômét về hướng nam.  Thân phụ Người là một viên chức trẻ phục vụ trong quân đội Áo, thời Đệ Nhất Thế Chiến, và sau khi chiến tranh chấm dứt, thân phụ Người phụ trách các việc hành chánh trong quân đội BaLan.  Thân phụ Người được hưu dưỡng sớm, do đó vấn đề tài chính trong gia đình nhỏ bé trở nên hạn hẹp.  Thân mẫu và người anh rời bỏ thế gian lúc Người còn bé, Karol phải sống lẻ loi với thân phụ mình. 
              
                 Người bắt đầu học trung học tại trường địa phương.  Người tỏ ra có năng khiếu về thể thao và kịch nghệ.  Sau này Người cùng với thân phụ di chuyến tới Krakow, rồi Karol Wojtyla được thu nhận vào đại học thị trấn, theo học văn khoa và triết học.  Cùng lúc, Người gia tăng tập luyện và hoạt động tích cực trong ngành kịch nghệ sinh viên.  Ngoài ra, Người bắt đầu sáng tác loại thơ trữ tình.
 
Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục, Hồng Y
                 Việc quân đội Đức chiếm đóng BaLan năm 1939 quyết định cuộc sống của Karol Wojtyla. Các giáo sư đại học bị trục xuất và đưa vào các tại tập trung, còn sinh viên bị cưỡng bách lao động trong các xưởng sản xuất tại Krakow.  Những sinh viên thiếu sức khỏe được dẫn vào các trại tập trung.  Nhờ tập luyện tốt Karol Wojtyla đã có thể kín đáo tiếp tục việc học của mình.
 
                 Vào những năm hậu Đệ Nhị Thế Chiến Wojtyla mau được tiến chức trong Giáo Hội.  Người viết luận án tiến sĩ với đề tài ’’Gioan Thánh Giá, nhà huyền bí và thi sĩ Tâybannha’’, và sau này trở thành giáo sư tại đại học Krakow, phân khoa triết học luân lý, kiêm giáo mục phụ tá.  Vào năm 1964, Người được tiến cử làm tổng giám mục Krakow, và ba năm sau, Người tiếp nhận ngôi vị hồng y.
 
                 Tại Công Đồng Vatican II, Người giữ vai trò phát ngôn viên các quan điểm tự do trong lãnh vực triết học luân lý và vấn đề nhân quyền.  Cùng với hồng y Wyszyski, vị lãnh đạo Giáo Hội công giáo BaLan, Người tham dự các cuộc đối thoại với nhà nước cộng sản về vấn đề tự do của Giáo Hội.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Và Chim Hòa Bình
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
                 Sau khi Đức Gioan Phaolô I, vị giáo hoàng tại chức 33 ngày, qua đời, Wojtyla được bầu làm giáo hoàng với số phiếu tối đa của các hồng y cử tri.
 
                 Với lòng nhiệt thành và tinh thần năng động, Gioan Phaolô II đã khởi sự lèo lái con thuyền Giáo Hội với đa số là những chuyến công du mục vụ.  Trong suốt thời gian ở ngôi vị giáo hoàng, Người đã trải qua trên 100 chuyến du hành.  Người là vị giáo hoàng mang khuynh hướng toàn cầu.  Người không chỉ đánh dấu các việc làm của mình bằng những chuyến công du mục vụ, mà còn ban hành vô số thư luân lưu, phong thánh và á thánh cho nhiều nhân vật đạo đức-thánh thiện khắp mọi nơi trên thế giới, cũng như thăng chức các tân hồng y, phản ảnh một Giáo Hội với tầm vóc quốc tế và khuyếch trương bộ mặt Giáo Hội toàn cầu.
 
                 Gioan Phaolô II là con người khôn ngoan, khéo léo và có khả năng thu hút các phương tiện truyền thông, bằng cả hai khuynh hướng: bảo thủ cũng như cấp tiến, liên quan tới lãnh vực thần học và luân lý.  Kinh nghiệm từ BaLan, Người cho rằng việc bảo tồn Giáo Hội là nhờ biết duy trì các truyền thống tốt đẹp, hầu gia tăng sức mạnh, để có thể đối ứng với hành động khủng bố của tập thể quân đội nazi cũng như cộng sản, không ngừng tìm cách diệt trừ Kitô giáo.
 
                 Đối với Gioan Phaolô II, Giáo Hội và văn hóa có những tương quan mật thiết với nhau và quyết định đời sống xã hội.  Vì thế, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, khi Người dùng ảnh hưởng của mình để dẫn đưa BaLan tới con đường giải thoát chế độ cộng sản.
 
                 Danh tiếng của Người rất lừng lẫy, đồng thời Người cũng tạo nên những kẻ chống đối và chỉ trích ở cả bên ngoài cũng như bên trong Giáo Hội.  Người cực lực kháng cự việc tự do phá thai, bởi vì Người muốn bảo vệ giá trị vô cùng cao qúi của con người, đã được tạo dựng theo vaw như hình ảnh Thiên Chúa. Và Người thẳng thắn từ chối việc thành hôn của các linh mục.
 
                 Người chống đối mạnh mẽ chủ nghĩa duy vật và sự cách biệt sâu xa giữa những nước giầu và nghèo, nhưng người cảnh giác các giáo sĩ tham gia trong lãnh vực thần học giải phóng, và Người đã sa thải bề trên Dòng Tên vì lý do nêu trên.  Từ đó Người bị chỉ trích là ủng hộ phe bảo thủ - Opus Dei.
 
                 GioanPhaolô II là vị giáo hoàng duy nhất đã quan tâm tới vấn đề khoa học, mà từ trước tới nay vẫn bị các vị tiền nhiệm kết tội là tà thuyết.  Vào năm 1983, Gioan Phaolô II đã mời tất cả thủ lãnh các tôn giáo lớn đến Assisi để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
 
                 Năm 1981, Gioan Phaolô II đã trải qua một cuộc mưu sát khốc liệt.  Trình thuật việc Người đến thăm viếng tại nhà tù và tha thứ cho kẻ mưu sát đã được truyền tải đến mọi nơi trên thế giới.  Một chứng bệnh run tay khởi sự hoành hành vào thập niên 1990, khiến Người trở nên suy yếu dần; nhưng ý Người là muốn tiếp tục sứ vụ giáo hoàng ở mức độ như thế, cho đến khi nhận được lời cảnh báo của hội đồng bác sĩ, Người bèn than thở:  ’’Tôi gục ngã rồi, như thế là tôi gục ngã rồi’’ – Si crollo, crollo.
Vị Giáo Hoàng Hết Lòng Yêu Mến Đức Mẹ
                 Vào năm 2005, sức lực của Đức Phaolô II đã đến hồi kiệt quệ, và Người chết vào ngày 2 tháng 4 tại cư dinh quốc gia Vatican. Trong buổi lễ an táng rầm rộ, dân chúng đã liên tục lớn tiếng hô to: ’’Xin hãy phong thánh cho Người’’.  Hai tháng, sau khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, một nữ tu người Pháp đã được chữa lành bệnh run tay, một cách lạ lùng, sau một thời gian cùng với các nữ tu đồng viện liên tục kêu cầu danh Người.
 
                 Sau này, một phụ nữ dân xứ Costa Rica bị bướu não cũng được lành bệnh, vì đã kêu xin Đức Gioan Phaolô II cầu bầu cùng Chúa cho chị.
 
                 Những phép lạ nêu trên dẫn tới quyết định phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II.  Sau khi từ giã cõi trần, một nhân vật đã làm phép lạ đầu tiên, sẽ được các chuyên gia điều tra kỹ lưỡng và thẩm định cách chính xác, rồi mới được phong lên hàng á thánh; và được giáo hoàng tại chức phong lên bậc hiển thánh, nếu phép lạ thứ hai được giáo hội thừa nhận.     

                      










  

     

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật III Phục Sinh

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật III Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 9,31-42; - Thánh Vịnh 116,12-17; - Gioan 6,60-69

Nhập Lễ: 
’’Trong phép Rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Đức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại, halleluia’’ (Côlôsê 2,12)
Bài Đọc:
’’Hội Thánh được xây dựng vững chắc, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ’’  (Công Vụ Tông Đồ 9,31-42).
Đáp Ca
’’Biết lấy gì đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho?’’ (Thánh Vịnh 116,12).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Lạy Chúa:  Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống.  Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời’’. (theo Gioan 6,63c.68c)
Tin Mừng:
 ’’Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?  Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời’’ (theo Gioan 6,51.60-69).
Ca Hiệp Lễ:
’’Chúa phán: Lạy Cha, Con cầu xin cho chúng, để chúng nên một trong Ta, và để thế gian tin rằng Cha đã sai Con, halleluia.’’ (Gioan 17,20-21)

*****

Xin Đọc Bài Đã Đăng, Cùng Ngày, Năm 2013

Bà Tabitha, Hãy Đức Dậy
http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/04/thu-bay-sau-chua-nhat-iii-phuc-sinh.html