Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Thánh Tôma Aquinô, Tiến Sĩ Hội Thánh - Ngày 28 Tháng 1

Thánh Tôma Aquinô, Tiến Sĩ Hội Thánh  -  Ngày 28 Tháng 1
Các bài đọc trích sách: - 2 Samuel 12,1-7a.10-17; Máccô 4,35-41

Thánh Tôma Aquinô

Thomas Aquin (Aquinas) là tu sĩ Dòng Dôminicô.
Sinh ngày 28 tháng 1 năm 1225 tại Roccasecca gần Aquino. 
Qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại Fossanuova gần Terracina. 
Được tôn phong hiển thánh năm 1323. 
Lễ kính nhớ ngày 28 tháng giêng hằng năm.

Tôma Aquinô là một trong số các đại thánh tiến sĩ Giáo Hội thời trung cổ - nhiều người cho rằng đây là vị thánh lớn nhất – là thành viên của một gia đình đông con, thuộc dòng dõi qúi tộc, thân phụ là Landulf Aquinô.

Tôma Aquinô được các tu sĩ Dòng Bênêđictô ở Monte Cassino giáo huấn và rồi tiếp tục vào đại học tại Neapel; đến năm 1244 thì gia nhập Dòng Đôminicô.  Ý định muốn trở thành một tu sĩ khất thực, Tôma Aquinô đã làm chấn động gia đình qúi tộc của mình, buộc anh của Tôma Aquinô phải bắt cóc và nhốt Người vào một nơi riêng trong suốt một năm.  Nhưng Tôma Aquinô vẫn giữ vững quyết tâm của mình.

Khi Tôma Aquinô được giải phóng, Người đã xin theo học nơi thánh Albert Cả tại Paria (Pháp) và Köln (Đức).  Năm 1256 Tôma Aquinô được cấp văn bằng tiến sĩ thần học. 

Suốt cuộc đời ngắn ngủi còn lại , Tôma chỉ chuyên vào việc giáo huấn, giảng dậy, hơn tất cả là dồn tâm trí và thì giờ vào việc viết lách.  Tôma Aquinô đã tận dụng khả năng phong phú của mình bằng cách: rời bỏ Paris vào năm 1259 để sang Ý  dậy học, từ thị trấn này sang tỉnh khác; và từ năm 1269 đến 1272, Người lại trở về Paris; cuối cùng Người đến Neapel.  Người ta cho rằng, ’’Tôma Aquinô có được kiến thức uyên bác không chỉ do thiên phú, nhưng chủ yếu là nhờ cuộc sống cầu nguyện, suy niệm thâm sâu’’ .

Cuối năm 1273 Tômas Aquinô đưa ra một tác phẩm ’’Summa Theologica - gọi là Tổng Luận Thần Học’’ còn dang dở và công bố:  ’’Tất cả những gì tôi đã viết ra, tôi nghĩ, là đám cỏ khô thuần chất, so với những gì tôi đã thấy, và những gì tôi đã được mặc khải.’’  Tôma Aquinô đã làm cho lý tưởng của thánh Đôminicô trở thành hoa trái mầu mỡ trong chiêm niệm đối với mọi cá nhân nối tiếp. 

Khi được mời tham dự cuộc họp thường kỳ tại Lyon, Tôma Aquinô lên đường sau vài tuần lễ, đang lúc Người bị bệnh và vì thế đã chết ở dọc đường tại tu viện Fossanuove.

Thánh Tôma Aquinô đã để lại những tác phẩm thần học và triết học trứ danh nhất, có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với hậu thế, trong đó có ’’Summa contra Gentiles’’ (1259-64), một tổng luận về Thiên Chúa và các tạo vật, và ’’Summa Theologica’’ (1266-64), diễn giải thần học theo phương pháp cổ điển, một tác phẩm với khuôn mẫu và hình thức nghiên cứu công phu, khiến tác giả được trao danh hiệu tiến sĩ với quyền giảng dạy ở tất cả các trường đại học quốc tế. 

Ảnh hưởng của thánh Tôma Aquina gần bằng các vị đồng thời bấy giờ là thánh Bonaventura và thánh Albert; nhưng sau này ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô trở thành vượt trội hơn tất cả.


Năm 1567 thánh Tôma Aquinô được Đức Giáo Hoàng Piô V nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh, và sau này, trong tông thư năm 1879, Đức Thánh Cha Leô XIII khuyến khích mọi tầng lớp tín hữu nghiên cứu và học tập giáo huấn của thánh Tôma Aquinô.     

Thánh Tôma Aquinô Đang Sáng Tá
     Khi được mời tham dự cuộc họp thường kỳ tại Lyon, Tôma Aquinô lên đường, sau vài tuần lễ, đang lúc Người bị bệnh và vì thế đã chết ở dọc đường tại tu viện Fossanuove.

     Thánh Tôma Aquinô đã để lại những tác phẩm thần học và triết học trứ danh nhất và có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với hậu thế, trong đó có ’’Summa contra Gentiles’’ (1259-64), một tổng luận về Thiên Chúa và các tạo vật, và ’’Summa Theologica’’ (1266-64), tổng luận thần học theo phương pháp cổ điển, một tác phẩm với khuôn mẫu và hình thức nghiên cứu công phu, khiến tác giả được trao danh hiệu tiến sĩ với quyền giảng dạy ở tất cả các trường đại học quốc tế.

     Ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô gần như các vị đồng thời bấy giờ là thánh Bonaventura và thánh Albert; nhưng sau này ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô trở thành vượt trội hơn tất cả.

     Năm 1567 thánh Tôma Aquinô được Đức Giáo Hoàng Piô V nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh, và sau này, trong tông thư năm 1879, Đức Thánh Cha Leô XIII khuyến khích mọi tầng lớp tín hữu nghiên cứu và học tập giáo huấn của thánh Tôma Aquinô.     

           


Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  -  Năm Lẻ

Các bài đọc trích sách: -  Do Thái 9,15.24-28; - Thánh Vịnh 98,1-6; - Máccô 3,22-30

Bài ĐọcDo Thái 9,15.24-28  -  Chúa Đã Biểu Dương Ơn 
                                     Người Cứu Độ


Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái suy niệm sâu xa về sức mạnh nơi mầu nhiệm tử nạn của Đức Giêsu.  Tân Ước được khai mở, nhờ sự chết của Đức Giêsu Kitô.  Đức Kitô Giêsu là trung gian Tân Ước.  Qua Người và chỉ qua Người, chúng ta mới có quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa (Do Thái 9,15).  Đức Giêsu là Đấng toàn hảo, đã hoàn tất các điều Thiên Chúa hứa, qua Lề Luật và các ngôn sứ, trải dài từ nhiều thế kỷ, theo dòng lịch sử dân tộc Israel, đúng như các tương phản mà tác giả thư đề cập tới giữa Cựu Ước và Tân Ước. 

Việc thờ kính Thiên Chúa theo Cựu Ước gồm nhiều hình thức hiến tế hữu hình khác nhau, tùy theo tình cảm của các tín hữu.  Tuy nhiên, mỗi hành động hiến tế đều mang một ý nghĩa liên hệ chặt chẽ tới vấn đề tâm linh, phù hợp với đời sống cá nhân, gia đình, xã hội và quốc gia. Việc hiến tế đã được các thầy Cả thực hành ở khắp nơi, ngay từ khi hình thành lịch sử Israel.  Thầy Cả là những người được chọn để thi hành việc tế lễ (Đệ Nhị Luật 33,8-10).  Từ thời vua Giôsigia, thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, tất cả các lễ tế đều tập trung tại đền thờ Giêrusalem (2 Vua 23). 

Mục đích của các lễ tế là xin ơn tha thứ, thanh tẩy và xá tội.  Mỗi năm một lần.  Ngày Xá Tội, vị Thượng Tế đi vào cung thánh để xin ơn tha tội cho chính mình, tội của kẻ mang năng chức tế tự và tội của đại hội Israel, bằng cách lấy máu các thú vật đã đem hiến tế rẩy lên bàn thờ (Lêvi 16). 
 
Nhưng trong Tân Ước, chúng ta có Đức Giêsu, vị Thượng Tế hằng hữu đã được Thiên Chúa tự tấn phong; Người là Con Một Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Vì là Thiên Chúa thật, nên Người chỉ chấp nhận của lễ có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, Đấng vô cùng yêu thương, quảng đại và chính trực. 

Đức Giêsu vừa là Thuợng Tế vừa là lễ tế.  Để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, Đức Giêsu chỉ tự hiến tế một lần.  Việc hiến tế của Người mãi mãi làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, vì thế Người không cần lập lại nhiều lần.  Việc Đức Giêsu tự hiến thân mình chịu chết trên thập giá là một mầu nhiệm trọng đại và vinh quang nhất đối với Thiên Chúa Cha, đồng thời phơi bầy tội lỗi thật kinh tởm và gớm ghiếc của nhân loại ra trước mặt Thiên Chúa; ngoài ra còn chứng minh cho chúng ta thấy, Thiên Chúa đã hy sinh ban Người Con yêu qúi nhất của Người cho thế gian chỉ vì yêu thương chúng ta; đồng thời nói lên tình yêu liên kết sâu đậm giữa Chúa Cha và Chúa Con; nhờ thế giờ đây chúng ta mới có thể được hưởng một cuộc sống bất diệt, không do công trạng riêng của mình, nhưng chính là do sự hiến tế của Đức Giêsu Kitô, vị Thượng Tế của chúng ta vậy.

‘’Lạy Cha, vì vinh quang của Cha, và để cứu chuộc chúng con, Cha đã tấn phong Đức Giêsu Kitô làm Thượng Tế vĩnh cửu.  Xin cho những kẻ Người Con đã đem về cho Cha nhờ máu của Người được thông phần vào sức mạnh thập giá và sự phục sinh của Người.  Amen.’’

Tin MừngMáccô 3,22-30  -      Ai Nói Phạm Đến Thánh Thần
                                     Thì Chẳng Đời Nào Được Tha.