Chúa Nhật 4 Phục Sinh - Năm C
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13.14,43-52; - Thánh Vịnh 100,2-3.5;
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13.14,43-52; - Thánh Vịnh 100,2-3.5;
Khải Huyền 7.9,14-17; - Gioan 10,27-30
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan.
Khi ấy, Đức Giêsu nói
với người Do Thái rằng:
‘’Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và
chúng theo tôi.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng
phải diệt vong
và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi,
thì lớn hơn tất
cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Tôi và Chúa Cha là một.’’
Tôi Ban Sự Sống Đời Đời Cho
Chiên Của Tôi
Trong câu tung hô Tin Mừng hôm nay, bản văn
tiếng Việt dịch rằng, Chúa nói: ‘’Tôi chính là Mục Tử nhân lành...’’,
trong khi các ngôn ngữ tây phương viết, và được hiểu rằng, ‘’tôi là đấng chăn chiên tốt lành’’. Ở đây Đức Giêsu muốn tự giới thiệu mình là một
mục tử - pastor, theo tiếng la-tinh - tốt lành. Theo định nghĩa thông thường, pastor là một linh mục, chăm sóc đặc biệt
đời sống tâm linh của người tín hữu,
kể cả vật chất, nếu có thể.
Nếu Đức Giêsu là mục tử tốt lành, thì Giáo
Hội rất cần có những linh mục – pastor
- tốt lành. Biện giải việc nhiều người
trẻ xa lánh giáo đường và các sinh hoạt tôn giáo, một thanh niên nói: ‘’Nhiều
người bỏ không đến giáo đường, không phải vì họ mất niềm tin, nhưng chỉ vì họ
không thích cách xử thế, lời ăn, tiếng nói của một số linh mục!’’ Mỗi người cần xét lại, khi nghe lời phát biểu
nêu trên, để tìm hiểu nguyên nhân,…chỉ vì một số linh mục hay vì chính những người
giáo dân.
Khi ở trong sa mạc, Môisê không thể chịu nổi
sức ép của đồng bào, có lần đã kêu than với Chúa: ‘’Một
mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng qúa sức con (Dân Số
11,14). Người Pháp nói: ‘’Un prêtre – c’est un homme mangé - một linh mục là một người đàn ông, ăn uống và
tiêu hóa như chính Thầy và Sư Phụ của họ.’’
Trái lại, nếu hàng giáo sĩ có
những linh mục ‘’xấu’’, ‘’không tốt lành’’ thì qủa thực là một điều bất hạnh
cho Giáo Hội, vì họ chỉ lợi dụng địa vị để gây lợi, tạo danh cho chính mình hoặc cải
biến Giáo Hội nên giống cá nhân mình, thay vì như hình ảnh Thiên Chúa.
Người Kitô hữu, nếu đã có niềm tin vững mạnh, không nên xa lánh giáo đường và các sinh hoạt
của Giáo Hội chỉ vì ‘’người làm thuê,
không phải là mục tử chính hiệu, linh mục giả’’, bởi vì người có đức tin,
không chỉ có liên đới với linh mục, nhưng đồng hành với Chúa. Giáo Hội là dân Thiên Chúa, và Giáo Hội là
Thiên Chúa đang thực hiện cuộc hành trình tại trần thế.
Đức Giêsu gọi những kẻ theo người là chiên. Đối
với những người có tư tưởng ngụy biện thuộc thời đại văn minh hiện nay, thì lối
diễn tả này không mấy thuận tai.
Chiên thường đuợc coi là loài động vật khờ
dại, thiếu thông minh. Thỉnh thoảng
chúng ta nhìn thấy trên đài truyền hình, hoặc trên bức tranh mầu diễn tả một
con chó canh giữ một đàn chiên đang ăn cỏ bên sườn đồi. Với hình ảnh ấy, chúng ta có quyền suy nghĩ
về thân phận của chính mình. Nếu được ví
như một con cừu, thì thực sự chúng ta chẳng có giá trị gì để đáng ca ngợi, tự
tôn.
Nhưng, đối với Đức Giêsu và đối với Giáo
Hội sơ khai, thì hình ảnh ấy được kể là rất quan trọng. Đức Giêsu tự coi mình như là Đấng Chăn Chiên
tốt lành. Xét về mối tương quan của Đức
Giêsu với các môn đệ thì lời nói của Người được kể là rất đúng.
Người chăn chiên là người hy đời mình
trong việc chăm sóc đàn chiên. Người
chăn chiên sống sát với đàn chiên qua bốn mùa thời tiết và trong mọi tình
hưống, chia sẻ với đàn chiên trong những lúc gặp khó khăn.
Để
được kể là người chăn chiên tốt lành, người chăn chiên phải hy sinh cuộc sống
trong việc chăm nom, săn sóc, bảo vệ đàn chiên của mình. Đức Giêsu đã sống một cuộc đời của người chăn
chiên, hiến trọn thân mình cho đàn chiên, ban phát tất cả mọi sự cho những kẻ
do Người chăm sóc.
Đức Giêsu biết rõ sứ vụ của Người còn phải
được tiếp tục sau khi Người rời bỏ thế gian để về trời; do đó, Người truyền
lệnh cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của mình (Gioan 21,15-17). Sớm ý thức vai trò mục vụ quan trọng này,
Giáo Hội tiếp nối công việc của Đức Kitô tại trần thế.
Nhờ sách Tin Mừng ghi lại, chúng ta biết
được Đức Giêsu đối xử với những người đi theo Người như thế nào. Người luôn được các đám đông dân chúng vây
quanh. Chúng ta nhận thấy những người
này ước muốn rất nhiều điều chính đáng.
Đức Giêsu tiếp xúc thân mật với các đám
quần chúng; Người cũng liên lạc và gần gũi từng cá nhân, hoặc từng nhóm
nhỏ. Người đáp ứng tất cả các nhu cầu
đặc biệt của họ, đến nỗi gây ngạc nhiên cho mọi người. Người yêu thương họ bằng
một tình yêu chân thành và sâu đậm, như tình yêu của người cha dành cho con
cái.
Đức Giêsu nói rằng, chiên của Người là
những kẻ nghe rõ tiếng Người. Đức Giêsu
và các môn đệ có một mối tương quan mật thiết cá nhân, và để tương trợ nhau.
Người hiểu biết họ. Người biết rành rẽ từng cá nhân. Người yêu qúi từng môn đệ
của Người; mỗi môn đệ là một tặng vật qúi báu do Thiên Chúa gửi đến cho Người.
Mỗi môn đệ là phần tử trong một đàn chiên của Người, kết hợp với nhau, phản ảnh
sự liên kết của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đức Giêsu ban cho mỗi con chiên một tặng
vật qúi giá, đó chính là sự sống mới trong Người, một sự sống vĩnh cửu. Người chăm sóc và bảo vệ đàn chiên của Người
qúa chu đáo, đến nỗi không kẻ gian ác
nào có thể chộp bắt hoặc gây kinh hoàng được.
Tình yêu của Người, sự bao che chặt chẽ của Người khiến đàn chiên được
an toàn trong cuộc sống mới, và trước mọi khó khăn, hiểm nguy.
Đức Giêsu ban sự sống đời đời cho tất cả
những ai lắng nghe tiếng nói của Người.
‘’Lạy Đức Giêsu,
Đấng chăn chiên hằng hữu,
xin giúp con biết nghe tiếng
nói của Chúa
và sẵn sàng đi theo Chúa.
Xin Chúa giúp con hiểu biết
tình yêu Chúa
dành cho con muôn thuở muôn
đời. Amen.’’