Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

ĐỨC CỐ GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II ĐƯỢC PHONG HIỂN THÁNH


Ngày 5 tháng 7 năm 2013 Văn phòng toà thánh Vatican thông báo
Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô II và
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII được phong hiển thánh.
Ngày, giờ phong thánh chưa được ấn định
nhưng chắc chắn sẽ diễn ra trước cuối năm 2013.

     Đức Thánh Cha Phanxicô (Franz) vừa thừa nhận thêm một phép lạ thứ hai của Đức Cố Giáo Hoàng, gốc BaLan, Gioan Phaolô II– đã từng ở ngôi vị Giáo Hoàng từ năm 1978 đến ngày qua đời, năm 2005.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Đang Đi Dạo
     Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm một phép lạ đầu tiên, chữa lành cho nữ tu Maria Simon-Pierre Normand, khỏi chứng bệnh run tay, sau khi nữ tu cầu xin với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.      
 
     Phép lạ thứ hai vừa được Đức Thánh Cha Franz chuẩn nhận, liên quan tới việc chữa lành bệnh cho một phụ nữ tại Costa Rica (một nước thuộc Trung Mỹ), mà y khoa không giải thích được, nhân dịp lễ phong Á thánh của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2011.
 
     Đức Cố Giáo Hoàng, được mệnh danh là Giáo Hoàng canh tân, Gioan XXIII – ở ngôi vị Giáo Hoàng từ năm 1958 đến 1963 – cũng sẽ được phong hiển thánh.

     Dưới triều đại Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Hội tiến một bước cải thiện là thay La ngữ, một ngôn ngữ xử dụng trong các nghi thức phụng vụ, mà rất ít giáo dân có thể hiểu, bằng tiếng địa phương.
 
Một Vị Thánh Là Ai?
     Các thánh có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo. 

     Một vị thánh là một nhân vật đã chết, nhưng sống mãi trong lòng người Kitô hữu, và chính vì thế mới có việc phong thánh trong Giáo Hội Công Giáo. 
 
     Phong thánh, theo sự hiểu biết của người tín hữu ngày nay là, tên cá nhân được phong thánh sẽ chính thức được ghi vào danh sách các thánh. Tuy nhiên, ý niệm về thánh có một lịch sử khá lâu đời, bắt nguồn từ những người Kitô hữu đầu tiên.
 
Các Thánh Đầu Tiên.-
     Tất cả những người Kitô hữu thế kỷ đầu, đều coi mình là những người thánh trước tiên.  Căn cứ vào cuộc sống của họ, người ta đã có thể bắt đầu phân chia, ai là người thuộc loại thánh nào.
 
     Vào thời điểm này, vì lý do người Rôma ban hành lệnh cấm đạo, nên những người chết vì đạo được kể là thành phần riêng.  Chết vì đức tin là hình thức cao trọng nhất đối với những người theo Đức Kitô. 
 
     Vào thế kỷ đầu, một người tử đạo, đương nhiên là một vị thánh, mặc dù lúc bấy giờ, chưa chính thức thiết lập việc phong thánh, mãi đến thế kỷ thứ mười bốn mới có.  Tử đạo là con đường chắc chắn được làm thánh, và cho đến ngày nay cũng vẫn còn hiệu lực.
 
     Dưới hình thức cấm đạo, người Kitô hữu bị truy nã, ngay từ thuở Giáo Hội sơ khai, và đặc biệt, vào thế kỷ thứ tư, tử đạo là phương thế độc nhất, có thể trở nên thánh, vì thế nhiều người Kitô hữu đã cố gắng được chịu tử đạo, để được làm thánh, và gần gũi Đức Giêsu hơn. 
 
     Tử đạo là cơ hội thuận lợi nhất để làm thánh, bất chợt, hoàng đế Constantinô, thế kỷ thứ tư, ban hành hợp pháp hóa Kitô giáo.  Từ đó, người ta phải bước theo Đức Kitô bằng những đường hướng khác.
 
     40 ngày chay tịnh trong sa mạc của Đức Giêsu đã gây cảm hứng cho nhiều nhân vật muốn làm thánh, lao mình vào cuộc sống khổ chế, để gần gũi với Đức Kitô. 
 
     Bằng cách nhịn đói, nhịn khát, hoàn toàn xa lánh các lễ hội, từ bỏ tiền của, quần áo, liều mình chết dần chết mòn - gọi là tử đạo ’’trắng’’; thay vì chết ngay - gọi là tử đạo ’’đỏ’’.  Lần hồi, hai hình thức tử đạo trên đều được coi là có giá trị tương đồng, để được làm thánh.
 
Niềm Tin Trở Nên Thánh Thời Trung Cổ
     Tiến dần vào thiên niên kỷ thứ hai, quan niệm về thánh được khai triển thêm.  Khời đầu, chỉ những người Kitô hữu chết vì tin theo Đức Kitô, tức là chịu tử đạo, mới được phong thánh, dần dà những nhà truyền giáo và các giám mục đạo đức cũng được phong thánh.  Các cá nhân có lòng tốt, dấn thân phục vụ giới túng nghèo và những nhà khổ tu, được kể là thành phần đáng chú ý. 
 
     Vào thời trung cổ, những vị sáng lập Dòng Nữ, cũng như Dòng Nam, được đặc biệt quan tâm tới, trong việc phong thánh; nên các thánh thường là linh mục, thầy Dòng, Nữ tu, các đấng giữ mình đồng trinh hoặc goá bụa. Nói cách khác, một vị thánh thường chỉ là người không lập gia đình, vì họ có điều kiện, qua các việc làm được Giáo Hội ủy thác.
 
     Việc thờ kính thánh, phát triển mạnh từ thời hậu trung cổ, dần dần lớn mạnh, hợp thành đoàn, khối, phong trào, coi các thánh như nhân các đấng trung gian, nối kết người Kitô hữu với Đức Kitô. 
 
     Người Kitô hữu có một tương quan mật thiết với vị thánh liên hệ, và có thể cầu cùng Đức Giêsu cho những người tín hữu.  Phép lạ dưới hình thức chữa lành bệnh, mà y khoa không thể giải thích được, có liên quan đặc biệt tới các vị thánh. 

Ba Điều Kiện.-
     Vào đầu thế kỷ thứ mười bảy, Đức Giáo Hoàng Urban VIII ban hành các nguyên tắc căn bản trong việc lập hồ sơ phong thánh, và do đó, Ngài đưa ra ba điều kiện cần hội đủ để có thể được phong thánh.  Trải qua giòng thời gian, các điều kiện này dần dần đã được cụ thể hóa.
 
     Điều kiện thứ nhất, một vị thánh, phải là nhân vật sống mẫu mực, suốt cuộc đời trần thế.  Nghĩa là, nhân vật đó phải là một người công giáo có đức tin sâu sắc.  Giáo Hội không muốn phong thánh cho một nhân vật theo tà giáo.
 
     Điều kiện thứ hai, một vị thánh phải là một nhân vật sống đạo đức.  Một đời sống đạo đức, có thể hiểu là một người Kitô hữu, sống theo bảy nhân đức: Tin, Cậy, Mến, Khôn Ngoan, Chính Trực, Can Đảm và Tự Chế.  Điều kiện này cần có, vì Giáo Hội sợ sẽ phải phong thánh cho một mụ phù thủy hoặc một pháp sư.
 
     Điều kiện thứ ba là các phép lạ.  Nếu người tín hữu cầu xin cá nhân liên hệ làm một phép lạ, mà được như ý, chứng tỏ cá nhân ấy đang ngự ở bên cạnh Đức Kitô, và đã chuyển ơn xin tới người tín hữu. 
 
     Các phép lạ phải diễn ra sau khi vị thánh liên hệ đã chết, để có thể được Giáo Hội thừa nhận.  Nhưng, ý nghĩa của phép lạ còn tùy thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết của con nguời. 
 
     Sức mạnh siêu nhiên có khả năng lôi cuốn các tín hữu khá mạnh, và một vị thánh liên hệ dễ làm cho nhiều người tin theo, nếu dư luận loan tải sâu rộng về phép lạ vị thánh ấy đã làm.  Một vị thánh đã chết, người ta sẽ tổ chức các chuyến hành hương đến phần mộ của ngài để cầu nguyện, với hy vọng trở thành nhân chứng cho một phép lạ nào đó.
 
     Mục đích Đức Giáo Hoàng đưa ra ba điều kiện nêu trên, cốt là để cho việc thiết lập hồ sơ phong thánh rút ngắn hơn, nhưng nào ngờ sự việc lại trở nên trái ngược, thời gian kéo dài thêm. 
 
     Các chi tiết cần yếu để thiết lập hồ sơ phong thánh không liên tục đồng nhất, chẳng hạn như vào cuối thế kỷ XVII, mới bắt đầu đòi phải có các chứng minh về cuộc sống thánh thiện của đấng bậc đáng được phong thánh.
 
Thờ Kính Thánh Nhân.-
     Vào thời trung cổ, tín hữu chú tâm nhiều tới việc thờ kính các thánh tích.  Thánh tích là một vật liên hệ tới cá nhân Đức Giêsu hoặc một vị thánh, từ đó có thể phát sinh ơn thánh. 
 
     Cái áo, chiếc quần của vị thánh cũng là một thánh tích; xác phàm của vị thánh (hài cốt), tuy không hồn, nhưng được kể là thánh vật cao trọng nhất.
 
     Mục đích của người hành hương là đến kính viếng thánh tích, của vị thánh liên hệ, đang được lưu giữ ở các thánh đường hoặc tu viện.   Hài cốt của một vị thánh có thể là chân hay tay; rất hiếm mới có được toàn thể thân mình, lưu giữ tại cùng một nơi.
 
     Thờ kính thánh nhân nam nữ còn sống – như thế dĩ nhiên chưa thật sự là thánh – là vấn đề rất thông thường, ở thời trung cổ.  Đức Giáo Hoàng Urban VIII đã ban lệnh cấm tín hữu dựng ảnh tượng ở trong thánh đường, để thờ kính những cá nhân không được phong. Tuy nhiên, ngài cũng ban chỉ thị miễn trừ cho những nơi đã làm việc thờ kính như vậy liên tục lâu hơn một thế kỷ.
 
     Mục đích ban hành việc thờ kính, cũng như đặt ra các điều kiện để có thể thiết lập hồ sơ phong thánh, và dần dần đổi thành một án lệnh phong thánh, chứng minh các sự kiện liên quan tới cuộc sống thánh thiện của một vị thánh.
 
Cho Đến Thời Hiện Đại.-
     Vào những thế kỷ kế tiếp, nhờ khoa học tiến bộ, y dược phong phú và tối tân, nên các cuộc chữa lành dựa trên phép lạ đã giảm thiểu tới mức đáng kể.  Khi phép lạ đã trở thành qúa quen thuộc, ở thời trung cổ, thì tín hữu cũng như Giáo hội hướng nhiều tới cuộc sống thánh đức của từng cá nhân. 
 
     Ngày nay, việc phong thánh được kể là phức tạp, và tiến trình thiết lập hồ sơ cũng chia ra nhiều phần khác nhau.  Trước tiên, vị thánh ’’tiến cử’’ phải được phong Á thánh, và sau đó dẫn tới việc thừa nhận các phép lạ từ vị Á thánh liên hệ. 
 
     Phong Á thánh cốt là để cho tín hữu được phép thờ kính vị Á thánh ấy, trong khu vực do Giáo Hội ấn định.  Khi cá nhân làm một phép nhãn tiền, lúc đó cá nhân đó sẽ được phong Á thánh.  Để được phong hiển thánh, vị Á thánh liên hệ phải làm hai phép lạ, được Giáo Hội chuẩn nhận.
 
     Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Á thánh và hiển thánh cho nhiều người, hơn tất cả các Giáo Hoàng khác.  Người đã phong Á thánh cho 1.340 người và phong hiển thánh cho 482 người.  Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất là Mẹ Têrêsa Calcuta, được phong Á thánh vào năm 2003.
 
     Trong sổ bộ Giáo Luật hội thánh công giáo chính thức ghi nhận trên 10.000 thánh.           
            
    


 
    

   
      
    





Thứ Hai Sau Chúa Nhật 14 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 14 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 28,10-22a; - Thánh Vịnh 91,1-4.14-15; - Mátthêu 9,18-26

 
Lạy Thiên Chúa, Ngài Là Nơi Con Ẩn Náu

 
Giacóp đã lừa dối Isaac để đoạt lời chúc phúc, và vì sợ người anh đe dọa giết chết, buộc Giacóp phải trốn đi nơi khác.  Nằm ngủ tại một nơi hoang vắng xa nhà, lấy viên đá gối đầu. Giacóp, trong giấc mơ, nhìn thấy một thiên thần đi lên đi xuống chiếc thang nối liền giữa trời và đất.

Giacóp nhận thấy mình đã làm một việc sai lầm, và xúc phạm tới người anh.  Giacóp sống lẻ loi trong hoang địa, nhưng chính nơi đây, trong giấc mơ, anh đã nhìn thấy Thiên Chúa.   

Tâm trạng mỗi người chúng ta, nhiều lần cũng giống như Giacóp.  Chúng ta phạm tội và hối hận về những việc đã làm, gây phiền sầu đau khổ cho bạn hữu, hoặc những người thân yêu trong gia đình, lối xóm; để rồi từ đó, chúng ta có cảm tưởng như mình đang lang thang trong sa mạc.   

Tuy nhiên, trong những lúc như vậy, Thiên Chúa lại tâm tình mật thiết với chúng ta, không phải vì chúng ta đáng được hưởng ơn phúc ấy, nhưng chỉ vì Nguời muốn tỏ lòng từ bi và nhân hậu đối với chúng ta.

Trong giấc mơ, Giacóp nhìn thấy một chiếc thang nối liền giữa trời và đất.  Điều này xác tín rằng, dù Giacóp cảm thấy lẻ loi, nhưng không cô đơn.  Từ đó, chúng ta cảm nhận rằng, luôn luôn vẫn có một con đường dẫn đến với Thiên Chúa; đặc biệt, khi chúng ta gặp khó khăn, Thiên Chúa sai thiên thần của Người xuống để nâng đỡ và an ủi chúng ta.   

Là người Kitô hữu, chúng ta có thể hiểu, chiếc thang đích thực nối liền giữa trời và đất, chính là Đức Giêsu Kitô.  Là tội nhân, nên chúng ta đã từng sống xa  Chúa, và chúng ta không còn xứng đáng bước vào thánh địa của Người nữa.  Đức Giêsu, Đấng nhập thế làm người, và chịu chết vì tội lỗi chúng ta, đã phá tan hàng rào ngăn cách giữa chúng ta và Thiên Chúa.

Trong Người, tội lỗi chúng ta chắc chắn đã được tha thứ, hầu chúng ta có thể đến trước toà Thiên Chúa, với niềm tin và vui mừng, như thánh Phaolô đã từng nói với tín hữu Do Thái rằng:  ‘’Vậy, thưa anh em, nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh.  Nhờ lối sống mới và linh động, qua bức màn, Người đã mở cho chúng ta, tức là chính thân xác của Người.  Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa.  Vì thế, chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền’’ (Do Thái 10,19-22).

Chúng ta phạm tội và lỗi lầm, nhưng chúng ta vui mừng, vì qua Đức Giêsu, chúng ta có thể ăn năn, sám hối, và tiến đến nhan thánh Thiên Chúa hằng sống, với niềm tin, cậy và yêu mến nơi tâm hồn.

‘’Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng trung gian đích thực.  Chúa đã mở cho chúng con lối vào nước trời.  Xin cho chúng con được đến trước mặt Chúa mỗi ngày để tìm kiếm ân sủng và ơn tha thứ, cho đến một ngày kia, chúng con được kết hợp với Chúa, tại vương quốc trên trời. Amen.’’