Ngày 5 tháng 7 năm 2013 Văn phòng toà thánh Vatican thông
báo
Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô II và
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII được phong hiển thánh.
Ngày, giờ phong thánh chưa được ấn định
nhưng chắc chắn sẽ diễn ra trước cuối năm 2013.
Đức
Thánh Cha Phanxicô (Franz) vừa thừa nhận thêm một phép lạ thứ hai của Đức Cố Giáo
Hoàng, gốc BaLan, Gioan Phaolô II– đã từng ở ngôi vị Giáo Hoàng từ năm 1978 đến
ngày qua đời, năm 2005.
![]() |
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Đang Đi Dạo |
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm một
phép lạ đầu tiên, chữa lành cho nữ tu Maria Simon-Pierre Normand, khỏi chứng bệnh
run tay, sau khi nữ tu cầu xin với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Phép lạ thứ hai vừa được Đức Thánh Cha
Franz chuẩn nhận, liên quan tới việc chữa lành bệnh cho một phụ nữ tại Costa
Rica (một nước thuộc Trung Mỹ), mà y
khoa không giải thích được, nhân dịp lễ phong Á thánh của Đức Cố Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II vào năm 2011.
Đức Cố Giáo Hoàng, được mệnh danh là Giáo
Hoàng canh tân, Gioan XXIII – ở ngôi vị Giáo Hoàng từ năm 1958 đến 1963 – cũng
sẽ được phong hiển thánh.
Dưới triều đại Giáo Hoàng Gioan XXIII, Giáo Hội tiến một bước cải thiện là thay La ngữ, một ngôn ngữ xử dụng trong các nghi thức phụng vụ, mà rất ít giáo dân có thể hiểu, bằng tiếng địa phương.
Một Vị Thánh Là Ai?
Các thánh có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo.
Một vị thánh là một nhân vật đã chết, nhưng sống mãi trong lòng người Kitô hữu, và chính vì thế mới có việc phong thánh trong Giáo Hội Công Giáo.
Phong thánh, theo sự hiểu biết của người tín
hữu ngày nay là, tên cá nhân được phong thánh sẽ chính thức được ghi vào danh sách
các thánh. Tuy nhiên, ý niệm về thánh có một lịch sử khá lâu đời, bắt nguồn từ
những người Kitô hữu đầu tiên.
Các Thánh Đầu Tiên.-
Tất cả những người Kitô hữu thế
kỷ đầu, đều coi mình là những người thánh trước tiên. Căn cứ vào cuộc sống của họ, người ta đã có
thể bắt đầu phân chia, ai là người thuộc loại thánh nào.
Vào thời điểm này, vì lý do người Rôma ban
hành lệnh cấm đạo, nên những người chết vì đạo được kể là thành phần riêng. Chết vì đức tin là hình thức cao trọng nhất đối
với những người theo Đức Kitô.
Vào thế kỷ đầu, một người tử đạo, đương
nhiên là một vị thánh, mặc dù lúc bấy giờ, chưa chính thức thiết lập việc phong
thánh, mãi đến thế kỷ thứ mười bốn mới có.
Tử đạo là con đường chắc chắn được làm thánh, và cho đến ngày nay cũng vẫn
còn hiệu lực.
Dưới hình thức cấm đạo, người Kitô hữu bị
truy nã, ngay từ thuở Giáo Hội sơ khai, và đặc biệt, vào thế kỷ thứ tư, tử đạo
là phương thế độc nhất, có thể trở nên thánh, vì thế nhiều người Kitô hữu đã cố
gắng được chịu tử đạo, để được làm thánh, và gần gũi Đức Giêsu hơn.
Tử đạo là cơ hội thuận lợi nhất để làm thánh,
bất chợt, hoàng đế Constantinô, thế kỷ thứ tư, ban hành hợp pháp hóa Kitô giáo. Từ đó, người ta phải bước theo Đức Kitô bằng
những đường hướng khác.
40 ngày chay tịnh trong sa mạc của Đức Giêsu
đã gây cảm hứng cho nhiều nhân vật muốn làm thánh, lao mình vào cuộc sống khổ
chế, để gần gũi với Đức Kitô.
Bằng cách nhịn đói, nhịn khát, hoàn toàn
xa lánh các lễ hội, từ bỏ tiền của, quần áo, liều mình chết dần chết mòn - gọi
là tử đạo ’’trắng’’; thay vì chết
ngay - gọi là tử đạo ’’đỏ’’. Lần hồi, hai hình thức tử đạo trên đều được
coi là có giá trị tương đồng, để được làm thánh.
Niềm Tin Trở Nên Thánh Thời Trung Cổ
Tiến dần vào thiên niên kỷ thứ
hai, quan niệm về thánh được khai triển thêm.
Khời đầu, chỉ những người Kitô hữu chết vì tin theo Đức Kitô, tức là chịu
tử đạo, mới được phong thánh, dần dà những nhà truyền giáo và các giám mục đạo
đức cũng được phong thánh. Các cá nhân có
lòng tốt, dấn thân phục vụ giới túng nghèo và những nhà khổ tu, được kể là thành
phần đáng chú ý.
Vào thời trung cổ, những vị sáng lập Dòng
Nữ, cũng như Dòng Nam, được đặc biệt quan tâm tới, trong việc phong thánh; nên các
thánh thường là linh mục, thầy Dòng, Nữ tu, các đấng giữ mình đồng trinh hoặc
goá bụa. Nói cách khác, một vị thánh thường chỉ là người không lập gia đình, vì
họ có điều kiện, qua các việc làm được Giáo Hội ủy thác.
Việc thờ kính thánh, phát triển mạnh từ thời
hậu trung cổ, dần dần lớn mạnh, hợp thành đoàn, khối, phong trào, coi các thánh
như nhân các đấng trung gian, nối kết người Kitô hữu với Đức Kitô.
Người Kitô hữu có một tương quan mật thiết
với vị thánh liên hệ, và có thể cầu cùng Đức Giêsu cho những người tín hữu. Phép lạ dưới hình thức chữa lành bệnh, mà y
khoa không thể giải thích được, có liên quan đặc biệt tới các vị thánh.
Ba Điều Kiện.-
Vào đầu thế kỷ thứ mười bảy, Đức Giáo Hoàng
Urban VIII ban hành các nguyên tắc căn bản trong việc lập hồ sơ phong thánh, và
do đó, Ngài đưa ra ba điều kiện cần hội đủ để có thể được phong thánh. Trải qua giòng thời gian, các điều kiện này dần
dần đã được cụ thể hóa.
Điều kiện thứ nhất, một vị thánh, phải là
nhân vật sống mẫu mực, suốt cuộc đời trần thế.
Nghĩa là, nhân vật đó phải là một người công giáo có đức tin sâu sắc. Giáo Hội không muốn phong thánh cho một nhân
vật theo tà giáo.
Điều kiện thứ hai, một vị thánh phải là một
nhân vật sống đạo đức. Một đời sống đạo đức,
có thể hiểu là một người Kitô hữu, sống theo bảy nhân đức: Tin, Cậy, Mến, Khôn
Ngoan, Chính Trực, Can Đảm và Tự Chế. Điều
kiện này cần có, vì Giáo Hội sợ sẽ phải phong thánh cho một mụ phù thủy hoặc một
pháp sư.
Điều kiện thứ ba là các phép lạ. Nếu người tín hữu cầu xin cá nhân liên hệ làm
một phép lạ, mà được như ý, chứng tỏ cá nhân ấy đang ngự ở bên cạnh Đức Kitô, và
đã chuyển ơn xin tới người tín hữu.
Các phép lạ phải diễn ra sau khi vị thánh
liên hệ đã chết, để có thể được Giáo Hội thừa nhận. Nhưng, ý nghĩa của phép lạ còn tùy thuộc rất
nhiều vào sự hiểu biết của con nguời.
Sức mạnh siêu nhiên có khả năng lôi cuốn các
tín hữu khá mạnh, và một vị thánh liên hệ dễ làm cho nhiều người tin theo, nếu
dư luận loan tải sâu rộng về phép lạ vị thánh ấy đã làm. Một vị thánh đã chết, người ta sẽ tổ chức các
chuyến hành hương đến phần mộ của ngài để cầu nguyện, với hy vọng trở thành nhân
chứng cho một phép lạ nào đó.
Mục đích Đức Giáo Hoàng đưa ra ba điều kiện
nêu trên, cốt là để cho việc thiết lập hồ sơ phong thánh rút ngắn hơn, nhưng nào
ngờ sự việc lại trở nên trái ngược, thời gian kéo dài thêm.
Các chi tiết cần yếu để thiết lập hồ sơ
phong thánh không liên tục đồng nhất, chẳng hạn như vào cuối thế kỷ XVII, mới bắt
đầu đòi phải có các chứng minh về cuộc sống thánh thiện của đấng bậc đáng được
phong thánh.
Thờ Kính Thánh Nhân.-
Vào thời trung cổ, tín hữu chú tâm nhiều tới
việc thờ kính các thánh tích. Thánh tích
là một vật liên hệ tới cá nhân Đức Giêsu hoặc một vị thánh, từ đó có thể phát
sinh ơn thánh.
Cái áo, chiếc quần của vị thánh cũng là một
thánh tích; xác phàm của vị thánh (hài cốt), tuy không hồn, nhưng được kể là thánh
vật cao trọng nhất.
Mục đích của người hành hương là đến kính
viếng thánh tích, của vị thánh liên hệ, đang được lưu giữ ở các thánh đường hoặc
tu viện. Hài cốt của một vị thánh có thể
là chân hay tay; rất hiếm mới có được toàn thể thân mình, lưu giữ tại cùng một
nơi.
Thờ kính thánh nhân nam nữ còn sống – như thế dĩ nhiên chưa thật sự là thánh –
là vấn đề rất thông thường, ở thời trung cổ.
Đức Giáo Hoàng Urban VIII đã ban lệnh cấm tín hữu dựng ảnh tượng ở trong
thánh đường, để thờ kính những cá nhân không được phong. Tuy nhiên, ngài cũng
ban chỉ thị miễn trừ cho những nơi đã làm việc thờ kính như vậy liên tục lâu hơn
một thế kỷ.
Mục đích ban hành việc thờ kính, cũng như
đặt ra các điều kiện để có thể thiết lập hồ sơ phong thánh, và dần dần đổi thành
một án lệnh phong thánh, chứng minh các sự kiện liên quan tới cuộc sống thánh
thiện của một vị thánh.
Cho Đến Thời Hiện Đại.-
Vào những thế kỷ kế tiếp, nhờ
khoa học tiến bộ, y dược phong phú và tối tân, nên các cuộc chữa lành dựa trên
phép lạ đã giảm thiểu tới mức đáng kể. Khi
phép lạ đã trở thành qúa quen thuộc, ở thời trung cổ, thì tín hữu cũng như Giáo
hội hướng nhiều tới cuộc sống thánh đức của từng cá nhân.
Ngày nay, việc phong thánh được kể là phức
tạp, và tiến trình thiết lập hồ sơ cũng chia ra nhiều phần khác nhau. Trước tiên, vị thánh ’’tiến cử’’ phải được phong Á thánh, và sau đó dẫn tới việc thừa nhận
các phép lạ từ vị Á thánh liên hệ.
Phong Á thánh cốt là để cho tín hữu được
phép thờ kính vị Á thánh ấy, trong khu vực do Giáo Hội ấn định. Khi cá nhân làm một phép nhãn tiền, lúc đó cá
nhân đó sẽ được phong Á thánh. Để được
phong hiển thánh, vị Á thánh liên hệ phải làm hai phép lạ, được Giáo Hội chuẩn
nhận.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong
Á thánh và hiển thánh cho nhiều người, hơn tất cả các Giáo Hoàng khác. Người đã phong Á thánh cho 1.340 người và
phong hiển thánh cho 482 người. Một
trong những nhân vật đáng chú ý nhất là Mẹ Têrêsa Calcuta, được phong Á thánh vào
năm 2003.
Trong sổ bộ Giáo Luật hội thánh công giáo
chính thức ghi nhận trên 10.000 thánh.