Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

THÁNG 10 – THÁNG MÂN CÔI

TRINH NỮ MARIA

    Hầu hết mọi người đều cho rằng đức tin công giáo là sự phối kết giữa Trinh Nữ Maria và Kinh Mân Côi.  Và như thế cũng đúng!  Bởi vì Đức Maria đóng một vai trò hệ trọng trong Giáo Hội công giáo. 
     Lý do:  là vì Đức Trinh Nữ Maria là một thiếu nữ Do Thái, được Thiên Chúa mời gọi thực hiện một tác vụ hoàn toàn đặc biệt.  Do đó, Đức Maria cũng giữ một vị thế riêng trong chương trình của Thiên Chúa. 
     Tuy nhiên, Đức Maria là người không mang thiên tính.  Người Kitô hữu công giáo không sùng kính Đức Maria giống như sùng kính Thiên Chúa.  Nhưng họ có thể xin Mẹ cầu cùng Chúa cho họ.
     Vậy là thế nào?  Nghĩa là người tín hữu tin rằng, Đức Maria có thể - thay thế họ - đến với Thiên Chúa, đồng thời còn là dấu chỉ, một Giáo Hội hiệp thông.  Trong Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện lẫn cho nhau, và chúng ta giúp đỡ lẫn nhau để đến gần với Đức Giêsu. 
     Là những người tín hữu công giáo, chúng ta cũng tin rằng, nhờ Đức Maria và các thánh có thể giúp chúng ta đạt được ý nguyện đó.
Lommerosenkrans, Rødlige perler m/rosenduft
     Kinh Kính Mừng Maria là lời nguyện thông dụng nhất đối với người tín hữu công giáo:
Kính mừng Maria
đầy ơn phúc!
Đức Chúa Trời ở cùng Bà!
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ,
và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ,
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời!
cầu cho chúng con là kẻ có tội,
khi này và trong giờ lâm tử .
Amen. 
     Kinh kính mừng mở đầu bằng lời thiên thần Gabriel nói với Đức Maria. Thiên thần được Thiên Chúa sai đến Nazarét để chào thăm Đức Maria, lúc bấy giờ là một thiếu nữ khoảng 13-15 tuổi: ’’Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng’’ (Luca 1,28).
     Sau khi nhận lời làm mẹ Đức Giêsu, Đức Maria lên đường đến thăm người chị họ Elisabéth.  Elisabéth cũng đang mang thai, mặc dù bà đã lớn tuổi. Maria đến và để giúp đỡ Elisabéth, cho đến khi Gioan Tẩy Giả chào đời.  Khi hai người phụ nữ mang thai gặp nhau, Elisabéth kêu lớn tiếng và nói rằng:
     ’’Em được chúc phúc hơm mọi người nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.’’ (Luca 1,42).  Lời của Elisabéth tạo nên phần sau kinh ’’Kính Mừng Maria’’. 
     Từ đó, chúng ta có thể nói rằng, Elisabéth là người đầu tiên đã tung hô Đức Maria.  Và Thiên Chúa hiểu rõ lời Elisabéth nói là do chính tác động của Chúa Thánh Thần; chúng ta đọc và suy niệm nội dung biến cố truyền tin sẽ rõ.  Đức Maria xứng đáng được chúc tụng và tôn vinh vì đã vâng lời Thiên Chúa, và tự nguyện cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa.  Chính vì thế, Đức Maria cũng đã trở nên gương mẫu cho chúng ta. Bắt chước Đức Maria, chúng ta có thể sẵn sàng tuân hành ý Chúa.
     Phần đầu Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta nhắc đến tên Giêsu.  Người là Đấng mà Đức Maria sinh hạ.  Giêsu nghĩa là Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc.
     Khi thiên thần Gabriel đến với Đức Maria, Người nói rằng, bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu (Luca 1,31).  Đối với người Kitô hữu công giáo, Kinh Kính Mừng Maria thực sự là lời cầu nguyện với Đức Giêsu.  Đức Giêsu là trọng tâm Kinh này.
     Xưng tụng ’’Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời’’ là đề cập tới Đức Maria trong toàn bộ Kinh Thánh.  Để cầu nguyện cách xứng đáng phần sau Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta cần hiểu và thừa nhận rằng, là con người, chúng ta không ngừng sai lầm và sa ngã.
     Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa và hủy diệt sự tương quan giữa chúng ta với nhau.  Con người có hai giai đoạn quyết định:  đó là giây phút hiện tại (khi này), vì bây giờ là lúc chúng ta có thể tái chọn Chúa, và giây phút lâm tử, lúc chúng ta sẽ trực tiếp gặp nhan thánh Người. 
     Người Kitô hữu công giáo tin rằng, Đức Maria là đấng, cùng với con Người là Đức Giêsu khẩn cầu cho chúng ta.
     Ngay trong cuộc sống đời thường, chúng ta đã cầu cho nhau rồi.  Nói rõ hơn, một người bạn hiểu hoàn cảnh của ta, luôn xin Chúa ban cho ta những ơn lành.  Người Kitô hữu công giáo không tin tình liên đới đó sẽ chấm dứt saukhi chết. 
     Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, và Người vẫn sống.  Nếu chúng ta tin vào Người, thì chúng ta cũng được hưởng sự sống lại của Người, và cuộc sống vĩnh cửu. Do đó, lời cầu nguyện vẫn còn tiếp nối ngay cả khi chúng ta đã chết.
     Kết thúc lời kinh nguyện này, người Kitô hữu công giáo xin Đức Maria giúp để được vững lòng tin theo Đức Giêsu ngay giây phút hiện tại cũng như trong giờ chết.
     Trình thuật tiệc cưới tại Kana (Gioan 2,1-12) có thể giúp chúng ta hiểu rõ tác vụ của Đức Maria.  Khi gia nhân cho biết không còn rượu nữa, Đức Maria nói, ’’Ngưởi bảo gì, các anh cứ việc làm theo.’’  

Thánh Nữ Mân Côi
     Người hướng về Đức Giêsu, và Người vẫn còn làm như vậy.  Đức Maria bảo tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, hãy làm theo lời Đức Giêsu nói. Từ đó chúng ta có thể suy ra rằng, Đức Maria chính là Đấng dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đến với Đức Giêsu.  Đức Giêsu luôn là trung tâm và là khởi đầu cho toàn thể đời sống đức tin và Giáo Hội.
     Giáo Hội công giáo có bốn tín điều về Đức Maria.  Tín điều là một chủ thuyết và là lối bày tỏ mới về đức tin cổ truyền.  Tín điều là một bổn phận mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải thi hành.  Tín điều không phải là một mới lạ bổ khuyết cho đức tin, nhưng là một việc làm để củng cố niềm tin và được trình bày với một cách mới, như chúng ta có thể hiểu như hiện nay. 
     Tín điều đã từng gây nhiều thắc mắc và khó khăn, đồng thời tạo nên những cuộc tấn công nhằm vào đức tin của chúng ta, mãi cho đến ngày nay.  Một công đồng đại kết hoặc Đức Giáo Hoàng (ex cathedra-tại chức) mới có quyền ban hành một tín điều.
     Giáo Hội công giáo có bốn quyết định (tín điều) về Đức Maria, buộc phải tin:
·      Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa – (lễ cử hành ngày 1 tháng giêng).
·  Đức Maria, trọn đời đồng trinh – (lễ truyền tin cử hành ngày 25 tháng 3).
·  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội – (lễ cử hành ngày 8 tháng 12).
·  Đức Maria hồn xác lên trời – (lễ cử hành ngày 15 tháng 8).
Hai tín điều đầu, tìm thấy ngay ở trong Kinh Thánh.  Hai tín điều sau đặt trên nền tảng Kinh Thánh, và được suy diễn thêm.
     Tất cả những điều nêu trên đều có trong ‘’Kinh Kính Mừng Maria’’ .
1.-  Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
     Trong Kinh Kính Mừng Maria, chúng ta xưng tụng Đức Maria, ‘’Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời’’.  Trong câu này, chúng ta tưởng nhớ tới tín điều thứ nhất, liên quan tới vai trò Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.  Những gì chúng ta đề cập tới Đức Maria, là có sự liên quan sâu sắc tới Đức Giêsu.  Bởi vì, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nên Đức Maria dĩ nhiên mang tước hiệu ‘’Mẹ Thiên Chúa’’. 



Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
     Thánh sử Mátthêu và Luca tường thuật việc Đức Maria đã sinh Đức Giêsu.  Nhưng hài nhi nằm trong máng cỏ không phải là một em bé hoàn toàn bình thường.  Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người.  Do đó, Đức Maria được gọi là ‘’Mẹ Thiên Chúa’’ . 
     Như thế câu này không đả động gì đến Đức Maria, mà ám chỉ Đức Giêsu.  Người là Con Thiên Chúa.  Tuy nhiên, Đức Maria không phải là một nữ thần hay tiên nữ, nhưng là một người như tất cả chúng ta.  Nhưng đặc biệt ở chỗ là Thiên Chúa đã chọn Người thi hành một tác vụ hết sức đặc biệt. 
     Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Người đã ký thác Đức Mẹ cho Gioan, người môn đệ của mình.  Đồng thời, Người thỉnh cầu Gioan chăm sóc Đức Maria.  Do đó, truyền thống công giáo luôn coi Đức Maria là một người mẹ của tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, vì bà đã sinh hạ Đức Giêsu (Gioan 19,26-27). 
     Qua Bí Tích Rửa tội, tất cả chúng ta trở nên con cái Chúa.  Và Đức Maria, như một người mẹ, giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
2.-  Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh.  
     Bởi vì Đức Maria được chọn để trở nên mẹ Đức Giêsu, nên Thiên Chúa đã cư ngụ trong Mẹ bằng một cách thế hết sức đặc biệt. Người Kitô hữu không quên điều ấy khi nói, ‘’Đức Chúa Trời ở cùng Bà’’.
     Thánh sử Mátthêu và Luca đều là nhân chứng việc Đức Maria cưu mang Đức Giêsu, bằng cách Chúa Thánh Thần ngự xuống trên bà.  Do đó, Đức Giêsu không có người cha hoặc người mẹ bằng thể lý. 
Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh
(Thiên Thần Truyền Tin Cho Đức Maria)
     Chúng ta không vì lý do gì để có thể nghi ngờ những trình thuật của các thánh sử.  Nếu Đức Giêsu chỉ là một người Do Thái sùng đạo và là một người tốt lành, thì chắc chắn Người cũng sẽ không thể nào sống mãi như hiện nay.
     Nhưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Người còn sống.  Giả như Người không phải là Con Thiên Chúa (theo như trình thuật giáng sinh), thì chúng ta cũng không có thể gặp gỡ Người như Đấng Phục Sinh như ngày nay.
     Nếu chúng ta hoàn toàn tin rằng, Đức Giêsu được sinh ra bởi một trinh nữ, thì chắc chắn có người sẽ thắc mắc.
     Việc trinh nữ sinh đẻ là một thử thách đức tin của chúng ta.  Chúng ta thực sự có dám tin rằng, Thiên Chúa có thể chứng tỏ cho chúng ta những điều mà chúng ta không thể ngờ được không? 
     Điều không thể, đối với Thiên Chúa lại có thể. Việc trinh nữ sinh đẻ là tặng vật Thiên Chúa ban để cứu độ nhân loại. Chúng ta được cứu độ là vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta xứng đáng được hưởng ơn ấy.  Đúng là tặng vật Thiên Chúa ban cho chúng ta.
     Trinh Nữ Maria là một tấm gương trong đức tin. Đức Maria là một người hoàn toàn tín tưởng Thiên Chúa sẽ làm những việc cả thể, mà người đời không thể thực hiện được. Người công giáo tin rằng, Đức Maria trọn đời đồng trinh. 
     Trong Kinh Thánh Tân Ước đề cập tới ‘’anh chị em’’ của Đức Giêsu.  Những lời này ám chỉ cả về anh chị em theo thể lý (ruột thịt), nhưng cũng có thể là anh chị em họ nữa. Tại Trung Hoa quốc gia, ngày nay ngưòi ta vẫn coi anh chị em họ như ‘’anh chị em’’ ruột thịt.
3.-  Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
     Người công giáo tin rằng, Đức Maria vào đời không mắc tội tổ tông (truyền).  Theo họ, Đức Maria có tràn đầy tình yêu và ơn phúc của Thiên Chúa, bởi vì tình yêu và ơn cứu độ nơi Đức Giêsu đã tác động sẵn trong Đức Maria.  Nhờ ơn ấy mà Đức Maria mới xứng đáng lãnh nhận sứ vụ làm Mẹ Đức Giêsu, và Người vẫn còn được gìn giữ không bị vướng mắc tội tổ tông.


The Immaculate Conception  of the Blessed Virgin Mary
Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
     Đức Maria được hoàn tự do chọn Chúa hay từ chối Chúa, giống như người đầu tiên của nhân loại cũng có tự do tuân hành ý Chúa hoặc quay mặt làm ngơ.
     Nhưng, thế nào gọi là tội tổ tông.
     Sách Kinh Thánh Cựu Ước kể về tội sa ngã của những con người đầu tiên, được Thiên Chúa yêu thương, nhưng không dám trực diện với Thiên Chúa, thấy mình trần truồng, vì bất tuân giữ lời răn bảo của Người, nhưng quay lưng phản nghịch, nên đã để cho sự dữ (tức ma qủi) thắng sức mạnh con người. 
     Sự dữ (tức ma qủi) là kẻ chống đối Thiên Chúa.  Và hiện nay tội lỗi (tức là sự chết) đã len lỏi vào cuộc sống.  Giáo Hội coi đó là hậu quả, mỗi khi nhắc tới tội tổ tông.  Hướng về sự dữ (tức ma qủi) là thuộc về bản tính con người hay sa ngã. 
     Mang theo tội lỗi, tức là để cho sự chết xâm nhập vào thế gian. Từ khi sa ngã phạm tội, con người có khuynh hướng chiều theo tội lỗi và đó cũng là kết qủa của long dạ ích kỷ.  Tội lỗi khiến chúng ta trở nên yếu đuối trước quyết định chọn lựa điều tốt lành.
     Điều này có thể dễ nhận thấy nơi con cái và cha mẹ.  Nhiều thanh thiếu niên muốn làm điều tốt lành hơn cha mẹ chúng, nhưng đáng trách ở chỗ là cha mẹ có cách ứng xử khác, thí dụ như họ dễ nổi nóng hoặc không dành nhiều thì giờ cho con cái. 
     Khi con cái đã thấm nhuần kinh nghiệm ấy, thì khi cũng trở thành cha mẹ, họ không đủ khả năng hành động tốt hơn… Đúng, rau nào sâu ấy là thế.
     Nhưng, người công giáo cho rằng, con người không đến nỗi qúa xấu xa tồi tệ. Nhân tri sơ, tính bản thiện, bởi vì con người được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương.  Nhưng tội lỗi lỗi đã làm cho con người trở nên yếu đuối và hành động sai lầm.
     Một tấm gương, rơi xuống trên sàn nhà, bị nứt.  Nhìn vào gương, chúng ta thấy mặt mình không lành lặn, rõ ràng nữa; mặc dù tấm gương còn dùng được. Con người cũng thế. 
     Tội lỗi gây thương tích cho con người; nhưng, dù sao chăng nữa thì cuộc sống con người vẫn luôn được Thiên Chúa che chở và yêu thương.
     Thiên Chúa muốn giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi.  Đức Maria góp phần vào việc này, bằng cách thưa lời xin vâng cùng Thiên Chúa để trở nên mẹ Đức Giêsu. Vì Đức Maria vẫn được che chở, không mắc tội tổ tông truyền, nên bà có thể thành tâm đóng góp vào chương trình của Thiên Chúa. 
     Đức Maria nói lời ‘’xin vâng’’ mà không dè dặt hoặc ngờ vực, vì bà đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa.  Đức Maria nói lời xin vâng, nhưng không hoàn toàn hiểu việc bà muốn đóng góp.  Đó chính là tấm gương cho những người sẵn sàng trả lời hai tiếng xin vâng, mỗi khi được Thiên Chúa mời gọi và trao cho một tác vụ, mặc dù không biết hậu qủa sẽ ra sao. 
     Evà đã làm đảo lộn chương trình của Thiên Chúa và ương ngạnh, mặc dù bà được tự do trả lời hai tiếng ‘’xin vâng’’ vào chương trình của Thiên Chúa.
     Trái lại, Đức Maria đã hợp tác với Thiên Chúa, và vì thế, bà trở nên mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta.  Đức Maria có thể thành tâm trả lời hai tiếng xin vâng vào chương trình của Thiên Chúa, bởi vì bà không vướng mắc tội tổ tông.
     Nhờ công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu bằng cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Maria khỏi tất cả mọi tội lỗi.  Thiên Chúa làm như vậy để chuẩn bị trao cho Đức Maria một tác vụ và có một ‘’nơi’’ để Người Con ‘’cư ngụ’’. 
     Trong Đức Maria, Thiên Chúa ước mong một thế giới hiện thực. Tất cả mọi người được mời gọi trở nên như Đức Maria: là những cá nhân được ơn cứu độ - từ loài người cho đến các tạo vật khác.
4.-  Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
     ‘’Thánh Maria Đức Mẹ…. Cầu cho chúng con là kẻ có tội…’’ Đó là đoạn kết Kinh Kính Mừng Maria.  Đức Maria có thể cầu bầu cho chúng ta, bởi vì Đức Maria đã được cất nhắc lên trời. 
     Đức Maria và các thánh có thể cầu cùng Chúa cho chúng ta, bởi vì các đấng đã  trở nên toàn thiện và đến ở cùng Thiên Chúa.
     Giáo Hội công giáo liên kết trong đức tin Do Thái giáo, dâng lời ca tụng cả Abraham, Isak và Jacob, trong khi họ chỉ ngợi khen danh Chúa. Đức Giêsu đã nói:
’Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.’’ (Máccô 12,27).
Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
    Đức Maria được cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác, bởi vì con người là một sự hiệp nhất của hồn và xác.  Cũng vậy, thân xác chúng ta tương quan với Thiên Chúa.  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã trở nên con người và mặc lấy xác người phàm. 
     Đức Giêsu không đến để cứu chuộc linh hồn con người, nhưng cứu chuộc một nhân vị, gồm thân xác và linh hồn.  Đức Giêsu tự sống lại - với thân xác - từ cõi chết.  Do đó, người công giáo tin ‘’xác loài người sẽ sống lại’’.
     Đức Maria đã nói lời xin vâng với Thiên Chúa bằng toàn thể con người của mình. Do đó, Thiên Chúa đã chấp nhận lời xin vâng của Đức Maria cũng bằng toàn thể con người của mình.
     Vì thế, Thiên Chúa đã ban thưởng cho Đức Maria, sau khi chết, được lên trời cả hồn lần xác.
     Do đó, Đức Maria là niềm hy vọng đối với chúng ta.  Đức Maria đang ở với Thiên Chúa là lời hứa vững chắc mà chúng ta phải tin nơi Đức Giêsu: một ngày nào đó, chúng ta - cả hồn lẫn xác - cũng sẽ được sống với Chúa.  
     Thân xác chúng ta phải được gìn giữ và bảo vệ ở đời này (dĩ nhiên chúng ta không biết ngày nào, và sự kiện sẽ diễn ra sao), cho đến khi chúng ta sống lại từ cõi chết.
     Do đó, chúng ta nên cẩn trọng chăm nom, săn sóc thân-xác chúng ta, bằng cách ăn uống đầy đủ, hợp vệ sinh, ngủ nghỉ điều hòa, tránh tình trạng xáo động, gò ép, giữ gìn sức khỏe và ăn mặc xứng hợp.

          













            



                         

Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Tiến Sĩ Giáo Hội – Ngày 1 Tháng 10

Các bài đọc trích sách: - Gióp 1,6-22; - Thánh Vịnh 17,1.2-3.6-7; - Luca 9,46-50

 
Nép Mình Bên Chúa An Bình Thảnh Thơi

 
     Trong một bài thơ cổ điển có câu:  ’’Người sinh ra hôm nay, và chết vào ngày mai, mất đi những giờ phút hưởng lạc, nhưng không phải chịu những tháng ngày phiền muộn.’’  Nhà thơ cổ Hy Lạp Sophocles viết:  ’’Tốt nhất là đừng sinh vào đời… và thứ nhì là càng chết sớm càng tốt, ngay lúc mới sinh ra..’’

     Ông Gióp rất tán thành việc thẩm định cuộc đời một cách bi quan như trên.  Ông Gióp muốn đừng bao giờ sinh ông ra đời thì hơn, hoặc là cho ông được chết ngay lúc mới sinh, thì rất tốt.  Và ông còn phàn nàn, sao trời không cho những người đã không muốn sống, chết quách cho xong. 

     Có thể chúng ta không cảm thông nổi nỗi lòng của ông Gióp, bởi vì ông đã phải gánh chịu qúa nhiều tai ương, hoạn nạn.  Nhưng thực tế, Thiên Chúa có một chương trình cụ thể dành riêng cho ông, và sau này Người đã ban cho ông mọi sự tốt đẹp hơn cả lúc trước.

     Mặc dù những bất hạnh diễn ra trong cuộc đời, nhưng chúng ta nên tiếp tục đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng hằng yêu thương chúng ta. 

     Ông Gióp có một sai lầm là ông muốn đừng bao giờ sinh ông vào đời, đồng thời ông còn nguyền rủa ngày sinh của ông. 

     Nếu chúng ta hối hận việc chúng ta sinh vào đời là chúng ta đang từ chối món qùa qúi báu Chúa ban .  Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, và thiết lập cho mỗi người một chương trình riêng.  Khi gặp khó khăn, và nếu tỏ ra nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, hoặc cảm thấy áy náy, khó chịu, chúng ta nên hướng lòng lên với Chúa.

Thánh Têrêsa Hái Đồng Giêsu (-Lisieux)

     Hôm nay, ngày lễ kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thành Lisieux.  Mặc dù là một nữ tu dòng kín, qua đời lúc mới 24 tuổi, nhưng kể từ ngày Têrêsa qua đời đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn tìm đến với thánh nữ. 

     Thánh nữ Têrêsa đã từng chịu nhiều thử thách trong thời gian cuối đời.  Nhưng thánh nữ không bao giờ than thân trách phận, oán ghét cuộc đời, và chỉ ước ao được chết theo ý Chúa, chấp nhận đau khổ vì lòng tin yêu Chúa.

     Thánh nữ viết:  ’’Tôi muốn chịu bệnh tật suốt cả đời tôi, nếu việc này đẹp lòng Chúa, và vui chịu như thế bao lâu Chúa muốn; chỉ với một tâm hồn yêu mến mà thôi.’’
Cùng với thánh nữ Têrêsa,
chúng ta nguyện rằng:
’’Ôi! lạy Chúa! Con nài xin Chúa ban cho con
và cho tất cả những người thân yêu của con ơn
luôn làm mọi sự hoàn toàn theo thánh ý Chúa,
và hân hoan đón nhận niềm vui,
cũng như nỗi buồn
trong cuộc sống trần gian,
hầu sau này, con được kết hợp
với Chúa trên nước hằng sống.  Amen.’’

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

Chúa Nhật XXVI Thường Niên - Năm B

Các bài đọc trích sách: - Dân số 11,25-29; - Thánh Vịnh 19,8.10.12-14; - Giacôbê 5,1-6; - Máccô 9,38-43.45.47-48

 
Quyết Định Chúa phù Hợp Chân Lý

 
     Chúng ta có cho rằng tội lỗi là vấn đề nghiêm trọng trong cuộc sống đời mình không?  Lời cứng rắn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay buộc chúng ta phải dò xét lương tâm của mình. 

     Đức Kitô Giêsu sẽ trừng phạt bất cứ ai ’'làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin vào Ta phải sa ngã phạm tội’’ (câu 42).  Đức Giêsu nói rõ, thà mất một tay, một mắt hoặc một chân, còn hơn là phạm tội và bị án phạt hỏa ngục.

     Chúng ta thường coi nhẹ một số vấn đề, nhất là những gì liên quan tới tội lỗi.  Là kẻ tội lỗi, lại đang sống giữa một thế giới tràn bất chính và ngập gian tà, nên chúng ta coi tất cả các điều xấu xa diễn ra trong cuộc sống hằng ngày đều tầm thường, không đáng chú ý, bởi vì, ai cũng hành động như vậy. 

     Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn nói tới một căn bệnh có tính cách đe dọa cuộc sống của chúng ta hơn, và cần phải cấp thời đưa ra mổ xẻ, chữa trị. 

     Chúng ta chỉ có thể hiểu rõ ý nghĩa lời răn dạy trong Tin Mừng, khi nhận biết mình đang thực sự lâm vào tình cảnh cực kỳ khẩn trương, do tội lỗi gây nên, làm mất ơn nghĩa Chúa, và rất cần ơn tha thứ để được cứu độ. Chỉ khi nào cảm thấy như vậy, lúc đó chúng ta mới khiêm nhường trở về với Đức Kitô trong thống hối và ăn năn, đồng thời xin Người dủ lòng thương ban ơn tha thứ.  

     Nếu chưa coi tội lỗi là vấn đề nghiêm trọng, khẩn trương thì chúng ta chưa hiểu rõ ý nghĩa của thập giá.  Đó là cái giá mà Đấng Cứu Chuộc đã trả để giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi, satan và sự chết. 

     Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vì thế bất cứ một thứ tội nào, dù nhỏ bé nhất, cũng là một sỉ nhục đối với Đấng Cực Thánh.

     Do đó, là con cái Chúa, chúng ta phải hết sức cố gắng loại bỏ tội lỗi trong cuộc sống hằng ngày.  Đây là một sứ điệp có tính cách cực đoan, nhưng không vì thế mà chúng ta tỏ ra nản lòng, thối chí. 

     Mặc dù tội lỗi là vấn đề nghiêm trọng cần lưu ý, nhưng chúng ta nên biết rằng, tội lỗi to lớn thế nào cũng có thể được Chúa tha thứ. Đức Giêsu Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, vì thế, mỗi khi vấp phạm, chúng ta mau mắn chạy đến với Người, sẽ được Người ban ơn tha thứ.  

     Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta đã trực tiếp tham dự vào sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô, vì thế tội lỗi là sự chết không còn làm chủ được chúng ta nữa.

     Mặc dù mỗi ngày chúng ta vẫn còn phải đương đầu với tội lỗi, nhưng nhờ sức mạnh mới từ Đức Kitô đang hoạt động trong chúng ta, nên chắc chắn chúng ta có thể chiến thắng được.

     Mỗi khi lầm lỗi, nhưng chúng ta đón nhận ơn tha thứ, để tiếp tục cuộc hành trình đến với Đấng Cực Thánh, không ngừng mời gọi chúng ta.
Lạy Đức Kitô Giêsu,
chúng con cảm tạ, vì trên thập giá,
Chúa đã toàn thắng
cuộc chiến tiêu diệt tội lỗi.
Xin Chúa dạy chúng con,
ghét bỏ tội lỗi và
yêu mến sự thánh thiện,
                                                                      đồng thời, nhờ ơn
Chúa giúp,
chúng con cố gắng mỗi ngày,
càng trở nên thánh thiện hơn.  Amen.’’   

 

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Các Tổng Lãnh Thiên Thần: Michael; Gabriel, Rafael – Ngày 29 Tháng 9

Các bài đọc trích sách: - Daniel: 7.9-10 hoặc Khải Huyền: 12,7-12; - Thánh Vịnh: 138,1-5; - Gioan 1,47-51

Chúc Tụng Chúa Đi, Toàn Thể Thiên Binh


     Bảy tổng lãnh thiên thần được gọi là bảy vì sao sáng chói.  Theo Sách Khải Huyền, đó là bảy thiên thần chầu chực trước thiên nhan Thiên Chúa. 

Tổng Lãnh Thiên Thần Michael.-

Tổng lãnh thiên thần Michael
     Michael là tổng lãnh thiên thần sáng láng nhất.  Trong ngôn ngữ Do Thái, tên Người có nghĩa là ’’Đấng như Thiên Chúa’’.  Tài liệu thu được từ Biển Chết gọi Người là ’’Thái Tử Sự Sáng’’.  Michael chăm lo cho tất cả các chức thủ lãnh.  Người là viên chỉ huy đạo quân thiên quốc, và Người có sức mạnh tuyệt vời chống lại sự dữ.  Mỗi khi kẻ đóng vai trừ tà thần muốn xua đuổi các thần dữ, đều kêu cầu Người. Michael cũng là thiên thần bảo trợ đời sống hôn nhân và âm nhạc.  Các loại hoa lan, cây chua (chanh) và nguyệt quế đều được Người che chở.  Các loại mèo, bướm cũng được Người bảo vệ.  Vàng tượng trưng thiên thần Michael.  Mầu lá cây đậm, da trời nhạt, hường và vàng là dấu chỉ thiên thần Michael.

     Michael là thiên thần thủ lãnh, được mô tả như một chiến binh luôn ở vị thế giao tranh, với áo giáp, tay cầm gươm. Michael đón nhận linh hồn kẻ chết và cân lường họ vào ngày phán xét chung, đồng thời phụ trách việc ’’tách cừu ra khỏi dê’’.  

Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel.-

     Tổng lãnh thiên thần Gabriel là một trong các sứ giả (truyền tin) của Thiên Chúa.  Người là chúa tể tầng trời cao thẳm (thứ nhất); ngoài ra Người còn là tổng trấn Vườn Địa Đàng.


Tổng lãnh thiên thần Gabriel
     Gabriel là thiên thần nữ giới duy nhất, bên cạnh các tổng lãnh thiên thần nam giới.  Biết Người thuộc nữ giới, là vì trong Kinh Thánh Cựu Ước viết rằng, Người ngự bên tả Chúa Cha.  Từ thời tiền sử, Giáo Hội dành riêng bên tả cho nữ giới.  Đức Giêsu (là giới nam) ngồi bên hữu Chúa Cha.  Tín hữu Hồi Giáo tin rằng Người, Jibril/Gabriel đọc lời Thiên Chúa cho tiên tri Mohammed viết thành tác phẩm thánh Korane, và họ coi Người là một thiên thần sự thật.

     Chúng ta biết Gabriel là thiên thần truyền tin cho Đức Maria là Mẹ sẽ sinh một người con trai, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Trước kia, chính Gabriel cũng đã báo cho Giacaria biết việc Gioan Tẩy Giả vào đời.

     Dân gian cho rằng Gabriel được chỉ định coi sóc việc thụ thai và sinh hạ các đấng thánh (Gioan Tẩy Giả và Giêsu).  Gabriel là thiên thần đã xua đuổi thần phản kháng trường kỳ ra khỏi Địa Đàng, và hướng dẫn ’’linh hồn’’ ngự trong cung lòng suốt 9 tháng.  Hoa huệ biểu tượng thiên thần Gabriel.

Tổng Lãnh Thiên Thần Rafael.-

Tổng lãnh thiên thần Rafael
     Rafael là thiên thần có mặt trong Hồi giáo, Do Thái giáo, Kitô giáo. Rafael là thiên thần chữa trị bệnh tật – Rafa nghĩa là bác sĩ, lang y; còn Rafael nghĩa là ’’Thiên Chúa chữa lành’’. Tay Người cầm chiếc gậy thủy ngân, biến đổi thành con rắn lửa. Người có thể dùng sức mạnh của gió chuyển hóa mọi sự thành sức mạnh tuyệt vời. Rafael là thiên thần truyền thông, thân thiện, vui tươi, an ủi những kẻ yếu đau thể xác cũng như tâm hồn. Người là viên canh giữ Cây Sự Sống.  Mầu lá cây và xanh da trời tượng trưng thiên thần Rafael.

Sariel là thiên thần của kẻ chết.

Uriel là thiên thần, tay cầm kiếm lửa, có nhiệm vụ canh giữ cửa Thiên Đàng, là thiên thần đã từng giao chiến với Jacob.

Raguel là thiên thần ’’đưa mắt quan sát’’ các thiên thần khác xem có ứng xử tốt không. Người là thiên thần của Vũ Trụ và có nhiệm vụ canh giữ tầng trời thứ hai.

Remiel là thiên thần Chúa chỉ định vào chức vụ dẫn các linh hồn tới toà phán xét.

     Ngoài 7 tổng lãnh thiên thần kể trên, còn có:

Raziel là tổng lãnh thiên thần hoạt động trong các binh đoàn và thi hành sứ vụ huyền bí nhất.

Metatron, theo lòng tin của dân Do Thái, là tổng lãnh thiên thần cao trọng hơn trong số các tổng lãnh thiên thần.  Người được gọi là ‘’tiểu vương’’ hoặc ‘’thiên thần của Giao Ước’’, và là trung gian nối kết Thiên Chúa với nhân loại.

    Đức tin đòi hỏi nơi chúng ta một sự hiểu biết cả về hai thế giới: hữu hình và vô hình, vô thủy và vô chung, thiên đàng và hỏa ngục. 

     Cho rằng ngày nay chân trời đã bị chế ngự, nhưng chúng ta hãy thử đưa mắt nhìn vũ trụ vượt khỏi tầm xa bình thường một chút, sẽ thấy những sự khác lạ, như thánh sử Gioan đã ghi nhận.

     Trong một thị kiến, thánh Gioan thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, hợp với các thiên thần của Thiên Chúa thuộc đủ mọi tầng lớp, thứ bậc, đang giao tranh kịch liệt với Luxiphe cùng đồng bọn nổi loạn.  Thiên thần Michael thắng thế và đã đẩy satan xuống hỏa ngục.  Sức mạnh thần diệu ấy được kể là phát xuất từ thiên đàng, nên Đức Giêsu mới nói:  ’’Thầy đã thấy satan như một tia chớp từ trời sa xuống’’ (Luca 10,18).

     Nhân cách hóa thực chất của sự dữ, sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo viết:  ’’Sự dữ, tức điều ác, không phải là một quan niệm trừu tượng, nhưng là một ngôi vị, là satan, là kẻ dữ, là thiên thần chống lại Thiên Chúa.  Ma qủi (dia-bolos) là ’kẻ chắn ngang’ làm cản trở chương trình của Thiên Chúa và ’công cuộc cứu độ’ của Người, được thực hiện trong Đức Kitô’’ (GLCG - 2851). 

     Chúng ta có chung một kẻ thù, mà kẻ thù đó oán ghét Đức Giêsu Kitô nhiều hơn oán ghét chúng ta, nhưng khi tấn công chúng ta là nó có ý nhạo báng Thiên Chúa.

     Chương trình của nó là làm cho đức tin của chúng ta bị suy yếu.  Chiến lược của nó là chỉ trích và tố cáo.  Tài sản của nó là lừa dối và lường gạt. 

     Chỉ trích, dèm pha, tố cáo hoặc buộc tội không có mục đích nào khác hơn là tiêu diệt, gây tổn thương hoặc làm ngã lòng đối phương.  Tuy nhiên, người vui lòng đón nhận những chỉ trích và tố cáo sẽ được chúc phúc.  Ngoài ra, lương tâm còn được hướng dẫn đi vào con đường thống hối và cải thiện.

     Chúng ta cần phân biệt giữa buộc tội và lên án.  Những ai ở trong Đức Giêsu Kitô, thì không còn bị lên án nữa (Rôma 8,1). Giống như tổng lãnh thiên thần Michael vật ngã satan thế nào, chúng ta cũng nên dùng thế lực của lý trí để áp chế hành động và tâm tư đen tối của mình như vậy.  Chúng ta phải đương đầu với một trận chiến của lý trí.  Chúng ta phải chiến thắng như các thánh đã chiến thắng, nhờ máu Con Chiên (Kh. 12,11). 

     Để có thể đạt được chiến thắng, chúng ta phải can đảm tuyên xưng sự vinh thắng của Đức Giêsu Kitô.  Đức Kitô đã chiến thắng thủ lãnh thế gian. 

      Mừng kính các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Rafael cũng là dịp chúng ta thành tâm công bố sự vinh thắng của Đức Giêsu Kitô, nhờ thánh giá và sự phục sinh của Người.
’’Lạy Chúa,
xin tẩy xóa tội lỗi con.
Xin bảo vệ và gìn giữ con khỏi sa
chước cám dỗ của qủi dữ đầy gian ác.
Xin giúp con hết lòng tín thác vào Chúa,
vì như lời thánh Ambrôsimô nói:
Không gì có thể kháng cự nổi
kẻ ẩn náu trong Chúa.  Amen.’’


  

 

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Thánh Vinh Sơn Phaolô (Vincent de Paul), Linh Mục - Ngày 27 Tháng 9

Thánh Vinh Sơn Phaolô (Vincent de Paul), Linh Mục  -  Ngày 27 Tháng 9
Thánh Vincent de Paul, Sáng Lập Viên
Dòng Nữ Tử Bác Ái
Các bài đọc trích sách; 
- 1 Côrintô 1,26-31; - Thánh Vịnh 111;  Mátthêu 9,35-38.

Phục Vụ Người Nghèo - Cầu Nguyện -  
Và Các Việc Khác

Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô (Vincent de Paul):

Năm 1581, ngày 24/04, sinh tại làng quê Pouy (Landes), nước Pháp.
Năm 1600, thụ phong linh mục tại Château-L’Evêque (Dordogne).
Năm 1604, đậu cao đẳng thần học.
Năm 1608, cư trú tại Rôma.
Năm 1610, linh hướng cho nữ hoàng Margot (Margueritte de  
                   Valois) - người vợ đã ly dị của vua Henry IV - tại Paris.
Năm 1613, tư giáo cho Philippe Emmanuel de Gondi, (con trai thứ
                   ba của Albert).  Linh hướng tại trại giam giữ những
                   người nô lệ theo đạo công giáo.
Năm 1717, linh mục chính xứ tại Châtillon-les-Dombes; sáng lập
                   viên các Tổ Chức Bác Ái dành cho giới nữ.
Năm 1619, trưởng linh hướng các trại giam giữ những người nô lệ
                   theo đạo công giáo.
Năm 1925, sáng lập viên Hội Thừa Sai ‘’La Congrégation de la
                   Mission’’ với mục đích canh tân chức linh mục, cứu   
                   giúp người nghèo và truyền bá Tin Mừng toàn thể nước
                   (Pháp).
Năm 1633, cùng nữ tu Louise de Marillac thành lập Dòng Nữ Tử
                   Bác Ái.
Năm 1660, qua đời ngày 27 tháng 9 tại Saint-Lazare.
Năm 1737, được tôn phong hiển thánh.
Năm 1885, được tôn vinh là đấng bảo trợ các tác vụ bác ái
     Thánh Vincent de Paul và Dòng Nữ Tử Bác Ái:
     Vincent de Paul – sau này là thánh Vincent – thành lập một tu hội, vào năm 1633, và đặt tên là ’’Les Filles de la Charité’’, dịch sang tiếng Việt Nam là ’’Dòng Nữ Tử Bác Ái’’.

     Chữ ’’fille’’ có nghĩa, vừa là ’’con gái’’, vừa là ’’thiếu nữ’’.  Khi đặt tên cho nữ tu hội bác ái này bằng một chữ mang hai nghĩa, không phải là Vicent de Paul không có dụng ý. Vincent de Paul muốn qui tụ một số thiếu nữ thiện chí, can trường, dấn thân trợ giúp các phụ nữ thuộc giới qúi tộc trong công tác từ thiện/bác ái; đó là việc săn sóc những bệnh nhân nghèo.   Xã hội thời bấy giờ coi ’’con gái’’ như là con sen/tớ gái; nhưng thánh Vincent de Paul và Louise de Marillacs - (sinh ngày 12/08-1591 tại Paris, được các nữ tu ĐaMinh giáo huấn, thành hôn năm 1613 với viên sĩ quan Antony LeGras. Trở thành nữ tu, sau khi Antony LeGras qua đời năm 1625. Qua đời ngày 15/03-1660) - quan niệm rằng, họ là hiện thân Đức Giêsu Kitô đóng vai phục vụ, và Đức Giêsu Kitô hoá thân nơi các bệnh nhân nghèo khó.

     Người ta thường gọi cộng đoàn này là ’’Các Nữ Tu Thánh Vincent’’ hoặc ’’Các Nữ Tu Bác Ái’’ hay vắn tắ hơn là ’’Các Nữ Tu’’. 

     Tên chính thức (theo giáo luật) của tu hội là Cộng Đồng Nữ Tử Bác Ái của Thánh Vicent de Paul, Tỳ Nữ của những người nghèo khó; ngôn ngữ thông dụng là ’’Các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent de Paul’’.

     Ngày nay, khi nói tới ’’Các Nữ Tu Bác Ái’’ là người ta hiểu ngay đó là ’’Các Nữ Tu do thánh Vincent sáng lập’’.  Các Nữ Tu thánh Vincent mang trang phục mầu xám, nên được gọi là Các Nữ Tu Mầu Xám (Les Soeurs Grises).

     Bắt đầu từ năm 1685, các nữ tu thánh Vincent mặc áo Dòng mầu xám hoặc xanh, đầu đội khăn trắng-cao-cứng (la cornette). Từ đằng xa, người ta đã có thể nhìn thấy chiếc khăn cứng-to, dấu hiệu rất nổi tiếng của các nữ tu thánh Vincent, suốt chiều dọc lịch sử; mãi đến năm 1964, các nữ tu thánh Vincent mới đổi chiếc  ’’la cornette’’ thành chiếc khăn trùm nhỏ gấp lại.

     Chiến Tranh và Sứ Vụ Bác Ái.-
Chiến tranh giữa Nga, Anh và Pháp vào những năm 1853 – 1856 thực sự bùng phát tại ba cánh: Krim (bán đảo của Nga, giáp ranh biển đen), vùng biển Đông và Thái Bình Dương.  Các quốc gia tham chiến huy động và gửi các nữ tu và nữ y tá, với trang bị cận đại, đến phục vụ tại các quân y viện đặt tại hậu cứ những vùng giao tranh.

     Một số nữ ý tá Nga dẫn đầu, theo sau là một đội nữ tu bác ái, tham dự phục vụ tại khu phòng vệ Sevastopol (một thành phố biển tại Ukraine, dọc bờ biển đen).  Một số nữ tu bác ái thánh Vincent đông đảo hơn cùng với các y tá Anh, dưới sự điều động của Florence Nightinggale (một nữ thường dân quên mình vì nghĩa vụ nhân đạo), đến phục vụ tại các bệnh viện đặt tại Constantinopolis (hoặc Istanbul ngày nay). 

     Số tử vong và thiệt hại trong các trận chiến này được kể là rất cao, vì vũ khí đã được tân tiến hóa.

     Cho đến hiện nay, hầu hết các nước (tân tiến cũng như còn phát triển) trên toàn cầu, đã và đang có các cộng đoàn Bác Ái thánh Vincent de Paul hoạt động để giúp đỡ những kẻ dốt nát, bệnh tật, túng nghèo (tinh thần cũng như vật chất).    

     Là tông đồ phục vụ thành phần nghèo khó, thánh Vicent đệ Phaolô (St. Vincent de Paul) để lại cho hậu thế những lời nhắn bảo sau đây:
     ‘’Chúng ta không nên xét đoán kẻ nghèo khó qua cách ăn mặc, trang điểm, sắc diện bên ngoài, hoặc qua khả năng trí tuệ, bởi vì họ thường là những người vụng về, quê mùa.  Ngược lại, nếu nhận xét kẻ nghèo khó dưới ánh sáng niềm tin, bạn sẽ thấy họ đang thay mặt Con Thiên Chúa, chấp nhận thân phận nghèo khó. Thực vậy, trải qua cuộc thương khó, khuôn mặt Đức Giêsu không còn hình tượng người nữa; Đức Giêsu làm cho Dân Ngoại phải bẽ bàng và Dân Do Thái tủi hổ, mỗi khi Người thực hiện việc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa:  ’Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.’’  Do đó, chúng ta cần phải có cùng tâm tư và hành động như Đức Kitô đã có, là tận tình chăm sóc, giúp đỡ và bảo ban kẻ nghèo hèn.
     ‘’Đức Kitô đã chấp nhận sinh ra trong cảnh khó nghèo và chọn những người nghèo làm môn đệ; chính Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, trong những điều kiện thuận lợi hoặc nguy nan, hiểm trở, đều với ý niệm là làm cho bản thân mình, như lời Người đã nói.  Vì Thiên Chúa yêu thương kẻ nghèo, nên Đức Giêsu cũng yêu thương kẻ yêu thương người nghèo.  Nếu người nọ yêu thương người kia, thì Đức Kitô Giêsu cũng yêu thương tất cả những kẻ yêu thương và phục vụ nhau.  Do đó, chúng ta cũng ước ao được Thiên Chúa yêu thương mình, vì chúng ta quan tâm tới người nghèo, bằng cách thăm hỏi họ, gắng công gắng sức chăm nom kẻ yếu đau, bệnh tật, cùng túng.  Ngoài ra, chúng ta còn phải an ủi, chia sẻ khổ đau, buồn tủi của người khác, hầu trở nên tất cả cho mọi người, như các tông đồ thuở xưa đã cảm nhận như vậy.  Vì vậy, chúng ta phải tận tình san sẻ các nỗi đau buồn với những người lân cận, đồng thời cầu nguyện, xin Chúa ban cho chúng ta trái tim đầy lòng từ bi và nhân hậu để cố gắng giúp đỡ người nghèo khó.
     ‘’Phục vụ người nghèo là bổn phận của mỗi người và phải thực hiện liên tục, không ngừng nghỉ.  Nếu cần dùng thì giờ cùng cầu nguyện với người nghèo hay phân phát thuốc men hoặc bất cứ công tác gì khác, để giúp đỡ người nghèo, chúng ta hãy làm ngay, không chần chừ, bằng một tâm hồn thanh thỏa, dâng lên Chúa như đang thi hành việc đọc kinh, cầu nguyện vậy.  Đừng vì ép buộc hoặc miễn cưỡng mỗi khi làm việc giúp đỡ người nghèo; đừng vì muốn được khen ngợi hoặc ca tụng mỗi khi làm việc giúp đỡ người nghèo; nhưng hãy làm vì muốn tạo cơ hội cầu nguyện liên tục.  Đó là những phương thế rất hiệu nghiệm, trái lại, nếu chúng ta bỏ việc Chúa mà chú tâm làm việc khác thì chẳng được Chúa chấp nhận.
    ´´Nói tóm lại, khi chúng ta bỏ việc cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo khó trong cơn quẫn bách, được kể là chúng ta đã làm những việc ấy cho Chúa vậy.  Việc bác ái chiếm vị thế cao nhất trong các điều lệ, tức là không có việc gì hệ trọng hơn việc bác ái.  Hay nói cách khác, bác ái phải được thực hiện ưu tiên, sau đó mới đến các việc khác.  Chúng ta còn chần chờ gì mà không ra công ráng sức phục vụ người nghèo, và với nhiệt tâm sẵn có, chúng ta quan tâm tìm kiếm những cá nhân bị xã hội bỏ rơi để phục vụ, vì họ đến như những đấng cao trọng và bảo trợ chúng ta.’’