Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Thánh Giuse Thợ - Ngày 1 Tháng 5

Thánh Giuse Thợ  -  Ngày 1 Tháng 5
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 15,1-6; - Thánh Vịnh 122,1-2.3-4a.4b-5; - Gioan 15,1-8


Việc Tay Chúng Con Làm, Xin Chúa Củng Cố

 
Giáo Hội được tăng triển là nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, và hiện nay, Tin Mừng đã lan rộng trong thế giới Dân Ngoại; tuy nhiên, sự kiện này cũng gặp nhiều trắc trở lớn trong thời kỳ khởi đầu.  Từ hàng trăm năm, người Do Thái vẫn tin lề luật và tập quán họ áp dụng là thánh vật do Thiên Chúa ban riêng cho họ, khiến họ luôn tâm niệm rằng, họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, do đó họ ra mặt khinh bỉ Dân Ngoại.  Hầu hết những người Kitô hữu đầu tiên là dân Do Thái, nên điều làm cho họ khó có thể chấp nhận được là, nếu đã theo Đức Kitô thì không cần đến việc tuân giữ luật Môsê nữa. 

Vấn đề được đặt ra với họ là, trong lúc này, nếu đã trở thành những người đồng tín hữu Kitô giáo như Dân Ngoại, thì liệu họ có cần phải cắt bì nữa không?  Qua Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy, Pharisêu, là những người rất nhiệt tâm với lề luật, từ học đọc để hiểu biết, đến việc thi hành tỉ mỉ từng chi tiết.  Đức Giêsu đã nhiều lần lên án và cảnh cáo, vì họ qúa chú trọng tới lề luật và các lễ nghi bên ngoài mà bỏ qua những điều cần thiết nội tâm. 

Thậm chí, sau khi đã trở thành những tín hữu Kitô giáo, nhiều người vẫn giữ các thói tục ngày xưa, từ suy tư đến hành động; nhất là thúc bách những người Kitô hữu phải cắt bì và tuân hành luật Môsê.  Điển hình nhất là Phaolô, người đã được đào tạo để trở thành một thành viên của nhóm biệt phái Pharisêu; Phaolô hiểu rất rõ ý nghĩa đích thực của sứ điệp Kitô giáo; và cũng biết việc cưỡng ép người Kitô hữu chịu cắt bì và tuân hành luật Môsê là phản nghịch lời nhắn bảo của Tin Mừng.  Ðức Kitô đến trong thế gian để giải thoát chúng ta ra khỏi ách thống trị của lề luật.  Mọi người đều được cứu chuộc nhờ tin vào Ðức Kitô, chứ không do các việc mình làm. 

Nếu những kẻ tin theo các điều do nhóm Pharisêu qui định, thì cũng giống như người được giải thoát khỏi ách nô lệ, nhưng lại tự nguyện dấn thân vào vòng nô lệ của chính mình.  Sứ điệp của Đức Kitô dành cho tất cả mọi người, Do Thái cũng như Dân Ngoại.  Mọi người đều là tội nhân, và tất cả đều cần tới ơn cứu chuộc do Đức Giêsu ban hiến vì chúng ta.  

Thật tuyệt vời, vì được cứu chuộc, nên chúng ta không cần thi hành hàng trăm điều trong lề luật, cũng không cần tới nỗ lực riêng, để có thể chiếm được ơn cứu độ; chỉ cần là chúng ta khiêm tốn tự nhận mình là kẻ tội lỗi, và thật lòng sám hối, đồng thời đặt niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.  Nhờ sự chết và sống lại của Người, Đức Kitô đã mang ơn cứu độ đến cho chúng ta.  Món qùa vinh dự này dành cho bất cứ người nào muốn lãnh nhận và sẵn sàng trở về với Đức Giêsu trong niềm tin và phó thác nơi Người.

Theo truyền thống, hôm nay là ngày Lao Động Quốc Tế, ngày dành riêng cho giới lao động, và kỷ niệm ngày Đức Giáo Hoàng Piô 12 đề xướng vào năm 1955, việc tôn vinh thánh Giuse Thợ, với mục đích nêu cao các cá nhân dấn thân phục vụ gia đình và xã hội, qua việc làm của mình, nhất là hướng tới chiều kích tâm linh trong lao động; nhắc chúng ta nhớ tới Người Cha Nuôi Giuse đã hành nghề thợ mộc để mưu sống gia đình, đồng thời truyền nghề lao động ấy cho Đức Giêsu, và cũng chính là để gia tăng tính xác thực qua lời khích lệ của Đức Giêsu, khi Người nói: ‘’hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát’’ (Gioan 6,27).  Thánh gia làm việc rất chăm chỉ và cực nhọc, để có lương thực hằng ngày, nhưng luôn đón nhận ý Thiên Chúa trong cầu nguyện.

              Tháng Năm còn là tháng Hoa Đức Bà.  Kinh Mân Côi là bó hoa thiêng liêng chúng ta cần có mỗi ngày, để dâng lên Mẹ Maria.

‘’Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa, vì ách của Chúa thì êm ái, gánh của Chúa thì dịu dàng.  Xin tẩy trừ mọi tội lỗi trong con và ban cho con sức mạnh đời sống phục sinh của Chúa.  Amen.’’


Thánh Giuse


Thánh Giuse (Cha Nuôi Đức Giêsu)
Thánh Giuse, xuất thân từ làng Nazarét, Israel, và được người đời gọi bằng nhiều tên khác nhau, nào là Giuse - dòng dõi vua Đavít; Giuse – vị đính hôn với Đức Maria; Thánh Cả Giuse hoặc Giuse Thợ - căn cứ vào trình thuật trong sách Tin Mừng thánh Mátthêu, Luca và Gioan.  Nếu Giuse đã đính hôn với Maria thì đương nhiên Người trở thành cha nuôi của Đức Giêsu, vì theo quan niệm của người Do Thái, đôi trái gái đã hứa hôn, được kể là nên vợ thành chồng, mặc dù phải trải qua ba giai đoạn ấn định rõ rệt:  Hứa hôn > Kết Hôn > Động phòng. 

Tuy không phải là người cha đích thực - về thể lý - , nhưng truyền thống Kitô giáo coi Giuse như người cha nuôi của Đức Giêsu, và như vậy Người giữ vai trò gia trưởng của gia đình thánh gia. Giuse được Giáo Hội Công Giáo Rôma, Chính Thống Giáo Đông Phương, Tin Lành Luthêran và Anh Giáo tôn kính như một đấng THÁNH.

Giuse Trong Kinh Thánh.
Kinh Thánh không cho chúng ta biết, Giuse sinh ngày, tháng, năm nào, chỉ kể rằng, Người sống ở Nazarét, miền Galilêa, cư ngụ tại Bétlêhêm trong ít năm, và buộc phải sống lưu vong bên Ai Cập một thời gian.

Theo truyền thuyết lâu đời, thì Giuse là người thợ mộc (Mátthêu 13,55), nhưng nếu dịch đúng ngôn ngữ Hy Lạp thì ý nghĩa rộng lớn hơn, chứ không chỉ hạn hẹp chỉ như cụm từ trên, biểu thị một người hành nghề thủ công nghệ, với các việc liên quan tới gỗ, sắt và đá…

Kinh Thánh chỉ nói sơ qua về Giuse, cũng không ghi lại bất cứ lời nói nào của Người.  Giuse chỉ được nhắc tới trong các giai thoại thời ấu thơ của Đức Giêsu.

Trong Mátthêu 1,24-25 kể rằng, sứ thần Thiên Chúa hiện ra với Giuse trong giấc mộng:  ‘’Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà – nhưng không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh mọt con trai; và ông Giuse đặt tên cho con trẻ là Giêsu.’’

Bản gia phả Đức Giêsu Kitô do Mátthêu trình bầy, bắt đầu từ Abraham, xuống tới Giuse, và thuộc dòng dõi vua Đavít.  Nhưng bản gia phả này được kể là không có giá trị, vì thực sự Đức Giêsu không có quan hệ huyết tộc với Giuse.  Giuse do Mátthêu ghi trong bản gia phả của Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu đã đề cập tới trong Kinh Thánh Cựu Ước; đó là Giuse bị bán sang Ai Cập làm nô lệ, và là con trai của tổ phụ Giacóp. Theo bản gia phả của Mátthêu thì thân phụ của Giuse tên là Giacóp, mặc dù Luca cho biết thân phụ của Giuse tên là Eli. 

Rõ ràng là bản gia phả của Mátthêu được dựng nên với mục đích dành cho các nhóm người Kitô hữu gốc Do Thái, vì điều quan trọng cần đề cập tới là, Đấng Messia thuộc giòng dõi vua Đavít.  Mátthêu cũng còn đưa ra vấn đề là Đức Giêsu sinh ra ở Bétlehêm nữa, vì là nơi xuất thân của vua Đavít, và theo ngôn sứ Mikha, thì Đấng Messia phải đến từ nơi ấy.  Do đó, tên vị hôn phu của Đức Maria chưa hẳn đã là Giuse.  Tên Giuse có thể chỉ là sáng kiến của trứ giả phúc âm, với dụng ý xếp đặt các chi tiết cho phù hợp với các sấm ngôn.   

Theo trình thuật của Luca thì Giuse có tên trong một bản gia phả khác, xuất phát từ Adong, chứng minh rằng, Kitô giáo liên can tới toàn thể nhân loại, chứ không chỉ riêng dân Do Thái.  Thân phụ của Giuse tên là Eli, chứ không phải là Giacóp như trong trình thuật của Mátthêu, và sứ thần Thiên Chúa không hiện ra với Giuse trong giấc mộng; theo Luca, thì sứ thần Thiên Chúa chỉ hiện ra với Đức Maria mà thôi.  Mátthêu mô tả Giuse là hậu duệ của nhiều vị vua, trong khi Luca cho biết Giuse thuộc giòng dõi các tư tế và ngôn sứ.

Đoạn sách Tin Mừng của Luca đề cập tới Giuse lần cuối cùng (Luca 2,48) như sau, ‘’khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người:  Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?  Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con.’’

Khi Đức Giêsu đã khôn lớn và trở về nơi sinh quán Nazarét để giảng dậy, dân làng nhận ra Người và thắc mắc bảo nhau (Máccô 6,3):  ‘’Ông ta chẳng phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao?’’  Ở đây chỉ nói tới Đức Giêsu là ‘’con bà Maria’’, chứ không nhắc gì đến tên Giuse; đó là chuyện bất thường!  Phải chăng Đức Maria đã trở thành goá phụ từ nhiều năm, hoặc theo giả thuyết, bà đã dẫn Đức Giêsu đến chung sống với một người đàn ông khác (?).

‘’Thánh’’ Giuse.
Giáo Hội công giáo Rôma dành riêng một số ngày lễ mừng kính Giuse như là vị thánh Bảo Trợ (Quan Thầy) cho thành phần lao động; và đặc biệt kể từ sau ngày Đức Giáo Hoàng Piô IX (Giovanni Maria Mastai-Ferretti * 13/5.1792 – 7/2-1878 ) công bố nhận thánh Giuse làm bổn mạng Giáo Hội, thì rất nhiều cá nhân, khi Rửa tội cũng đã chọn thánh Giuse làm bổn mạng.  Một số đoàn thể, tu hội, hiệp hội, giáo xứ hoặc giáo phận đua nhau nhận thánh Giuse làm đấng bảo trợ.

Bắt đầu từ năm 1950 có những khóa học đặt trọng tâm nghiên cứu cuộc đời thánh Giuse, gọi là josefologi, rồi chuyển sang khoa rèn luyện bán thần học. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Piô XII đề xướng việc tôn vinh thánh Giuse Thợ, vào ngày 1 tháng 5.

‘’Lạy Thánh Giuse, người thợ lành nghề, chuyên cần, nhẫn nại và khiêm nhường.  Xin cầu cùng Chúa cho chúng con.’’



 
 

    

 



    


    



    


   
   

    


    


    


 

    





    



    


    


    
 

  

    

   


 


Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 5 Phục Sinh

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 14,19-28; - Thánh Vnịh 145,19-28; - Gioan 14,27-31a

 
Nhập Lễ: 
’’Hỡi tất cả những kẻ kính sợ Thiên Chúa trẻ nhỏ và người lớn, hãy chúc tụng Chúa chúng ta, vì Người là sức mạnh, là phần rỗi, và là quyền năng Đức Kitô của Người, halleluia (Công Vụ Tông Đồ)
Bài Đọc:
                 ’’Hai Tông Đồ tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông’’ (Công Vụ Tông Đồ 14,19-28)
Đáp Ca
                 ’’Lạy Chúa, kẻ hiếu trung phải nói lên rằng: Triều đại Ngài vinh hiển’’ (Thánh Vịnh 144,11a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia. Đức Kitô phải chịu khổ hình, và từ cõi chết sống lại, rồi mới được hưởng vinh quang dành cho Người .  Halleluia’’. (theo Luca 24,26)
Tin Mừng:
’’Thầy ban cho anh em bình an của Thầy’’. (Gioan 14,27-31a)
Ca Hiệp Lễ:
’’Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, halleluia’’ (Rôma 6,8)

*****

Chịu Nhiều Gian Khổ Mới Được Vào Nước Thiên Chúa
 

Thánh Phaolô chịu đau khổ vì Tin Mừng.  Thực vậy, đó là số tiền định của Phaolô, và Phaolô biết rõ điều ấy.  Phaolô ôm ấp và sống với Tin Mừng.  Phaolô là người đã từng thực hiện việc bắt bớ, và sau này trở thành kẻ bị bắt bớ!  Phaolô là người đi săn đuổi, và sau này đã trở thành kẻ bị săn đuổi; Phaolô là người qúa khích, và sau này trở thành kẻ có niềm tin vững chắc. 

Vì Giáo Hội, Phaolô phải chịu cùng một nỗi khổ nhục, như trước kia đã từng gây khổ đau cho nhiều người.  Đôi giầy của Phaolô đã từng xử dụng, nay trao cho kẻ khác xỏ chân vào đi lùng bắt.  Phaolô bị đánh đập tàn nhẫn, nằm bất tỉnh bên bờ thành (Công Vụ Tông Đồ 14,19), thế mà không có ai trong đám đông tỏ lộ một chút xót thương.  Mặc dù chịu cực khổ, Phaolô vẫn tiếp tục phục vụ mọi người. 

Sứ điệp của Phaolô có vẻ gay gắt, nhưng thực tế, và không thiếu lời khuyến khích, khuyên giải, đặc biệt khi Người nói:  ’’chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa.’’ (Công Vụ Tông Đồ 14,22).  Chịu đựng nhiều gian khổ, con người dễ trở nên gay gắt và thực tế hơn.  Những lời khuyến khích và khuyên giải của Phaolô giúp chúng ta có thể được thừa hưởng nước Thiên Chúa.

Tạ ơn Chúa, có lẽ rất ít người trong chúng ta phải đương đầu với qúa nhiều đau khổ như Phaolô (2 Côrintô 11,23-29).  Nhưng, đức tin phải trải qua các thử thách và cần được thanh luyện.  Đức tin không phải là một tĩnh vật và bất động.  Đức tin không phải là một biến cố xẩy ra một lần là đủ, nhưng đức tin là một thực tại sống động và triển nở không ngừng.  Đức tin sâu đậm và trưởng thành, khi chúng ta thực tâm sống cuộc đời hoàn toàn theo tinh thần Kitô giáo. 

Lời khuyến khích của Phaolô liên quan tới cuộc sống gian khổ, không chỉ thích ứng đối với những người đồng thời của Người, nhưng vẫn còn giá trị trong hiện tại.  Gian nan, khổ nhục và bách hại tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nhưng khi đụng chạm với chúng, có thể làm chúng ta cảm thấy chán nản và tâm hồn tan vỡ. 

Tuy nhiên, đức tin có khả năng biến đổi đau khổ thành niềm vui, nếu chúng ta sẵn sàng hy sinh, chịu đựng, vì lợi ích nước Thiên Chúa.  Chúng ta có thể vui mừng và hạnh phúc trong đau khổ, bởi vì, qua đau khổ, chúng ta tiến được vào nước Thiên Chúa. 

Đức Hồng y Basil Hume viết:  ’’Không ai yêu mến đau khổ, nhưng chúng ta có thể chịu đau khổ vì lòng yêu mến.  Theo bản năng tự nhiên, chúng ta cố gắng tránh né đau khổ, nhưng chúng ta có thể luyện tập để chịu đựng đau khổ, vì một lý do tích cực và chính đáng.’’  Chịu đựng các gian nan và đau khổ vì Chúa là một lý ’’do tích cực và chính đáng’’.  Chịu đau khổ vì Đức Giêsu có nghĩa là, chúng ta đón nhận ơn đau khổ, với thiện chí và để thánh hóa. 

Đau khổ xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.  Đứng lên đấu tranh cho tín ngưỡng, rồi bị bắt bớ, giam cầm; bị chê cười vì chia sẻ niềm tin của mình cho người khác, bị những người thân quen ghét bỏ, cũng là đau khổ mà chúng ta phải chịu, vì lợi ích nước Thiên Chúa. Chứng kiến tình trạng băng hoại do xã hội và Giáo Hội gây nên, hoặc nhìn thấy những người thân yêu không còn thực hành đức tin nữa, cũng là những đau khổ chúng ta phải chịu.  Chịu đau khổ không phải là vô ích, thánh Phaolô hiểu rõ điều này. 

Qua lời khuyên dậy và nhìn vào cuộc sống của thánh Phaolô, chúng ta có thể tập luyện phương thức đón nhận đau khổ cách thông thoát hơn.  Cũng như thánh Phaolô, chúng ta là những kẻ đang trên đường tiến vào nước Thiên Chúa, qua tiến trình thanh luyện cuộc sống bằng đau khổ.

’’Lạy Chúa, Chúa gọi con tiến vào nước Chúa.  Xin Chúa ban cho con một trái tim biết đón nhận mọi đau khổ và gian nan trong cuộc sống.  Xin Chúa giúp con xây dựng nước Chúa bằng những đau khổ của con.  Amen.’’


 
     

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Thánh Trinh Nữ Catarina Siena, Tiến Sĩ Giáo Hội, Đấng Bảo Hộ Âu Châu - Ngày 29 Tháng 4

Thánh Trinh Nữ Catarina Siena - Ngày 29 Tháng 4
Tiến Sĩ Giáo Hội, Đấng Bảo Hộ Âu Châu  

Các bài đọc trích sách: - 1 Gioan 1.5-2,2; - Thánh Vịnh 44,11-12.14-15.16-17; - Mátthêu 25,1-13

Thiên Chúa Là Ánh Sáng


 
   
Nhiều đoạn Kinh Thánh đề cập tới ánh sáng và bóng tối.  Theo Sách Sáng  Thế, hành động đầu tiên của Đấng Sáng Tạo là phân chia ánh sáng ra khỏi bóng tối.  Tin Mừng theo Thánh Gioan mô tả việc Đức Kitô vào đời với những lời lẽ tương tự:  ‘’Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.’’ (Gioan 1,5). 


     Sách Khải Huyền của thánh Gioan cho chúng ta biết, vào cuối lịch sử cứu độ, ánh sáng sẽ tỏa chiếu trên các tạo vật mới, làm lu mờ đèn điện, ánh trăng và ngay cả ánh nắng mặt trời.


     Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người không có một chút bóng tối nào.  Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, là con cái sự sáng, chúng ta cần tạo dịp thuận lợi để ánh sáng tình yêu nơi chúng ta tỏa chiếu cho mọi người được thấy. 


     Cũng vậy, thánh Phaolô khuyên dậy chúng ta cầm lấy vũ khí sự sáng để chiến đấu, và đừng để bóng tối xâm chiếm mình (Rôma 13,12).  Tin Mừng cho biết, Đức Giêsu Kitô đến để đền thay tội lỗi của toàn thể nhân loại, và kẻ tin vào Đức Giêsu sẽ được cứu thoát khỏi bóng tối.


     Hôm nay là ngày lễ mừng kính một nhà huyền bí người Ý thuộc thế kỷ thứ mười bốn, thánh trinh nữ Catarina Siena.  Thánh nữ không thuộc tu hội kín, nhưng là một thành viên Hội Dòng Ba ĐaMinh giáo dân, dâng hiến cuộc đời trong việc cầu nguyện và phục vụ Giáo Hội và tha nhân theo linh đạo thánh ĐaMinh.  


     Với tầm nhìn và nhận xét sắc bén, thánh nữ đã đóng góp trong việc cải hóa nhiều vấn đề được kể là thiếu sót và sai lầm trong Giáo Hội, khiến Đức Thánh Cha phải đặc biệt quan tâm; và cũng nhờ cầu nguyện và chiêm niệm, Catarina Siena đã trở nên một trong số rất ít phụ nữ được phong tặng tước vị Tiến Sĩ Giáo Hội.


     Catarina cho phép Chúa chiếu tỏa ánh sáng chân lý vào trong cặp mắt và tận cùng nơi tối tăm sâu thẳm của mình.  Trong tác phẩm Đối Thoại, thánh nữ thừa nhận: ‘’Khi nhìn vào gương, chúng ta có thể thấy rõ các điểm nhơ nhớp trên khuôn mặt và thân xác mình; cũng vậy, nếu ước ao linh hồn mình thấy được các yếu đuối và nhược điểm, tôi cần tới tấm gương nhân lành của Thiên Chúa soi chiếu, hầu tôi có thể trở nên trong sáng như Người.’’
Chúng ta cùng cầu xin,
nhờ lời cầu bầu của thánh nữ Catarina,
chúng ta có thể mở rộng tâm hồn và trí khôn
tái đón nhận Thiên Chúa
là sự sáng và tình yêu.  Amen.’’

Thánh Nữ Catarina Sienna Trong Chiêm Niệm
Cuộc Đời Thánh Nữ Catarina Siena
Lửa Yêu Mến Đức Giêsu Bừng Cháy
     ‘’Nói với ngài những điều liên quan tới Thiên Chúa có lẽ giống như nói với bức tường.’’      Đó là lời của Catarina nói với Raymond Capua, vị linh hướng của Catarina trong một dịp Catarina kể cho vị linh hướng nghe về những điều liên quan tới Thiên Chúa, vào lúc vị linh hướng buồn ngủ!  Người ta kể về những đau khổ Catarina phải chịu khi muốn chia sẻ với người khác ‘’hoa trái bà gặt hái’’ được qua việc chiêm niệm của mình – đề xuất của Dòng ĐaMinh, mà Catarina là một thành viên Hội Dòng Ba.


     Catarina Benincasa sinh năm 1347 tại Siena, nước Ý.  Catarina là con thứ 24 trong số 25 người con thuộc gia đình ông Giacomo và bà Lapa.  Người em song sinh của Catarina chết sau khi chào đời không lâu. 


Thị Kiến và Ơn Gọi.
     Catarina gặp gỡ Chúa, Đấng Cứu Chuộc của mình cách thâm sâu vào lúc mới 6 tuổi.  Trong khi cùng Stephano, một trong các người anh, đang làm một việc vặt cho thân mẫu, Catarina trải qua một thị kiến:


     Tại sảnh đường một vương quốc, trang bị đầy đủ tiện nghi. Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Đức Giêsu Kitô ngồi trên ngai, đầu đội mũ, tay cầm gậy, trang phục giống như Đức Giáo Hoàng. Đứng bên cạnh Người là hoàng tử và các thái tử thuộc tông đồ đoàn, Phêrô và Phaolô, cũng như thánh sử Gioan…; mở mắt thật to, Catarina nhìn đăm đăm Đấng Cứu Chuộc và say đắm chiêm ngắm Người với cặp mắt tâm hồn và thể xác. 


     Catarina hiểu rõ, thị kiến này ảnh hưởng nhiều tới cá nhân mình.


     Catarina cảm thấy yêu mến Đức Kitô tới mức độ tâm hồn càng lớn mạnh trong một chiều hướng đáng kể, về nhân đức, tiết hạnh và cảm nghiệm.  Lửa yêu mến Chúa bừng cháy trong tâm hồn Catarina, khiến Catarina trở nên thông minh và khôn ngoan khác thường.


     Catarina không có được một nền học vấn căn bản, và chưa từng học đọc, học viết, nhưng nhờ thấm nhuần ơn Chúa Thánh Thần, Catarina học được các nhân đức và bắt chước lối sống của các giáo phụ Ai Cập trong sa mạc thuở xưa; thúc đẩy Catarina, giống như một trẻ thơ, rời bỏ gia đình đi vào sa mạc; trong lúc băng qua các nẻo đường thị trấn để đến nơi phải đến, Catarina thấy một cái hang động, rồi sống ẩn mình tại nơi ấy.  Nhưng đó chưa là ý Chúa muốn dành cho Catarina, nên Catarina lại trở về nhà.  Đến khi lên 7 tuổi, Catarina thề hứa sống đức trinh khiết.


     Catarina trải qua tuổi thiếu thời trong cảnh cô đơn với Chúa, Đấng Cứu Chuộc,  dưới sự canh chừng của những người do thân phụ chỉ định, và bị đối xử như người tôi tớ trong gia đình.


Riêng Lẻ Với Chúa.
     Một trong những lời nhắn bảo của các giáo phụ trong sa mạc là ‘’hãy đi vào căn phòng của mình, đóng cửa lại, và căn phòng của bạn sẽ răn dậy bạn tất cả mọi sự.’’     


Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Chúa Nhật 5 Phục Sinh - Năm C

Chúa Nhật 5 Phục Sinh  - Năm C
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 14,21b-27; - Thánh Vịnh 145,8-13;
- Khải Huyền 21,1-5; - Gioan 13,31-33a.34-35


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan:
 
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu nói: 
‘’Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được
tôn vinh nơi Người.  Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,
thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình,
và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.  Hỡi anh em là những người con bé nhỏ
của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.  Thầy ban cho anh em
một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.  Mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy ở điểm này:  là anh em có lòng yêu thương nhau.’’

 
Anh Em Hãy Yêu Thương Nhau

 
     Chúng ta thường xuyên đề cập tới vấn đề tình yêu.  Nói về tình yêu rất dễ; nhưng trên một số chiều kích, tình yêu chỉ còn là một ngôn từ, không được mấy người thực tâm tôn trọng và thực thi đúng ý nghĩa.  Từ ngữ tình yêu dường như chỉ còn là vấn đề nằm ở đầu môi chót lưỡi mà thôi; đặc biệt, khi đem tình yêu áp dụng vào những hoàn cảnh và các việc cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cảm thấy thật sự khó khăn. 

     Trong xã hội chúng ta đang sống, đã có bao nhiêu người dám nêu cao tấm gương hy sinh hiến trọn cuộc đời cho tha nhân chỉ vì tình yêu, kể cả những người có bổn phận trực tiếp rao giảng về tình yêu?

     Đức Giêsu đã từng nói với các môn đệ của Người về tình yêu.  Người nói với các môn đệ về tình yêu Thiên Chúa và về tình yêu của chính Người dành cho nh ân loại.  Đức Giêsu không chỉ nói xuông.  Người đã chứng minh tình yêu của mình cho các môn đệ thấy và cảm nghiệm, bằng các hành động cụ thể.  Đức Giêsu đã dành tất cả cuộc sống của mình để phục vụ những kẻ túng nghèo, trong số các kẻ nghèo túng nhất.  Người đã tự hiến thân mình để chữa lành, an ủi, dậy dỗ và cầu nguyện. 

     Tóm lại, Đức Giêsu đã bầy tỏ tình yêu của mình, bằng cách trút bỏ mọi sự chỉ vì lợi ích của nhân loại.  Vì tình yêu, Người đã chấp nhận ngay cả cái chết trên thập giá - một cái chết khổ nhục, xấu xa và hèn hạ đến tột cùng.

     Nhưng cái chết của Đức Kitô Giêsu không phải là để chấm dứt một kiếp người bèo bọt.  Thánh sử Gioan tông đồ mô tả cái chết của Đức Giêsu như là một vinh hiển của chính Người, đồng thời, đem vinh hiển đến cho Thiên Chúa Cha; bởi vì Đức Giêsu luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha trong tình yêu. 

     Suốt cuộc sống tại trần thế, Đức Giêsu đã tỏ lộ cho thế gian biết tình yêu của Thiên Chúa Cha.  Và khi đón nhận cái chết trên thập giá, Đức Giêsu đã tỏ lộ trọn vẹn tình yêu của chính Người đối với nhân loại và Thiên Chúa Cha.  Không có tình yêu nào cao trọng hơn! Tình yêu Đức Giêsu dành cho nhân loại là một thứ tình yêu hoàn toàn vô vị lợi, không đòi hỏi bất cứ một điều kiện nào.

     Trước khi kết thúc bước cuối cùng trên cuộc hành trình tận hiến, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ của Người một giới răn mới, thúc đẩy các Ngài, vì tình yêu, dâng hiến cuộc sống cho tha nhân.  Giới răn mới này đòi hỏi các môn đệ phải biểu lộ tình yêu theo mẫu gương và bắt nguồn từ tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho các môn đệ - nghĩa là các môn đệ phải yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương các Ngài.  Người đã yêu thương các môn đệ tới mức độ thí mạng sống vì các Ngài.

     Lời răn bảo của Đức Giêsu dường như qúa khó, khiến chúng ta cảm thấy ngã lòng, nhụt chí, bởi vì nói tới tình yêu thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Tự sức mình, chúng ta không thể yêu như Đức Giêsu đã yêu.

     Chúng ta chỉ có thể bầy tỏ tình yêu của mình trong cuộc sống, khi tình yêu đã được thấm nhuần bằng tình yêu phát nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, và hiểu rõ tình yêu Đức Giêsu đã dành cho chúng ta.  Nhờ cách bầy tỏ tình yêu của chúng ta, thế gian có thể nhận biết sự hiện diện sống động của Đức Kitô nơi mỗi người Kitô hữu.
‘’Lạy Chúa,
Chúa đã yêu thương chúng con đến nỗi
thí mạng sống vì chúng con.
Xin Chúa tuôn đổ tình yêu của Chúa
xuống trên chúng con, và xin cho tình yêu ấy
tràn ngập trong thế gian.  Amen.’’

 

 

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13,44-52¸ - Thánh Vịnh 98,1-4; Gioan 14,7-14
Nhập Lễ: 
’’Hỡi dân riêng Chúa, hãy rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người, halleluia’’ (1 Phêrô 2,9)
Bài Đọc:
’’Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại’’ (Công Vụ Tông Đồ 13,44-52).
Đáp Ca:
                 ’’Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta’’ (Thánh Vịnh 97,3cd).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói:  Nếu anh em ở lại trong lời Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật’’.  Halleluia’’. (theo Gioan 8,31b-32)
Tin Mừng:
’’Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha’’ (Gioan 14,7-14).
Ca Hiệp Lễ:
’’Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng:  Con ở đâu, chúng sẽ ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, halleluia’’. (Gioan 17,24)
*****
Ta Đặt Ngươi Làm Ánh Sáng Muôn Dân
 
Phaolô và Barnaba là các giảng sư Tin Mừng.  Được đào luyện bằng những va chạm gay go trong cuộc sống, nên việc rao giảng của các Ngài tạo kết qủa cụ thể.  Giảng đàn của các Ngài là đầu đường, xó chợ; sứ điệp của các Ngài là Tin Mừng cứu độ.  Nhờ lợi khẩu và sự phối hợp với lòng tin, các Ngài đã thắng được đông đảo Dân Ngoại, nhưng đành chịu mất các thủ lãnh Do Thái. 
Là những nhà truyền giảng Tin Mừng, Phaolô và Barnaba tiến từng bước nhịp nhàng.  Các Ngài đã để lại cho thế hệ hậu sinh một tấm gương tiêu biểu.  Các Ngài can đảm, tin tưởng và hãnh diện về sứ điệp mà các Ngài đã rao giảng.  Các Ngài di động trong Thánh Thần, dậy bảo trong Thánh Thần và rao giảng với Thánh Thần.  Hoa trái gặt hái được là rất nhiều linh hồn trở về với Chúa, và tất cả đều đón nhận hoan lạc và Thánh Thần (Công Vụ Tông Đồ 13,52).
Rất ít người trong chúng ta quyết tâm dành hoàn toàn thì giờ cho việc truyền giảng Tin Mừng.  Rất ít người trong chúng ta dám từ bỏ mọi sự để chỉ dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng.  Franciszek Blancnicki, một người đã được Chúa mời gọi thi hành sứ vụ truyền bá Tin Mừng.  Thời đệ nhị thế chiến, Ngài đã bị Đức Quốc Xã bắt giam và kết án tử hình.  Ngài hứa với Chúa rằng, nếu được sống sót, Ngài sẽ tận hiến cuộc đời còn lại để phục vụ Đức Kitô và Giáo Hội. 
Sự lạ xẩy ra thì Ngài thoát khỏi tai bay vạ gió; khi cuộc chiến vừa chấm dứt, Ngài xin gia nhập chủng viện.  Sau khi thụ phong linh mục, Ngài cảm thấy có bổn phận phải giảng truyền Tin Mừng, vì lửa Tin Mừng bừng bừng bốc cháy trong tâm hồn Ngài.  Ngài ước ao được công bố, loan truyền và rao giảng Tin Mừng.  Ngài thực sự là một môn đệ của Tin Mừng. 
Ước vọng lớn lao nhất của Ngài là thu góp giới trẻ lại và chia sẻ cho họ suy tư và thị kiến của Ngài.  Tại Ba Lan, có một thời, các tổ chức công giáo tiến hành bị nhà cầm quyền cộng sản khai trừ.  Linh mục Blancnicki bền lòng, vững chí, tổ chức tĩnh tâm cho những cá nhân phục vụ bàn thờ.  Ngài làm như thế với hy vọng tạo cho họ một tình yêu vững mạnh đối với Đức Giêsu và Tin Mừng, để khi tới tuổi khôn lớn chọ có thể lôi kéo nhiều người trở về với Chúa.
Vào khoảng thời gian này, linh mục Blancniki nhận thấy, tổ chức rao giảng Tin Mừng mệnh danh là Campus Crusade đã thành công lớn trong việc chiếm hữu nhiều thanh niên, thiếu nữ về với Chúa. Ngài kêu gọi những người này hướng dẫn giới trẻ phương thức làm chứng nhân và rao truyền Lời Chúa. 
Họ đáp lời mọi gọi bằng niềm tin.  Lúc đầu, chỉ có một nhóm nhỏ, chẳng bao lâu sau, đã phát triển thành một phong trào có tên là ’’Oasis’’ (= vùng phì nhiêu giữa sa mạc); đến năm 1976, phong trào đổi tên là ’’Sự Sáng và Sự Sống’’ -,  và kể từ đó trở thành nền tảng tinh thần của ’’Phong Trào Đại Kết - Solidarity.’’
Thánh Phaolô, thánh Barnaba và linh mục Blancnicki có chung một di sản.  Các Ngài hiểu rõ tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng, trong thời kỳ Giáo Hội phôi thai hoặc gặp khó khăn.  Tin Mừng là một sứ điệp mà chúng ta không được độc quyền bo bo giữ lấy làm của riêng, nhưng phải vận dụng chuyển đạt đến cho mọi người.
Hôm nay, chúng ta cùng nhau cầu nguyện, xin Chúa ban đầy ân sủng, để mỗi người trong chúng ta đủ can đảm và nhiệt tâm đem Tin Mừng đến cho thân bằng quyến thuộc, bạn hữu, và tất cả các đồng nghiệp của chúng ta.
’’Lạy Đức Giêsu, Chúa là sự sáng thế gian.  Qua các tông đồ của Chúa, Tin Mừng đã được loan truyền đến tận cùng trái đất.  Xin ban cho con mọt tâm hồn trong sáng, một niềm tin vững vàng và một tình yêu cao cả, để con xứng đáng làm nhân chứng Tin Mừng cứu độ của Chúa.  Amen.’


 

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13,26-33; Thánh Vịnh 2,6-11; - Gioan 14,1-6

Nhập Lễ: 
’’Lạy Chúa, Chúa đã lấy máu Chúa mà cứu chuộc chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân và mọi nước, Chúa đã làm cho chúng con trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa, halleluia’’ (Công Vụ Tông Đồ 5,9-10)
Bài Đọc:
’’Điều Thiên Chúa hứa, thì Người đã thực hiện khi làm cho Đức Giêsu sống lại’’ (Công Vụ Tông Đồ 13,26-33)
Đáp Ca
                 ’’Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha ađ4 sinh ra Con’’ (Thánh Vịnh 2,7).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói: Chính Thầy là con đườnh, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.  Halleluia’’. (theo Khải Huyền 1,5ab)
Tin Mừng:
’’Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống’’ (Gioan 14,1-6).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Kitô Chúa chúng ta đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được công chính hóa, halleluia’’. (Rôma 4,25)

*****

Thiên Chúa Đã Làm Cho Người Trỗi Dậy

 
Suốt thời gian thi hành sứ vụ truyền giáo cũng như trong một bài giảng duy nhất gửi tới khán thính giả gốc Do Thái, Phaolô đã biểu lộ niềm tin sắt đá của mình liên quan tới việc Đức Kitô phục sinh.  Đối với Phaolô, chia sẻ với dân chúng Israel về sứ điệp sống lại là một vấn đề không dễ.  Khi Phaolô tường trình việc Đức Giêsu bị kết án cách sai lầm và bị đóng đinh trên thập giá, tâm hồn khán thính giả Do Thái xúc động và hoảng sợ, bởi vì họ biết, chính tổ phụ của họ đã âm mưu đồng tâm diệt trừ Đức Giêsu.

Phaolô kêu gọi họ hãy dũng cảm chấp nhận các sai lầm của cha ông; tuy nhiên, lời tường trình của Phaolô không thể làm họ vơi bớt ưu phiền.  Nhờ hiểu rõ quyền năng cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện qua Đức Kitô, bằng sự sống lại từ cõi chết, đồng thời muốn bầy tỏ tình yêu của Người đối với Đức Giêsu, và với niềm vui lễ Vượt Qua, Phaolô đã lên tiếng nói lên các sự thật hiển nhiên này.

Bài diễn văn của Phaolô trong sáng như ánh pha lê, tạo nên một niềm tin sâu xa nơi khán thính giả Do Thái.  Người ta có thể nghĩ rằng, được như thế là vì Phaolô là một nhân vật trí thức.  Nhưng, chưa hẳn đã đúng, bởi vì, ngay cả những nhà hùng biện đại tài, đôi khi cũng có thể làm khán thính giả nghi ngờ hoặc hiểu lầm về một vài điều do họ trình bầy. 

Trái lại, Tin Mừng phải được trình bầy cách rõ ràng, mạch lạc và khúc chiết; do đó, thời gian là phương thế tối cần thiết để Tin Mừng cứu độ có thể đến khắp mọi nơi trên toàn cầu. Điều này, ngay từ khởi đầu, các tông đồ đã nghĩ tới, và cho đến bây giờ cũng vậy.

Đối với tâm trí con người, phải thành thật nói rằng, việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết là một sự kiện khá phức tạp, khó hiểu.  Sự sống lại là một mầu nhiệm; mà đã là một mầu nhiệm thì chỉ có thể thừa nhận nhờ lòng tin mà thôi.  Ai dám nghĩ rằng, mỗi lần chúng ta dậy trẻ em làm dấu thánh giá (nhân danh ChaConThánh Thần; Amen; hoặc vì dấu thánh giá, xin chữa chúng con, cho khỏi kẻ thù; Amen), là chúng ta giúp được ít nhất hai linh hồn tội lỗi trở về với ơn nghĩa Chúa?  Hơn nữa, cứ mỗi năm phút nâng tâm hồn lên Đức Giêsu trên thánh giá là chúng ta có thể giúp được mười linh hồn tội lỗi trở về với Chúa? 

Đó lại là sự thật do kinh nghiệm của các thánh để lại; điều quan trọng là chúng ta phải biết tự đào luyện mình trở thành người biết chiêm ngưỡng và lắng nghe tiếng nói đích thực, phát xuất từ tình yêu cứu độ không ngừng của Thiên Chúa.

Ơn gọi trở về của Phaolô đã giúp Người hiểu biết cách thâm sâu và đặc biệt về Con Người Đức Giêsu Kitô, đến nỗi Người dám qủa quyết rằng, Đức Giêsu không phải là một nhân vật bù nhìn đã chết từ thuở xa xưa, nhưng là một Đấng, nhờ sự sống lại, đã chiếm đoạt vinh quang Thiên Chúa, và vì thế, vẫn sống động trong Giáo Hội, qua quyền năng Chúa Thánh Thần.

Thánh Phaolô, nhà rao giảng Tin Mừng, kêu gọi mọi người, vì lòng yêu mến tha nhân, hãy tích cực dấn thân loan truyền Lời Chúa.  Trong tác phẩm, viết cho các thiếu nhi, mang tựa đề ‘’Cây Kiêu Căng’’, Luan Roche kể một câu chuyện liên quan tới sự thông cảmtương giao giữa cây kiêu căng nhất trong khu rừng, có tên là Rex và Đức Giêsu, Người vác cây kiêu căng cách cẩn trọng tiến lên đồi tử nạn Calvariô. 

Hình ảnh này diễn tả sự kiêu căng, gây nên tội lỗi, tức là sự buồn phiền, nhưng đã biến đổi, nhờ tình yêu của Đức Giêsu; và cuối cùng, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.  Sự phục sinh được phác họa bằng một cuộc sống mới, phát sinh từ việc chia sẻ các đau khổ với Đức Giêsu Kitô.

‘’Lạy Đức Giêsu, con tin quyền năng Phục Sinh của Ngài, nhưng con vẫn cảm thấy hơi khó hiểu.  Xin giúp con đón nhận sự phục sinh của Chúa trong cuộc sống riêng nơi con, để như Phaolô, con có thể làm chứng niềm vui  Tin Mừng cách nhiệt thành.  Amen.’’



 
     

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Thánh Máccô, Tác Giả Sách Tin Mừng - Ngày 25 Tháng 4

Thánh Máccô, Tác Giả Sách Tin Mừng  -  Ngày 25 Tháng 4
Các bài đọc trích sách: - 1 Phêrô 5,5b-14; - Thánh Vịnh 89,2-3.6-7.16-17; - Máccô 16,15-20

 
Thiên Chúa Là Nguồn Mọi Ân Sủng

 
Thánh Sử Tông Đồ Máccô
 
     Hôm nay, chúng ta cử hành lễ mừng kính thánh sử Máccô, tác giả sách Tin Mừng,  một tác phẩm được kể là ngắn nhất, và có lẽ là sách Phúc Âm hình thành trước tiên.  Máccô đồng hành với thánh Phaolô trên lộ trình truyền giáo đầu tiên, cùng với người anh em họ Barnaba. Đoạn 13, câu 15, sách Công Vụ Tông Đồ dường như nhắc tới việc Máccô phụ giúp việc rao giảng Lời Chúa.     

     Khi Phaolô và Barnaba quyết định rời bỏ Perga để tiến vào trung tâm miền Tiểu Á, thì Máccô từ giã các Ngài mà trở về Giêrusalem.  Sau đó Máccô cùng với Barnaba đến Cyprus (Công Vụ Tông Đồ 49-50); từ đó chúng ta không còn thấy bóng dáng Máccô nữa, kể cả phần Tân Ước cũng không nhắc tới; mãi mười năm sau, Ngài mới tái xuất hiện như một đồng nghiệp của thánh Phaolô, và sống chung với thánh Phêrô tại Rôma. 


Sư Tử, Biểu Tượng Của Thánh Sử Máccô
     Không có nguồn tin chính xác cho biết Máccô chết ngày nào, chỉ có thể đoán chừng vào khoảng năm 62-63.  Cũng có người nói rằng Máccô chịu tử đạo, tuy nhiên, tin này không được coi là chắc chắn. 

     Tuy nhiên, chủ đề bài Phúc Âm hôm nay là giúp chúng ta biết chắc chắn, và cũng là để chấm dứt Tin Mừng của Máccô.  Trước khi vĩnh biệt các tông đồ, về với Chúa Cha, Đức Giêsu ban cho các Ngài những chỉ thị cuối cùng, rất rõ ràng và trong sáng:  ‘’Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.’’ Gioan 16, 15).  Những người tin vào sứ điệp Tin Mừng sẽ dễ dàng làm được như điều Đức Giêsu nhắn bảo:  ‘’nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được qủy, sẽ nói được những tiếng mới lạ; họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.’’ (Gioan 16,17-18).

     Mặc dù các ‘’dấu lạ’’ này đã tái xuất hiện vào những năm gần đây, đặc biệt nhất là từ các nhóm Đặc Sủng và Thánh Linh theo truyền thống Kitô giáo, nhưng, thực sự, hầu hết trong chúng ta đều cảm thấy không mấy hài lòng về những thứ như: nói các tiếng mới lạ và trừ được qủy.

     Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta là đáp ứng lời kêu gọi cuối cùng của Chúa ban cho các tông đồ, là thực hiện theo cách thể như  Máccô đã làm, và rao giảng Lời Chúa tại bất cứ nơi công cộng nào. 

     Ở điểm này, chúng ta cần ghi nhớ lời nhắn bảo khôn ngoan của thánh Phanxicô Asssisi:  ‘'Loan truyền Lời Chúa mỗi ngày.  Nếu cần, hãy dùng Lời Chúa.’’ Nghĩa là, ngay cả khi cảm thấy không được thoải mái, thuận tiện trong việc rao giảng Lời Chúa, chúng ta vẫn có thể rao giảng bằng cách bầy tỏ cho mọi người thấy các hành động tốt của Kitô giáo, qua đức thương yêu.  Và, thực vậy, châm ngôn có câu:  hành động tạo tiếng vang lớn hơn lời nói!