Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 13 Thường Niên - Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 18,16-33; - Thánh Vịnh 103,1-4.8-11; - Mátthêu 8,18-22
 
Chúa Là Đấng Từ Bi Nhân Hậu
 
Thiên Chứa tỏ mình cho nhân loại; và Kinh Thánh là một trong các cách Thiên Chúa chọn để tỏ mình ra.  Qua bài đọc hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa chẳng muốn, hoặc có ý định để các tạo vật thân thương của mình bị hủy diệt; Người là Thiên Chúa biết can thiệp.  Mặc dù là một hành vi tiêu cực, nhưng Thiên Chúa nhận thấy cần phải can thiệp vào hoàn cảnh của Sôđôm và Gômôra (Sáng Thế 19,24).
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã can thiệp vào nhiều trường hợp rất cụ thể.  Câu truyện con tầu Noê và cuộc xuất hành dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập, đi vào Đất Hứa, là hai thí dụ điển hình lẫy lừng nhất.  Nhưng trong Tân Ước, chúng ta thấy việc Thiên Chúa nhập thế làm người để đi vào thời gian và không gian, do Người tạo dựng là một can thiệp vô cùng vĩ đại. 
Đức Giêsu đã khai mở triều đại Thiên Chúa tại trần gian và đã chiến thắng tội lỗi, cũng như nhờ sự chết của Người trên thập giá, mà nhân loại mới có thể giao hòa với chính Người, và đem sự sống bất diệt đến cho những ai dốc lòng ăn năn sám hối và đặt niềm tin ở nơi Người.
Người Do Thái coi Abraham như một người cha dân tộc.  Qua Giacóp, mười hai chi tộc đều thuộc giòng dõi Abraham, vì thế, dân tộc Do Thái tự coi mình là những kẻ được thừa hưởng lời Thiên Chúa, và như vậy họ xứng đáng tiếp nhận Đất Hứa và chiếm địa vị là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. 
Mặc dù Abraham không được ánh sáng soi dẫn vào cuộc đời Đức Giêsu và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhưng Ngài là mẫu gương đức tin để chúng ta noi theo.  Abraham liên hệ mật thiết với Thiên Chúa đến nỗi, mặc dù dân chúng thành Sôđôm và Gômôra nổi dậy chống đối Đấng Tạo Hóa cách mãnh liệt, nhưng Ngài vẫn yêu thương họ, và còn can đảm thay mặt họ can thiệp với Thiên Chúa.
Abraham rộng lòng thương xót, và ngay từ thuở ban đầu, Ngài đã từng chứng tỏ là một người sẵn sàng can thiệp vào những trường hợp cần thiết: Nếu trong thành có một số người tối thiểu được kể là công chính, thì Thiên Chúa sẽ không sát hại những kẻ vô tội.
Nhiều người nghĩ rằng, cầu nguyện xin ơn cho mình dễ hơn cầu nguyện đem ơn ích cho các vật thể khác.  Cầu nguyện cho thân bằng, quyến thuộc là cách bầy tỏ tình yêu đối với họ, và được kể là hợp tình hợp lý.  Nhưng, Chúa còn muốn chúng ta có một trái tim quảng đại hơn, biết quan tâm và cầu nguyện cho Giáo Hội, cũng như toàn thể nhân loại nữa.    
Cũng như Abraham, là những người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi thay mặt cho mọi người, lên tiếng đấu tranh cho công lý và hòa bình trên khắp toàn cầu.  Chúng ta cần trở nên những người biết xót thương, để có thể khẩn thiết nài xin Chúa rộng lòng ban ơn và chúc phúc cho tất cả mọi người cần đến lòng thương xót Chúa, không kể họ là ai, hoặc thuộc thành phần nào trong xã hội.
‘’Lạy Chúa, xin giúp con biết quan tâm tới người khác, và xin dâng lên trước tôn nhan Chúa tất cả mọi người cần đến lòng thương xót Chúa.  Amen.’’



Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Chúa Nhật 13 Thường Niên - Năm C


Các bài đọc trích sách:
- 1 Vua 19,16.19-21;
- Thánh Vịnh 16,1-2.5.7.13-18;
- Galát 5,1.13-18;
- Luca 9,51-62


Thầy Đi Đâu Tôi Cũng Đi Theo


     Những ai muốn theo Đức Giêsu, thì ngay từ lúc ban đầu, nên nghĩ đến việc phải trả một giá đắt.  Nhiều người, khởi đầu đi theo Đức Giêsu, nhưng rồi lại bỏ cuộc vì cảm thấy chán nản và hổ thẹn, hoặc khám phá ra rằng, họ không thể trả được cái giá mà Đức Giêsu đòi hỏi.  Nhưng, cái giá phải trả đó như thế nào?

     Lời mời gọi để trở thành môn đệ Đức Giêsu thật sự cấp thiết và vô điều kiện.  Các môn đệ cố gắng tiếp xúc với Đức Giêsu để có thể gần gũi và yêu mến Người hơn cả cha con hoặc anh chị em, như lời Người nói:  ‘’Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy’’ (Mátthêu 10,37).   Đức Giêsu đi đâu, các môn đệ cũng đi theo.  Vậy Đức Giêsu đi đâu? 

     Tuân hành và thực thi triệt để bổn phận của Chúa Cha, Đức Giêsu đã đi qua con đường đau khổ và chấp nhận chết để tiến tới đỉnh vinh quang, như thánh Phaolô viết:  ‘’Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục’’ (Do Thái 12,2).  Các môn đệ Đức Giêsu cũng phải đi trên cùng một con đường ấy, và cùng chia sẻ một số phận, bắt chước tính tình, cách cư xử và lối sống của Người.

     Các môn đệ không thể xếp đặt thời gian và điều kiện sống cho mình.  Để trả lời cho người nói, ‘’Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng đi theo’’, Đức Giêsu đáp:  ‘’Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.’’ (Luca 9,57-58). 

     Trên đường thi hành tác vụ, các môn đệ không thối chí, nản lòng, hoặc đòi hỏi một cuộc sống tiện nghi.  Đức Giêsu luôn luôn tạo cơ hội cho các môn đệ lên đường, bắt họ phải đương đầu với nghịch cảnh, mời gọi họ thay đổi và trưởng thành.

     Những con đường tiến tới vương quốc Thiên Chúa thường không giống như các lối chúng ta đi tại trần thế. Đi theo Đức Giêsu là cách thức thực hiện tất cả những việc liên quan tới đời sống cá nhân cũng nhu gia đình và xã hội, với tinh thần trách nhiệm và yêu thương.

     ‘’Đối với người thanh niên nói, Thưa Thày, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’’, Đức Giêsu trả lời:  ‘’Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết; còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa’’ (Luca 9,60). 

     Kẻ đã chết về tâm linh phải chôn cất kẻ đã chết về thể xác.  Nói cách khác, người còn sống về tâm linh nhận biết Đức Giêsu là ai và muốn đi theo Người thì, trước hết, phải tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người’’ (Mátthêu 6,33).

     Đi theo Đức Giêsu là một lời kêu gọi khẩn thiết.  Đối với người thanh niên nói, ‘’Xin cho phép tôi từ biệt các người trong gia đình tôi trước đã’’ Đức Giêsu trả lời, ‘’Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa’’ (Luca 9,61-62). 

     Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải đáp trả lời mời gọi của Người cách kẩn thiết, cấp bách, với thái độ ưu tiên số một, ngay lập tức, dứt khóat, không chần chờ hay ngần ngại, không mơ hồ hoặc đặt điều kiện.  Đức Giêsu không trì hoãn hoặc dừng bước, vì thế chúng ta phải nhanh chân, mau mắn theo Người.
‘’Lạy Đức Giêsu,
con xin cảm tạ vì Chúa đã
gọi con làm môn đệ Chúa.
Xin dậy con đừng tình toán lâu dài,
nhưng tìm nguồn vui khi đi theo Chúa,
Đấngcứu độ của con.  Amen.’’

Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ - Ngày 29 Tháng 6

Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ  -  Ngày 29 Tháng 6
Các bài đọc trích sách:
- Công Vụ Tông Đồ 12,1-11;
- Thánh Vịnh 34,2-9;
- 2 Timôthê 4,6-8.17-18;
- Mátthêu 16,13-19
                                                                            


Ai Nhìn Lên Chúa Sẽ Vui Tươi Hớn Hở



     Thế giới khao khát những vị anh hùng đích thực.  Thế giới trông đợi những con người can đảm, sẵn sàng làm chứng cho chân lý, công bình và bác ái; nói cách ngắn gọn, là làm chứng cho Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô. 

Thánh Phêrô Và Phaolô

     Người ta nói rằng, chỉ những con cá chết mới nổi trôi theo ngọn nước thủy triều. Ngày nay, rất nhiều người đang bị các làn sóng chủ nghĩa luân lý tương đối, chính sách tiêu thụ và cuộc sống không định hướng cuốn hút.

     Kể từ ngày Phêrô và Phaolô chịu tử đạo đến nay, đã hơn hai ngàn năm trôi qua, Giáo Hội vẫn tiếp tục cử hành lễ kính nhớ các thành tích chứng nhân Tin Mừng của hại vị thánh tông đồ vĩ đại này. 

     Các Ngài là những nhân vật có niềm tin, lòng can đảm và ngay thẳng tuyệt vời. Các Ngài đã quên mình, liều mạng sống, đổ máu mình ra chịu chết vì Đức Giêsu Kitô.  Vậy Nguyên nhân nào thúc đẩy các Ngài sống và chết như thế? 

     Các Ngài đã đặt Đức Giêsu Kitô làm nguyên lý và nền tảng của sự sống.  Các Ngài chọn Thiên Chúa làm trung tâm điểm, mà không quan tâm đến cá nhân mình.  Phêrô và Phaolô rao giảng, dậy dỗ, và sống với những điều các Ngài đã công bố.  Đối với Phêrô và Phaolô thì ‘’Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình’’ (2 Côrintô 5,15).

     Phêrô và Phaolô không còn sống cho những mục đích ngắn hạn và tạm thời của các Ngài nữa - tức là các nghiệp vụ trần thế.  Như chúng ta biết, Phaolô là một ngôi sao sáng đang bộc phát của nhóm Biệt Phái Pharisêu, và là thành viên Hội Đồng Công Nghị Quốc Gia Israel; còn Simon Phêrô là một ngư phủ rất thành đạt và giầu có. 



     Kể từ sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, đời sống các Ngài thay đổi hoàn toàn.  Các Ngài đã tự nguyện hiến trọn cuộc sống cho Đức Giêsu và Dân Người.  Đối với các Ngài, đời sống Kitô hữu là một cuộc mạo hiểm thích thú.  Các Ngài đã khám phá được lý do để sống và lý do để chết. 

     Các Ngài phát sinh từ đất (trong yêu thương cũng như trong phục vụ), nhưng trông đời quê hương trên trời (2 Timôthê 4,8).  Cuộc thương khó của hai vị tông đồ vĩ đại đã công bố vinh quang và thiện toàn của Tin Mừng cứu độ. 

     Các Ngài không rao giảng một phần Tin Mừng hoặc rao giảng Tin Mừng một cách thiếu sót, nhưng đã rao giảng toàn bộ Tin Mừng.  Đối với các Ngài, Tin Mừng là một mầu nhiệm đã bị che dấu, nhưng nay đã được tỏ lộ.  Đối với các Ngài, Tin Mừng đề cập tới một nhân vật, chứ không liên quan đến một đề án, hoặc một lời khuyên dậy luân lý. 

     Phúc Âm hoặc Tin Mừng là Đức Giêsu, Thiên Chúa chịu đóng đinh trên thập giá và sống lại.  Người ta có thể cho rằng Phêrô và Phaolô là những nhân vật đặc biệt; điều đó rất đúng, nhưng chính chúng ta cũng là những con người đặc biệt như các Ngài, bởi vì chúng ta cũng có cùng một Chúa, cùng thuộc về một Thân Thể, và cùng chia sẻ một Thánh Thần. 
‘’Lạy thánh Phêrô và Phaolô tông đồ,
chúng con xin chào kính các Ngài,
chúng con xin cảm tạ các Ngài,
đã làm chứng cho thế gian
và chúng con biết hiệp thông với các Ngài
(ở trên thiên đàng-còn chúng con ở trần gian)
để chúc tụng Chúa là Thiên Chúa
quang vinh và là Đấng Cứu Chuộc chúng con.
Cũng như các Ngài, chúng con trông đợi
Ngày Chúa lại đến. Amen.’’

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên  - 
Năm Lẻ & Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 17,1.9-10.15-22; - Thánh Vịnh 128,1-2.3.4-5; - Mátthêu 8,1-4

 
Ngài Có Thể Làm Cho Tôi Được Sạch       

 
Ngày xưa, phong (hay hủi / cùi) là một bệnh đáng sợ nhất, buộc bệnh nhân phải cắt đứt mọi quan hệ với gia đình, bạn hữu, lối xóm và cả cộng đồng xã hội nữa, có thể là suốt đời.  Luật Lêvi ban lệnh cho người mắc bệnh phong hủi phải kêu lên ‘’ô uế’’ và rung chuông báo động cho dân chúng biết đừng ai đến qúa gần mình. (Lêvi 13,45-46).  Ở thế kỷ đầu tây lịch, tại Palestin chưa có phương c ách trị liệu bệnh phong hủi.

Người mắc bệnh phong hủi trong bài Tin Mừng hôm nay nhận định rõ, anh đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa, nhưng anh đã can đảm và mạnh dạn chạy đến, qùi gối trước Đấng anh tin là có thể chữa cho anh lành sạch được.  Bệnh phong hủi là hình ảnh và biểu tượng của tội lỗi nơi mỗi người.  Chúng ta cũng đang ở trong tình trạng vô vọng, vì bệnh phong hủi do tội lỗi gây nên (Rôma 3,23), và cần được chữa trị. 

Tội lỗi, giống như bệnh phong hủi, cắt đứt chúng ta ra khỏi mọi liên hệ được kể là tốt đẹp trước kia.  Nếu không kịp thời cứu chữa, dần dần chúng ta mất sự tương quan với Thiên Chúa, đồng thời tạo thành bức tường ngăn cách giữa chúng ta.  Tội lỗi là một con bệnh trầm kha và kết liễu cuộc đời con người.  Phaolô nói rằng, ‘’lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta là sự chết’’  (Rôma 6,23).  Chúng ta được tạo dựng giống và như hình Thiên Chúa, nhưng tội lỗi đã làm siêu vẹo thể chất của mình.   

Người mắc bệnh phong hủi vô cùng khiêm tốn chạy đến với Đức Giêsu và đặt trọn niềm tin vào quyền năng của Người.  Thiên Chúa Cha mong muốn chúng ta đến với Đức Giêsu trong cùng một thể thức như vậy – khiêm nhường và sám hối, công khai và chân thành thú nhận tội lỗi mình.  Chạy đến với Chúa, qùi gối trước mặt Người và thú nhận tội lỗi để xin chữa lành là một việc làm tràn đầy ơn huệ.  

Đức Giêsu đã đáp ứng cách thiết thực lời kêu cầu của Người mắc bệnh phong hủi.  Không phân vân và do dự, Người mở rộng đôi tay và chữa lành sạch cho anh ngay.  Từ thâm tâm của Đức Giêsu cũng có một ước vọng sâu xa là tha thứ tội lỗi chúng ta, vì chính Người đã nói:  ‘’trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn’’ (Luca 15,7). 

Con Thiên Chúa xuống thế làm người với mục đích duy nhất là chết để cứu chuộc và tha thứ tội lỗi chúng ta.  Lòng Chúa tràn ngập tình yêu và vô cùng thương xót chúng ta, do đó, chúng ta tin chắc, Người sẽ tha thứ và lau sạch mọi tội lỗi chúng ta.

Đức Giêsu mong đợi chúng ta mạnh dạn và tin tưởng chạy đến, qùi gối dưới chân Người và kêu xin được chữa lành, để đem đến những thay đổi cụ thể cho cuộc đời mình.  Bực tức, nóng giận và gắt gỏng là ngục tù đã và đang chiếm hữu đời sống của nhiều người trong chúng ta. 

Đức Giêsu có sức mạnh và quyền lực phá tan các sợi dây tội lỗi đang ràng buộc, níu kéo đời sống chúng ta.  Giống như người mắc bệnh phong hủi, ơn lành sạch, qua việc thực lòng sám hối ăn năn, có thể là một chứng tích hùng hồn nói lên quyền năng Thiên Chúa đối với chúng ta.

‘’Lạy Chúa Giêsu, con quay về với Chúa và khôngcòn ẩn dấu trong con bệnh phong hủi tội lỗi.  Xin Chúa dẹp bỏ mọi giận hờn, bực tức, cay nghiệt trong con để quyền năng và sức mạnh Chúa được thể hiện nơi những người sống gần gũi con.  Amen.’’

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 16,1-12.15-16; - Thánh Vịnh 106,1-5; - Mátthêu 7,21-29

 
Đường lối Thiên Chúa không giống đường lối con người.  Đó là nguyên lý chủ yếu liên quan tới đời sống tâm linh.  Trí khôn ngoan của con người còn cần được ánh sáng Thần Linh biến đổi và soi dẫn để có thể nhận thức ý Chúa. 

Sara, vợ của Abram là một mẫu người tiêu biểu cho những ai chỉ cậy vào sức riêng, và tìm thoả mãn nơi cá nhân mình.  Bà tự quyết định mọi việc, và bà có lý do để hành động như vậy. 

Đã mười năm trôi qua, kể từ ngày Thiên Chúa hứa, Sara vẫn chưa sinh đẻ; và Lời Thiên Chúa hứa ban cho bà một người con thừa kế, dường như vẫn còn xa lắc, xa lơ.  Sara cho đó là một chuyện nực cười!  Nền văn hóa tại xứ sở Sara, đặt nặng giá trị nơi người con thừa kế; tuy nhiên hành động của Sara tỏ lộ một thái độ kém tự trọng.   

Tức giận và thất vọng của Sara khiến Abram nghĩ rằng, chỉ còn một cách duy nhất là để người tì nữ Hagar thụ thai một hài nhi.  Hagar thụ thai cách hợp lẽ, nên y thị mới bắt đầu giương oai, khinh miệt bà chủ Sara. 

Là tì nữ, Hagar không có một chút thực quyền nào; tất cả đều lệ thuộc vào lòng xót thương của Sara.  Abram dường như không muốn xen lấn vào tình trạng căng thẳng giữa hai người phụ nữ.  Trái lại Sara thì lạm dụng quyền lực để phá vỡ mộng ước của người tì nữ đáng thương Hagar (Sáng Thế 16,6), bằng cách ngược đãi Hagar đến nỗi, nàng chỉ còn một chọn lựa cuối cùng là phải trốn đi nơi khác.      

Tuy Hagar không cảm thấy lẻ loi, nhưng nàng rất buồn phiền.  Bất chợt Thiên Thần Chúa hiện ra với nàng và bảo nàng trở về nhà.  Hagar tự khám phá ra rằng, đường lối Thiên Chúa không phải là đường lối của con người.  Thiên Thần cho người nữ tì đáng thương biết rằng, nàng sẽ trở nên mẹ một dân tộc lớn, và tên của đứa trẻ sau này sẽ là Ishmael, nghĩa là ‘’Thiên Chúa nghe’’.  Thiên Chúa nghe và biết nỗi buồn khổ của Hagar và Người đã chúc lành cho nàng.  

Đời sống đức tin đòi hỏi chúng ta tìm hiểu ý Chúa trong mọi sự.  Mỗi khi muốn giải quyết khó khăn và trở ngại, liên quan tới cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chỉ tin cậy vào sức mạnh và sự khôn ngoan riêng; nhưng, Chúa Thánh Thần muốn chúng ta biết hướng về Người để xin sự khôn ngoan và sức mạnh.

Vấn đề cần quan tâm là cầu nguyện, vì khi cầu nguyện, tâm hồn chúng ta thêm sáng suốt trong mọi quyết định quan trọng; ngoài ra, Thiên Chúa còn tỏ lộ ý định, mục đích và chương trình Người dành cho mỗi người chúng ta; bởi vì, chúng ta chỉ có được những việc này, khi tâm trí mình mở rộng và sẵn sàng đón nhận Lời Chúa.

Kế hoạch của Thiên Chúa là kêu gọi chúng ta luôn tôn vinh danh Người, bằng các hành động đúng với cương vị của người con dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.

‘’Lạy Cha trên trời, xin dậy con nhận biết ý Cha.  Xin gìn giữ con khỏi sa vào vòng ích kỷ, liều lĩnh, bất cần.  Xin Thánh Thần Chúa hướng dẫn con bước theo chân lý và ý Chúa.  Amen.’’

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 15,1-12.17-18; - Thánh Vịnh 105,1-4.6-9; - Mátthêu 7,15-20

 

Chúng ta thiếu dân tộc Do Thái một món nợ lớn.  Sự tương quan giữa chúng ta và dân tộc Do thái bằng niềm tin.  Qua Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta có thể khám phá được đời sống tâm linh của mình. Dân tộc Do Thái là bậc đàn anh, và Abram là tổ phụ của chúng ta về đức tin.  Đức tin của Abram (cũng như của chúng ta) đã từng bị thử thách bằng gian nan và đau khổ trong cuộc sống. 

Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abram nhiều con cháu, xem ra có vẻ mong manh (Sáng Thế 12,27; 13,16),  vì sau nhiều năm, nhìn vào gia đình Abram, thấy vẫn còn thua kém sao trên trời và cát ở bờ biển!  Do đó, Abram vô cùng thất vọng (Sáng Thế 15,2).  Buồn chán tạo thành giận tức, khiến Abram kêu than (theo truyền thống lâu đời) rằng, người đầy tớ của Abram, tên là Êlizer bây giờ trở thành kẻ thừa tự.

Thời xưa nhận định rằng vợ chồng không có con là thành phần bị Thiên Chúa nguyền rủa và ruồng bỏ; vì thế, Abram cảm thấy vô cùng nhục nhã.  Mối liên hệ giữa Abram và Thiên Chúa là một sự thật hiển nhiên, gần gũi và có tính cách rất loài người.  Abram kể cho Thiên Chúa nghe tất cả những gì ông suy nghĩ, mà không một chút e dè, sợ sệt. 

Abram muốn cho Thiên Chúa biết cuộc đời của ông đang diễn tiến ra sao. Cũng vậy, Abram sẵn sàng mong đợi phản ứng của Thiên Chúa đối với các lời ông than phiền.  Mặc dù cảm thấy áy náy, nghi ngại, và chưa hoàn toàn tin tưởng, Abram vẫn để Thiên Chúa tự tiện bầy tỏ thêm về Lời Người đã hứa trước kia.  Thực sự chúng ta không biết rõ Abram đón nhận lời khuyên nhủ của Thiên Chúa như thế nào!

Abram có thể cảm nhận lời của Thiên Chúa trong những lúc ông cầu nguyện, những giây phút vật lộn và giằn vặt với khắc khoải suy tư, hoặc lúc kêu nài Thiên Chúa.  Thiên Chúa tâm tình với Abram giữa lúc ông vô cùng bối rối và đau khổ.  Chúa Thánh Thần phá tan bầu khí u ám đang bao phủ Abram và khuyên dặn ông tin tưởng và phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. 

Giavê bầy tỏ nỗi vui mừng khi biết Abram nhiệt thành đón nhận lời đề nghị của Chúa Thánh Thần:  ‘’Ông tin Thiên Chúa, và vì thế, Thiên Chúa kể ông là người công chính’’ (Sáng Thế 15,6).   

Abram đích thực là mẫu người của lòng tin.  Đức tin của Abram được đúc kết bằng kinh nghiệm trong cuộc sống.  Abram tin tưởng và thực hành Lời Chúa. Abram khám phá được rằng, Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín.  Abram cảm nhận rằng, người ta chỉ có thể đặt hy vọng duy nhất vào Thiên Chúa hằng hữu.

Giữa lúc chiến đấu với thử thách, niềm tin của Abram đã đổi mới.  Chúng ta có thể nhìn nhận Abram vừa như một người cha, vừa như một người anh trong đức tin.  Chúng ta cần dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Người đã để lại cho chúng ta một tặng phẩm cao trọng, làm vinh quang sự sống, nhờ lòng cậy tin vào Lời Thiên Chúa hứa.

‘’Lạy Đức Giêsu Kitô, con vui mừng vì được biết nhân chứng Abram đã bước trên con đường Đức Tin để hướng dẫn con.  Xin Chúa dậy con sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa bằng một niềm tin, và nhận biết đức tin như một khiên thuẫn và như ân thưởng lớn lao Chúa dành cho con.  Amen.’’

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 12 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Sáng Thế 13,2.5-18; - Thánh Vịnh 15,2-3a.3bc-4ab.5; - Mátthêu 7,6.12-14

 
Một số nhật báo vừa thực hiện cuộc thăm dò dư luận cho biết, con người thời nay ít có khả năng kiềm chế nóng giận hơn các thế hệ trước.  Báo cáo cho biết, nhiều cuộc xung khắc đáng tiếc xẩy ra giữa người ngày với người nọ, hoặc giữa hàng xóm láng giềng, đôi khi chẳng do một nguyên nhân to lớn; chỉ giống như cảnh giận cá chém thớt, hoặc tức gió, chửi mây mà thôi. 

Mỗi người trong chúng ta thường đã từng có kinh nghiệm về sự giận dữ, phát xuất từ chính nội tâm mình.  Khi tức giận, chúng ta khó có thể hành động cách sáng suốt và hợp lý; chúng ta thường gạt bỏ sự khôn ngoan ra phía đằng sau, và tìm mọi phương cách gây tổn thương người khác, giống như đã bị người khác làm tổn thương mình.  Chính vì thế mà sự xung khắc mỗi lúc càng leo thang, đến nỗi các cá nhân liên hệ không tự giải quyết ổn thỏa được, mà phải nhờ đến một nhân vật thứ ba, cố gắng đè nén tự ái và lòng kiêu cãng của hai bên xuống, hầu đem lại sự bình an đến cho mọi người.

Abram nhận thấy có sự tranh chấp trong cánh đồng cỏ, giữa những người chăn chiên của mình và Lót, nên ông tìm cách giải quyết cách êm đẹp.  Một làn sóng tức giận dường như đã phảng phất xuất hiện trong tâm trí Abram, khi ông nhận thấy Lót, người cháu của mình, tỏ ra không nhún nhường, nên có thể sự tranh chấp; tuy nhiên, ông đã kịp thời giập tắt được. 

Để cuộc xung đột không tiếp diễn bùng phát, Abram nghĩ ra cách phân chia ranh giới; nhờ thế mới duy trì được sự bình an và yêu thương giữa hai bên gia đình.  Abram cho phép Lót được tự do lựa chọn phần đất mà anh muốn, mặc dù có thể Abram bị thiệt thòi. 

Lót là người hiểu biết, nhưng không phải là người đáng kính phục, đã chọn miền đồng bằng phì nhiêu gần giòng sông Giođan, và để lại cho Abram vùng đất gồ ghề, sỏi đá.  Thế là hai bác cháu chia lià, xa cách nhau.  Lót vui mừng, vì nhìn thấy một viễn ảnh tràn đầy nguồn lợi kinh tế hiện ra ở phiá trước, còn Abram tỏ ra hài lòng, vì thấy sự bình an và tình nghiã gia tộc vẫn tồn tại.

Abram cố gắng đè nén sự tức giận.  Ông bị thiệt thòi về tài sản, nhưng ông cảm thấy tâm hồn thoải mái, vì đã nhận biết ý định của Thiên Chúa.  Kinh nghiệm cho Abram biết, Thiên Chúa đã kêu gọi ông rời bỏ Haran để lên đường, và Thiên Chúa hứa sẽ làm cho ông một việc trọng đại, vì thế tâm hồn ông vui sướng, hơn là được giầu sang, phú qúi.

Abram cất giữ niềm hy vọng này trong lời cầu nguyện.  Sau khi xa cách Lót, Abram lại nghe tiếng nói thân thương của Thiên Chúa, là sẽ chúc phúc và ban cho ông nhiều đất đai trù phú, cùng với con đàn cháu đống.       

Abram đã minh chứng niềm tin của mình, đúng như lời Đức Giêsu nói, ‘’Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa’’ (Mátthêu 5,9).  Nếu dấn thân phục vụ trong việc xây dựng hòa bình, chắc chắn chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa cách rất rõ nét.

Khi cảm thấy sự bực tức từ thâm tâm sắp phát khởi, có thể gây nên biểu tình chống đối, hoặc tranh chấp, chúng ta nên bình tĩnh, đồng thời nguyện xin Chúa ban ơn chống trả cám dỗ, hầu chúng ta có thể giữ được thiện ý và tình nghiã bạn hữu hay gia tộc, bằng bất cứ giá nào.  Sách Cách Ngôn dậy rằng: ‘’Bắt đầu cuộc xung đột là như thể nước vỡ bờ, vậy hãy ngừng lại trước khi cuộc tranh cãi bùng nổ’’ (Cách Ngôn 17,1).

‘’Lạy Thiên Chúa sự Bình An, xin ban cho tâm hồn con sự bình an, hầu con có thể yêu mến cả những khi con nhìn thấy sự bất công xuất đầu lộ diện.  Xin Chúa ban cho lòng trí con sự bình an, để nhờ đó, con dễ dàng nghe tiếng nói của Chúa. Amen.’’
 

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả - Ngày 24 Tháng 6 – Thánh Lễ Chính Ngày

Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả - Ngày 24 Tháng 6 – Thánh Lễ Chính Ngày
Các bài đọc trích sách:
- Isaia 49,1-6;
- Thánh Vịnh 139,1-3.13-15;
- Công Vụ Tông Đồ 13,22-26;
- Luca 1,57-66.80


Chúa Đã Kéo Con Ra Khỏi Lòng Mẹ


     Láng giềng và thân bằng quyến thuộc đồng chia vui với Êlisabéth, vì bà đã hạ sinh một người con trai do ’’lòng thương xót của Chúa đối với bà’’ (Luca 1,58).  Khi được hỏi về việc đặt tên cho cậu con trai mới vào đời, Giacaria viết:  ’’Tên con trẻ là Gioan’’ (Luca 1,63). 


     Mọi người đều ngạc nhiên, nhưng khi đặt cho hài nhi một tên mới, Giacaria muốn công bố cho mọi người biết, Thiên Chúa đang thực hiện một điều mới lạ giữa dân Người.  Sau khi đặt tên cho hài nhi xong, miệng Giacaria mở ra, lưỡi ông trở nên mềm và nói được; ông chúc tụng Thiên Chúa (Luca 1,64).
 

     Cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, Giacaria qúa sung sướng, đoạn dâng lời ngợi khen Người.  Láng giềng và thân bằng quyến thuộc của ông rất đỗi ngạc nhiên, và tỏ lòng kính sợ trước các sự kiện lạ lùng đã xẩy ra.  Họ suy nghĩ về những gì đã nghe và nhìn thấy, bàn thảo với nhau, đoạn xác tín rằng, ’’bàn tay Chúa đã phù hộ em bé.’’ 


     Gioan vao đời, Thiên Chúa thực hiện ’’một điều mới lạ’’ trong lịch sử cứu chuộc nhân loại, vì một người phụ nữ đã luống tuổi sinh đẻ, một người đàn ông câm nói được, và một truyền thống gia đình thay đổi.  Tất cả mọi người đều để tâm suy nghĩ, và thắc mắc về tương lai đứa trẻ:  ’’Con trẻ này rồi sẽ nên như thế nào?’’ (Luca 1,66). 


     Thiên Chúa đối xử với chúng ta tùy theo cách chúng ta đáp trả lòng thương xót Người dành cho chúng ta.  Thiên Chúa chỉ ước mong chúng ta hưởng trọn niềm vui, vì đã được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ của tội lỗi, để từ đó biết kính sợ và không ngừng dâng lời cảm tạ và chúc tụng Người. 
 

     Tháp nhập với Đức Kitô qua bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi trở nên một dân ngợi khen, đúng như lời thánh Phaolô viết:  ’’Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu’’ (Êphêsô 1,5-6).  Thiên Chúa mở cho chúng ta cặp mắt để nhìn, đôi tai để nghe, và tâm trí để hiểu biết tất cả những kỳ công Người đã làm cho chúng ta. 


     Giống như Êlisabéth, Giacaria và láng giềng của các Ngài, chúng ta cũng được hưởng đặc ân nhận biết các việc làm do lòng thương xót của Thiên Chúa.  Giống như các Ngài, chúng ta cũng được vinh dự đền đáp lòng thương xót của Thiên Chúa, bằng cách dâng lời ngợi khen và cảm tạ Người.


     Càng thêm tuổi, tinh thần càng vững mạnh (Luca 1,80), nhờ biết suy niệm những điều lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.  Thiên Chúa mở rộng tâm trí chúng ta để chúng ta có thể nhận biết các việc Người đã làm, và những lời Người đã nói, hầu chúng ta dâng lời ca tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa. 


     Sự thật và nền tảng cuộc sống của chúng ta là nhận biết tình yêu Chúa dành cho chúng ta và sắp đặt cho mỗi người một chương trình riêng, đồng thời nhận biết đời sống của chúng ta được đặt dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu, Đấng đã chiến thắng sự dữ, tội lỗi và sự chết. Chúng ta là lữ khách đang trên đường về nhà Cha Trên Trời, Đấng hằng yêu thương và tha thứ, cũng như cứu rỗi chúng ta, trong Đức Kitô Giêsu.
’’Lạy Cha,
xin mở trí óc con để con nhận biết
các việc làm đầy lòng thương xót và yêu mến
Chúa dành cho con.  Xin Chúa dậy con
biết suy ngẫm các chân lý đức tin.
Xin Chúa mở miệng lưỡi con để con
biết dâng lời ngợi khen và thờ lậy Chúa. Amen.’’

Bài đọc thêm
đăng ngày 24 tháng 6 năm 2012