Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên - Năm Lẻ

    Thứ Năm Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên  -  Năm Lẻ
    Các bài đọc trích sách: - Xuất Hành 40,16-21.34-38; - Thánh Vịnh 84,3-6.8.11;
    - Mátthêu 13,47-53
     
     
    Phúc Thay Kẻ Lấy Ngài Làm Sức Mạnh
     
     
     
    Việc giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người là một sự kiện thật sự khó hiểu.  Bài trích sách Xuất Hành hôm nay phác hoạ hình ảnh ấy.  Thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa, ngày đầu năm mới, tức là chín tháng sau khi đặt chân tới núi Sinai, Môsê cho dựng Nhà Xếp (Nhà Tạm). 
     
    Khi mọi việc đã ổn định, thì có một ‘’đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang của Thiên Chúa đầy tràn Nhà Tạm.’’  Như thế là cuộc hành trình tiến vào Đất Hứa có thể thực sự bắt đầu, dưới sự chỉ đạo của Thiên Chúa.  Từ điểm này, mọi người nhận rõ tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa, không bao giờ thay đổi.
     
    Đọc Kinh Thánh Cựu Ước, đôi khi chúng ta thấy có một chút khó hiểu, nhất là lối viết của người dân Hebrev (cổ Do Thái). Các trình thuật thường được lập đi lập lại nhiều lần; chẳng hạn, khi đề cập tới lòng trung tín của Thiên Chúa, những con đường huyền nhiệm, hoặc mô tả việc Thiên Chúa chờ đợi sự đền đáp của con người… 
     
    Kinh Thánh diễn đạt lòng trung tín như là một trong các đặc tính của Thiên Chúa.  Lòng trung tín là một đức tính tốt của người cha, đối xử với con cái, đã được đề cập tới nhiều lần, Cựu Ước cũng như Tân Ước.  Con người liên hệ với Thiên Chúa, như đã ghi trong Kinh Thánh, là cách đền đáp lòng trung tín tuyệt đối, đã được Đấng ban hành các mệnh lệnh, khẳng định nhiều lần.  Thực vậy, tính bất biến và lòng trung tín được mô tả như bản tính của Thiên Chúa. 
     
    Điều Người đã hứa, không bao giờ Người thay đổi.  Sự kiện này đã được liên tục nhắc tới trong toàn bộ lịch sử công trình cứu chuộc, với mục đích phản lại đặc tính hay thay đổi của nhân loại.  Chỉ trong Thiên Chúa nhập thể, con người mới tìm được ơn cứu độ, bởi vì Đức Kitô là Đấng đã bầy tỏ lòng trung tín tuyệt đối, bằng cái chết trên thập giá vì chúng ta.
     
    Các đoạn sách đã đọc, diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, dưới hình nào cũng đều qui về một mục đích chung, phù hợp với các nền văn hóa, và thích ứng trong mọi thời đại.  Dù có được chúng ta đón nhận hay không, thì tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa vẫn ngàn đời không phai nhạt, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu. 
     
    Đó là một mầu nhiệm thực sự phức tạp và khó hiểu, không khác gì tác động của Thiên Chúa trong cuộc sống mỗi con người, qua các biến cố xẩy ra hằng ngày, như sự buồn khổ, thử thách, gặp gỡ cá nhân, du lịch, thi đua, chiến đấu, cám dỗ…vân…vân, và cuối cùng, đạt được ơn thánh, vì đã chiến thắng sự dữ. 
     
    Tâm hồn chúng ta không thể hiểu được các mầu nhiệm nơi Thiên Chúa; lý trí chúng ta bất lực khi suy luận về sự thật này, bởi vì sự thật tiềm ẩn trong các ân sủng tình yêu, do Thiên Chúa ban phát cho con người, để con người đem hoa qủa đến với thế gian.  Điều tốt đẹp chắc chắn sẽ phải đến, giống như hoàn cảnh đau khổ lâu dài của Môsê.  Nếu chúng ta kết hợp với Chúa, và để cho mọi lo âu, buồn phiền giải thoát chúng ta.
     
                    ‘’Lạy Chúa, Chúa là mầu nhiệm, nên tâm hồn và trí khôn con người không thể hiểu thấu, mặc dù Chúa luôn ở gần gũi với trái tim biết yêu thương của nhân loại.  Chúng con cảm tạ Chúa đã tạo dựng nên những trái tim có khả năng giao tiếp và làm vừa long Chúa cũng như tha nhân.  Amen.’’ 

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Xuất Hành 34,29-35; - Thánh Vịnh 99,5-7.9; - Mátthêu 13,44-46

 
Hãy Suy Tôn Đức Chúa
Là Thiên Chúa Chúng Ta

 
Nhiều khi nghĩ rằng, được nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa cách tỏ tường, chúng ta sẽ cảm thấy rất hoan lạc, nhưng trên thực tế, nếu được cái vinh hạnh ấy, có lẽ chúng ta không thể chịu đựng nổi.  Chúng ta cùng nhau suy niệm trình thuật trong Phúc Âm v việc Đức Giêsu Biến Hình trên núi Tabor, trước sự chứng kiến của ba môn đệ.  Ánh sáng nơi Đức Giêsu tỏa ra cực kỳ mạnh, đến nỗi, các ngài không chịu đựng nổi; đặc biệt là ngay sau khi Đức Giêsu, lần đầu tiên, cho các ngài biết, cuộc thương khó và tử nạn của Người.

Bài đọc hôm nay cho chúng ta biết, con người phải phấn đấu nhiều lắm, mới có đủ khả năng chiêm ngắm vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa.  Sau khi đàm đạo với Thiên Chúa, ông Môsê, từ một ngọn núi khác, tên là Sinai, đi xuống cùng dân chúng, mặt ông chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa.  Ánh sáng từ khuôn mặt Môsê tỏa ra qúa mạnh, đến nỗi, ông phải lấy một tấm màn che mặt lại, thì dân chúng Israel mới dám đến gần. 

Ba môn đệ đã nhìn thấy Môsê hiện diện trong cuộc Biến Hình của Đức Kitô; và qua sách Khải Huyền, chúng ta biết, ở trên thiên đàng, các kẻ được cứu chuộc sẽ ‘’hát bài ca của ông Môsê, tôi tớ Thiên Chúa, và bài ca của Con Chiên’’ (Khải Huyền 15,3). Dường như vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa qua ông Môsê, cũng giống như vinh quang chiếu tỏa qua Đức Giêsu.

Ánh hào quang của ông Môsê, mang ý nghĩa một người tôi trung gần gũi Thiên Chúa.  Vinh quang Thiên Chúa xuyên qua, trước tiên là ông Môsê, và sau đó đến Đức Giêsu Kitô; nhờ thế, sức mạnh ánh sáng vinh quang ấy đã giảm bớt, có thể dễ dàng thấm nhập vào thân xác yếu hèn của chúng ta; giống như khi chúng ta giao tiếp với mặt trời và mặt trăng. 

Mặt trăng tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu, hấp dẫn, dễ thương, mọi người có thể đưa cặp mắt trìu mến chiêm ngắm; khác hẳn với ánh mặt trời gay gắt. Tất cả chúng ta là tội nhân, vì thế, nếu đứng trước dung nhan Thiên Chúa, vinh quang và quyền năng của Người sẽ làm cho chúng ta trở nên đui mù. 

Chúng ta có thể chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa nhập thể, một dung nhan dịu hiền; hoặc ông Môsê, người tôi trung Thiên Chúa; bởi vì ánh sáng nơi các Ngài không còn cực mạnh đến độ có thể làm con mắt chúng ta trở thành mù quáng. 

Chúng ta được thanh luyện để kết hợp với Thiên Chúa tình yêu, vào giờ sau hết, ‘’hầu chúng ta tắm gội trong ánh sáng của Người’’ (Khải Huyền 22,4-5).  Như thế đủ biết, ánh đèn hay ánh sáng mặt trời đều là những vật thể không thích nghi, chỉ có sự tinh sạch tuyệt vời mới đủ sáng chiếu rọi khắp nơi.

Muốn trở thành tôi tớ trung tín theo mẫu gương Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết, ở vào thời điểm nào đó, chúng ta cũng được mời gọi làm những ‘’bộ phận lọc’’ vinh quang Thiên Chúa, qua các lối hẹp. Thánh Anphongsô Liguori (1696-1797) đã ví lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô với Bí Tích Hòa Giải.

‘’Lạy Chúa, chúng con trông đợi ánh sáng của Chúa, nhưng đừng để chúng con lầm tưởng ánh sáng ấy là của chính chúng con. Xin Chúa giúp chúng con mang ánh s áng êm dịu của Chúa chiếu tỏa đến tất cả những người chúng con gặp gỡ, hầu Tin Mừng cứu độ của Chúa được truyền gieo đến tận cùng trái đất.  Amen.’’

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên -- Năm Lẻ

    Thứ Ba Sau Chúa Nhật 17 Thưoờng Niên  -- Năm Lẻ
    Các bài đọc trích sách: - Xuất Hành 33,7-11.34,5-9.28; - Thánh Vịnh 103,6-13;
    - Mátthêu 13,36-43
     
    Chúa Là Đấng Từ Bi Nhận Hậu
     
    Sau khi dân Israel hủy bỏ giao ước với Thiên Chúa, bằng cách tôn thờ bò vàng, thì Thiên Chúa nói với Môsê rằng, Người sẽ không đồng hành với Dân Người vào Đất Hứa nữa; tuy nhiên, Người sẽ sai một Thiên Thần dẫn đường, và đánh đuổi các địch thù ra khỏi họ. Thiên Chúa nói, nếu đi với họ, có thể Người sẽ tức giận và tiêu diệt họ ở dọc đường, vì họ là một dân cứng đầu, cứng cổ. 
    Nhưng, Môsê đã khẩn xin Thiên Chúa đi với họ, trong suốt cuộc hành trình, và tái lập một giao ước mới.  Môsê đã thành công trong việc can thiệp với Thiên Chúa.  Qua khung cảnh này, chúng ta nhận thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Thiên Chúa và Môsê, đồng thời biết rõ Thiên Chúa rất thương mến Môsê.  Thiên Chúa hiện ra với Môsê nhiều hơn tất cả mọi cá nhân khác, và ‘’đàm đạo với Môsê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau.’’ (Xuất Hành 33,11).  Tuy nhiên, Thiên Chúa không tỏ lộ toàn diện, như Người đã nói với Môsê rằng, Người không trực tiếp tỏ mình ra với Môsê, bởi vì, ‘’con người không thấy Ta mà vẫn sống.’’ (Xuất Hành 33,20). 
    Vinh quang Thiên Chúa vô cùng chói sáng, đến nỗi, con người tội lỗi không thể chịu đựng nổi dung nhan thánh thiện của Người.  Tuy nhiên, vì yêu thương, Thiên Chúa quyền năng và uy nghi đã tỏ lộ bản tính của Người cho chúng ta.  Thiên Chúa thân hiện như một Đấng đầy lòng thương xót, chậm bất bình và thành tín.  Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Israel, mặc dù đã nhiều lần, họ phản bội Người. 
    Thiên Chúa cũng yêu thương chúng ta như vậy.  Thiên Chúa đối xử với chúng ta rất tử tế, thân tình, mặc dù chúng ta không xứng đáng được hưởng ân huệ ấy.  Thiên Chúa kiên nhẫn, chịu đựng những sai lầm của chúng ta.  Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Người, bằng cách sai Con Một của Người đến trong thế gian, để chịu chết vì tội lỗi chúng ta. 
    Không quan tâm tới tội lỗi của họ, Thiên Chúa tiếp tục ở với dân Israel, trong suốt cuộc hành trình của họ.  Chúng ta nên vững tâm tiến bước, bởi vì biết rằng, Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, để hướng dẫn và ban sức mạnh cho chúng ta.  Thực vậy, chúng ta được hưởng đặc ân hơn cả dân Israel thuở xưa, vì lúc ấy, chỉ một mình Môsê có thể đàm đạo với Thiên Chúa; nhưng ngày nay, mỗi người trong chúng ta đều có thể đàm đạo với Thiên Chúa. 
    Đức Giêsu đã lấy máu mình, rửa sạch tội lỗi chúng ta, để chúng ta có thể đến trước nhan thánh Thiên Chúa, mà không còn rụt rè, sợ hãi nữa.  Ánh vinh quang của Thiên Chúa, phản chiếu qúa mạnh, đến nỗi khi tiếp kiến Người, Môsê phải che mặt, nhưng, trong Đức Kitô, ‘’tất cả chúng ta mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương’’ (2 Côrintô 3,18).  Chúng ta gieo niềm hy vọng này trong suốt cuộc lữ hành trần gian, mắt hướng nhìn tới ngày, chúng ta có thể đối diện với Thiên Chúa cách nhãn tiền.
     
                    ‘’Lạy Chúa, Chúa đã tỏ lộ cho chúng con biết Chúa, một Thiên Chúa đầy lòng khoan từ và nhân hậu, chậm bất bình và tràn đầy yêu thương. Trong nỗ lực phục vụ Chúa, xin cho con luôn đặt trọn niềm tin vào tình yêu bao la của Chúa cho đến một ngày chúng con có thể được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa.  Amen.’’
 

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 17 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Xuất Hành 32,15-24.30-34; - Thánh Vịnh 106,19-23; - Mátthêu 13,31-35

 
Dân Này Đã Phạm Một Tội Tầy Trời

 
Khi Môsê lên núi đàm đạo lâu giờ với Thiên Chúa, thì dân chúng ở dưới rất lo sợ, tưởng rằng, ông không trở lại với họ nữa.  Trước mắt họ, là một cuộc hành trình gian khổ trên hoang địa, rồi mới có thể vào miền đất xa lạ Canaan, và ở đấy, họ sẽ phải đương đầu với những chống đối của dân địa phương.

Họ cảm thấy Thiên Chúa của Môsê ở qúa xa, vì thế, họ cần có một vị chúa tể cùng với họ tiến bước, trên đường lữ hành đầy hiểm trở.  Họ cho rằng, ở Ai Cập, cũng như Canaan, con bò được kể là động vật đầy năng xuất và có tính dục cao; xứng đáng là đấng bảo vệ dân Israel.  Nhưng, nếu nhận cob bò làm chúa tể, đương nhiên họ vi phạm giáo ước vừa mới thỏa hiệp với Thiên Chúa, và như thế, họ trở thành kẻ bất phục tùng lệnh truyền, ‘’không được thờ kính các ngẫu tượng’’. 

Mặc dù biết Thiên Chúa của Môsê đã tỏ lộ quyền năng và lòng thương xót, bằng cách đem họ ra khỏi Ai Cập, băng qua Biển Đỏ, nhưng họ vẫn không tin là Người sẽ tiếp tục hướng dẫn họ trong suốt cuộc lữ hành bước vào Đất Hứa.  

Thiên Chúa cũng làm nhiều điều tốt lành cho chúng ta.  Chúng ta đã được cứu chuộc, nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu, đồng thời được tham dự vào sự sống lại với Người.  Đức Giêsu đã tuôn đổ Thánh Thần trên chúng ta, để chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Qua cuộc sống riêng lẻ của từng người, chúng ta cũng có thể cảm nhận được các cách thế, Thiên Chúa chúc phúc và bảo vệ chúng ta. 

Tuy nhiên, khi gặp khó khăn, thử thách, chúng ta dễ quên các điểm ưu việt này, mà chỉ xoay xở đủ cách, cậy nhờ khắp nơi, để tìm cho được sự an thân.  Thiên Chúa dường như xa vời, vì thế, chúng ta không tin là Người quan tâm, lo lắng cho chúng ta. 

Giống như dân Israel, chúng ta cũng chỉ cậy nhờ vào những gì có lợi ích trước mắt, mang sắc thái trần tục.  Các thần minh của chúng ta, có thể là tiền bạc, thế lực, thú vui và danh vọng.  Không sai lầm, khi chúng ta nặng lòng yêu chuộng các thứ điển hình nêu trên, tuy nhiên, nếu vì  dụng ý thay thế Thiên Chúa, hoặc đặt trọn hy vọng và mục đích vào các thứ ấy, thì thật là một hành động đáng thương hại!

Chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng có thể đáp ứng mọi nhu cầu thiết thực của chúng ta, vì Người hằng yêu mến, chứ không bao giờ phản bội và thất hứa với  chúng ta.  Cả những khi gặp khó khăn, thử thách nhất, chúng ta cũng nên nhớ đến các ơn lành, phúc lộc, Chúa đã ban và Lời Người hứa với chúng ta, hầu có thể tin chắc rằng, Người luôn ở với chúng ta. 

Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Israel đi qua hoang địa, và giúp họ chiến thắng kẻ thù tại Canaan, thì Người cũng sẽ đưa chúng ta ra khỏi cuộc lữ hành gian khổ tại trần thế này, và cuối cùng đem chúng ta vào miền Đất Hứa là quê hương Người, ở trên trời.

‘’Lạy Cha, Cha là Thiên Chúa thật , Cha đã tạo dựng chúng con và đã cứu vớt chúng con khỏi vòng tội lỗi và sự chết, nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô, Con Cha.  Xin Cha cho chúng con luôn phụng thờ Cha trước tất cả mọi loài, và không ngừng tin cậy vào tình thương bất diệt của Cha.  Xin Cha dẫn chúng con qua mọi gian nan, nguy hiểm tại trần thế này, để chúng con vào hưởng cuộc sống vĩnh cửu với Chúa.  Amen.’’

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Chúa Nhật XVII Thường Niên - Năm C

  • Các bài đọc trích sách:
  • - Sáng Thế 18,20-32;
  • - Thánh Vịnh 138,1-3.6-8;
  • - Côlôsê 2,12-14;
  • - Luca 11,1-13

Anh Em Cứ Xin Thì Sẽ Được


     Cần giúp đỡ, chúng ta cầu khẩn, van xin.  Nếu chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc cầu nguyện, cũng là điều dễ hiểu.  Chính các môn đệ, đã sống với Đức Giêsu một thời gian dài, thường xuyên nghe Người giảng dạy, và học biết gương lành của Người, thế mà vẫn cần tới sự trợ giúp của Người. 

     Chúng ta chớ hổ thẹn, nhưng nên bắt chước các môn đệ, xin Đức Giêsu hướng dẫn cách thức cầu nguyện:  ’’Thưa Thầy, xin hãy dậy chúng con cầu nguyện.’’ (Luca 11,1).

     Đề cầu nguyện, không cần dùng lời lẽ rườm rà, phức tạp.  Lời Đức Giêsu cầu nguyện, theo thánh Luca ghi, rất đơn sơ, giản dị, nhưng tràn đầy ý nghĩa. Đức Giêsu không bảo các môn đệ phải dùng câu văn chau chuốt, dài dòng, bóng gió. 

     Điều quan trọng trong việc cầu nguyện là chân thành, cởi mở.  Lời cầu nguyện phải thích nghi với hoàn cảnh sống hiện tại, phát xuất từ nội tâm mỗi người, sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, chứ không chỉ là lời nói bôi bác, ở đầu môi chót lưỡi. 

     Những lời cầu nguyện hay ho, thi vị, chúng ta có thể tìm thấy nơi các trang sách-báo đã viết sẵn, nhưng chưa hẳn đã thích hợp với hoàn cảnh thực tế.  Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một mẫu cầu nguyện tuyệt hảo, phản ảnh mối tương giao mật thiết giữa Người và Thiên Chúa Cha. Điều tối quan trọng Đức Giêsu muốn dậy chúng ta là cầu nguyện liên tục. 

     Đức Giêsu kể một câu truyện thật hay, đề cập tới người bạn giữa đêm khuya, gọi cửa người láng giềng, xin thức ăn.  Tại Galilê, có thói quen, cả gia đình đều ngủ chung trong cùng một gian phòng, trên căn gác. 

     Nếu muốn trả lời người gọi cửa vào ban đêm, thì phải trèo qua những người đang nằm ngủ, bật đèn sáng, mở cửa; nên các động tác kia làm cho mọi người trong gia đình đều thức dậy. 

     Chúng ta có thể nghĩ rằng, tiếng gọi cửa của người láng giềng giữa đêm khuya, chắc chắn không được đón nhận với thái độ hoan hỉ, và nếu muốn được trả lời, thì ít nhất, có lẽ phải cần một tiếng động mạnh khác thường.

     Người gọi cửa đã có mục đích và ý định rõ ràng, nên dồn hết nghị lực để đạt cho được nguyện vọng.  Giáo huấn về cầu nguyện của thánh Luca, mở đầu bằng hai tiếng ’’Lạy Cha.’’ 

     Đức Giêsu cầu xin Chúa Cha; và Người kết thúc bằng lời xác quyết rằng, chắc chắn Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần xuống với những kẻ kêu xin Người.  Nhưng tại sao phải cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần xuống với chúng ta? 

     Bởi vì, nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta mới được tham dự vào đời sống Thiên Chúa, được sức mạnh Thiên Chúa, được sự hướng dẫn, giống như Đức Giêsu đã đón nhận, trong suốt cuộc sống, khi Người còn ở trần gian. 

     Chúa Cha rất ưa thích và mến chuộng kinh cầu nguyện của Đức Giêsu, vì lời kinh có khả năng thay đổi cuộc sống con người.  Ước mong mỗi người trong chúng ta thường xuyên dùng lời kinh này để nguyện xin với Chúa Cha.    
’’Lạy Chúa Giêsu,
xin dậy con cầu nguyện.
Xin dậy con sống theo đường lối
của Chúa trong kinh cầu nguyện,
 hầu con tiến lại gần Chúa Cha,
và xin đổ đầy ân sủng Thánh Thần
xuống trên con.  Amen.’’

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 16Thường Niên - Năm Lẻ



 
Các bài đọc trích sách:
- Xuất Hành 24,3-8;
- Thánh Vịnh 50,1-2.5-6.14-15;
- Mátthêu 13,24-30


Máu Giao Ước Đức Chúa Đã Lập Với Anh Em


     Khi ban Lề Luật cho Môsê, Thiên Chúa cũng hứa là sẽ chúc phúc cho dân Israel, tiêu diệt kẻ thù và đem chiến thắng về cho họ, nếu họ tuân giữ các giới răn của Người. 

     Tại các buổi lễ tiếp nhận giao ước, dân chúng hứa sẽ tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa.  Thế rồi, người ta hiến tế các thú vật, lấy máu rẩy lên bàn thờ và trên dân chúng.  Người ta thường dùng máu trong các lễ tiếp nhận giao ước, vì máu tượng trưng cho sự sống, và việc rẩy máu là dấu chỉ mức độ quan trọng của khế ước.   

     Qua nghi thức ấy, tội lỗi được tẩy rửa, và máu rẩy trên dân chúng, chứng tỏ tội nhân cần ơn tha thứ.  Ngoài ra, còn thêm một ý nghĩa nữa là, nếu họ không tuân hành, hoặc hủy bỏ giao ước, thì họ sẽ phải chết, như con vật hiến tế.  Máu rảy lên bàn thờ, chứng tỏ rằng, Thiên Chúa và con người đã kết hợp với nhau bằng giao ước.

     Là người Kitô hữu, chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào giao ước mới, đã được ghi dấu bằng máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá vì chúng ta, như lời dẫn giải của thánh Phêrô:  ‘’Anh em nên biết rằng, không phải nhờ những của chóng hư nát, vàng hay bạc, mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.  Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ máu châu báu của Đức Kitô, giống như Con Chiên vẹn toàn, vô tì vết’’ (1 Phêrô 1,18-19). 

     Trong Cựu Ước, Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho dân Người, nếu họ tuân giữ các giới răn của Người; trong Tân Ước, Thiên Chúa chúc phúc và ban ân sủng, để chúng ta tuân giữ các giới răn của Người. 

     Tuân giữ Lề Luật không vì mục đích tìm kiếm ân sủng, nhưng là cách ăn năn, sám hối, vì tội lỗi chúng ta; để từ đó, chúng ta có thể nhận ơn tha thứ và lòng thương xót, nhờ cuộc tử nạn của Đức Giêsu trên thập giá. 

     Khi đón nhận ơn tha thứ, chúng ta tham dự vào sự sống lại của Đức Kitô, và Thánh Thần Chúa sẽ ban cho chúng ta một sức mạnh mới, để thực thi ý Người. 

     Chúng ta có thể vui mừng, vì Thiên Chúa không bao giờ lên án tội lỗi và yếu đuối của chúng ta; miễn là, mỗi lần vấp phạm, chúng ta chạy đến Chúa, xin ơn sám hối, thì sẽ được Người tha thứ, và ban cho chúng ta sự sống mới.  

     Vì đã được Thiên Chúa chúc phúc và ban ân sủng, thì chúng ta cũng có bổn phận phải cố gắng sống theo giới răn của Người; nhưng không thể bằng sức riêng của mình. 

     Khi cầu nguyện và đón nhận các Bí Tích, Thánh Thần Chúa có thể làm cho sự sống của Đức Kitô lớn mạnh trong chúng ta, hầu mỗi ngày chúng ta sống phù hợp thánh ý Chúa hơn.
‘’Lạy Chúa,
Chúa đã gọi chúng con làm con cái Chúa.
Chúa đã cứu chuộc chúng con
bằng máu châu báu Đức Giêsu Kitô.
Chúng con vui mừng, vì có thể được phép
tiến vào vương quốc Chúa.
Chúng con cầu xin Chúa tuôn đổ trên
chúng con sức mạnh và sự khôn ngoan để
chúng con sống xứng với ơn gọi
gia nhập vương quốc Chúa.  Amen.’’

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria - Ngày 26 Tháng 7

  • Các bài đọc trích sách:
  • - Huấn Ca 44,1.10-15;
  • - Thánh Vịnh 131,11.13-14.17-18;
  • - Mátthêu 13,16-17

Danh Thơm Mãi Lưu Truyền Hậu Thế


Thánh Gioakim + Thánh Anna và Đức Maria

     Hôm nay, chúng ta cử hành lễ mừng kính hai vị thánh rất quan trọng trong Giáo Hội, nhưng ít người biết đến, bởi vì, có lẽ ái nữ vô cùng nổi tiếng của các ngài là Đức Maria, thân mẫu Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, đã làm lu mờ hẳn vai trò của các ngài. 

     Chúng ta không biết nhiều về thân phụ mẫu Đức Maria.  Trong Kinh Thánh không đề cập tới tên tuổi các ngài.  Truyền thống cho biết, thân phụ Đức Maria là thánh Gioakim và thân mẫu là thánh Anna. 

     Trong Ngụy Phúc Âm thánh Giacôbê, xuất bản vào thế kỷ II, đề cập đến cả hai thánh Gioakim và thánh Anna.  Thánh Anna được chọn làm quan thầy những người mẹ tương lai, và thánh Gioakim là quan thầy những người cha tương lai trong các gia đình.


Thánh Nữ Anna và Đức Maria
     Hai tiếng ‘’Xin Vâng’’ của Đức Maria đã quyết định vận mệnh nhân loại.  Tự do là tặng vật cao trọng nhất, Thiên Chúa ban cho con người, nghĩa là Đức Maria có toàn quyền chọn ý Chúa để làm nền tảng cho cuộc sống của mình; và Đức Maria cũng có thể từ chối đề nghị của Thiên Chúa, nhưng, cuối cùng, Đức Maria đã nói, ‘’xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền’’ (Luca 1,38).

     Kết quả việc tuân hành ý Chúa, là Đức Maria đã thụ thai Đức Giêsu, nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần.  Dường như Thiên Chúa chỉ tuyển chọn những kẻ tầm thường, nghèo khó và thấp hèn, để thực hiện kế hoạch của Người tại trần gian.

     Sự thánh thiện, khiêm nhu trong con người bé mọn, có thể phá vỡ sức mạnh của thế gian.  Môi trường sống dậy Đức Maria biết cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, tuân hành Lề Luật cổ truyền Do Thái (Torah), và yêu mến Thiên Chúa của dân tộc Israel, hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức mình.  Chính vì thế mà sau này Đức Maria đã tự hiến dâng Con mình cho Thiên Chúa.

     Có lẽ thánh Gioakim và thánh Anna là những người đầu tiên cảm nhận rõ chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
‘’Lạy Chúa,
Chúa đã đổ tràn ơn phúc xuống
Thánh Anna và thánh Gioakim,
để ái nữ của hai đấng là Đức Maria
mỗi ngày càng lớn lên
trong sự tuân hành Lời Chúa
và chuẩn bị trở nên người Mẹ của Con Chúa;
xin Chúa giúp chúng con biết phó thác
trong vòng tay nhân lành của Chúa
và ban cho chúng con ơn cứu độ
như Lời Chúa đã hứa với Dân Người;
nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa,
Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa,
hợp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn thuở muôn đời.  Amen.’’ 

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Thánh Giacôbê Tông Đồ - Ngày 25 Thánh 7

Thánh Giacôbê Tông Đồ  - 
Đấng Bảo Hộ Những Người Hành Hương

Giacôbê là người rất gần gũi Đức Giêsu,
là vị tử đạo đầu tiên trong số các tông đồ,
hiện nay là đấng bảo hộ những người hành hương.

Thánh Giacôbê Tông Đồ
    Tông đồ Giacôbê hiện nay có liên hệ đặc biệt với con đường hành hương nổi tiếng dẫn tới Santiago de Compostela.  Santiago (tiếng Tây Ban Nha) có nghĩa là ‘’Thánh Giacôbê’’. Kinh Thánh Tân Ước nói rõ vai trò của Giacôbê, là người thuộc nhóm sống gần gũi Đức Giêsu, và là vị tử đạo đầu tiên trong số các tông đồ; sau này Giacôbê trở thành đấng bảo hộ nước Tây Ban Nha và những người hành hương.

Một Trong Những Người Gần Gũi Đức Giêsu Nhất
     Theo Kinh Thánh Tân Ước, Giacôbê, và người em Gioan, là những môn đệ đầu tiên, đi theo Đức Giêsu. Tin Mừng kể rằng, hai ông đang thả lưới bắt cá, thì Đức Giêsu đến và bảo các ông hãy đi theo Người (Mátthêu 4,18-22; Máccô 1,19-20; Luca 5,10).  Trước đó, Đức Giêsu cũng đã gọi Phêrô và Anrê, hai anh em khác, đang quăng chài xuống biển, cũng một chỗ.  Thế rồi, Phêrô cùng với Giacôbê và Gioan lập thành một nhóm sống bên cạnh Đức Giêsu.

     Nhiều lần, Đức Giêsu bỏ các môn đệ khác ở một nơi, mà cùng với Giacôbê, Gioan và Phêrô đến một chỗ riêng.  Điển hình là trong buổi Đức Giêsu biến hình dạng trên đỉnh một ngọn núi trước mặt các ông, và Thiên Chúa đã gọi Đức Giêsu là con yêu dấu của Người (Mátthêu 17,1-9; Máccô 9,1-8; Luca 9,28-36).   Và vào buổi tối bước sang ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Giêsu vào vườn GiệtMani để cầu nguyện, cũng chỉ có Giacôbê, Gioan và Phêrô được phép đi theo Người mà thôi (Mátthêu 26,37; Máccô 14,33).

Một Người Cũng Như Mọi Người Khác
     Mặc dù Kinh Thánh mô tả Giacôbê là một trong số những người sống gần gũi Đức Giêsu, nhưng không nêu rõ lý do gì Ngài được cái vinh dự ấy. Phêrô được Tin Mừng mô tả là một người có cái hay và cái dở, thì Giacôbê cũng hoàn toàn giống như vậy. Một chứng minh cụ thể, theo Tin Mừng thánh Máccô, thì Giacôbê và Gioan đã xin Đức Giêsu dành cho những địa vị danh dự, một người được ngồi bên hữu và một người được ngồi nên tả trong nước Người (Máccô 10,35-45).

     Nhân tính và sai lầm nơi Giacôbê cũng được phô bầy tại vườn Giệtsimani, nơi Đức Giêsu yêu cầu ông, cùng với Gioan và Phêrô, hãy canh thức, trong lúc Người cầu nguyện; nhưng tất cả ba ông đều ngủ, liên tục ba lần (Máccô 14,32-41; Mátthêu 26,36-46). 

Tử Đạo
     Khi Giacôbê và Gioan xin được những chỗ danh dự trong nước Đức Giêsu, Người liền hỏi các ông là các ông có uống nổi chén Người sắp uống, hay chịu được phép rửa Người sắp chịu không?  Đức Giêsu ám chỉ cuộc thương khó và tử nạn của Người.  Bấy giờ, Giacôbê và Gioan không do dự và trả lời ngay là được! và liền sau đó, Đức Giêsu báo trước cho các ông biết là các ông sẽ phải chết vì đạo.

     Cũng theo sách Công Vụ Tông Đồ, chương 12, thì Giacôbê bị trảm quyết vào lúc 44 tuổi , theo lệnh của vua Hêrôđê Agrippa I, tổng trấn Rôma tại Giuđêa, trụ sở chính ở Giêrusalem.  Giacôbê là tông đồ duy nhất chịu tử đạo, được Kinh Thánh Tân Ước đề cập tới.   Theo truyền thuyết, thì Giacôbê là người đầu tiên chịu tử đạo trong số 12 tông đồ.

Một Trong Số Nhiều Người Tên Là Giacôbê.
     Đọc giả Kinh Thánh Tân Ước dễ lẫn lộn, vì nhiều người có tên là Giacôbê.  Ngoài tông đồ Giacôbê, còn có các môn đệ khác cũng tên là Giacôbê, và Giacôbê, anh em với Đức Giêsu.  Theo truyền thống công giáo, thì tông đồ Giacôbê còn được biết đến với tên là Giacôbê Cả và Giacôbê Lớn.  Trong Tin Mừng, Giacôbê và người em Gioan, còn được gọi là ‘’hai người con ông Dêbêđê’’, bởi vì tên của thân phụ các ông là Dêbêđê.

Đấng Bảo Hộ Nước Tây Ban Nha.
     Trong hiện tại, tông đồ Giacôbê được biết đến như một Đấng Bảo Hộ nước Tây Ban Nha, vì mỗi năm có tới hằng trăm ngàn người đến hành hương tại Santiago de Compostela, thuộc Galicia/Galize, (ở phiá Tây Bắc Tây Ban Nha), mà người ta nghĩ rằng, hài cốt thánh nhân để ở đó.  Tân Ước cũng như sử liệu giáo hội không để lại một dấu tích nào chứng minh Giacôbê và nước Tây Ban Nha có những tương quan với nhau.

     Truyền thuyết Tây Ban Nha, khởi đi từ thế kỷ thứ bảy, kể rằng, trước khi tạ thế, Giacôbê đã ở Tây Ban Nha để loan báo sứ điệp Kitô giáo. Cũng theo truyền thuyết, thì Giacôbê rao giảng Tin Mừng cho người Tây Ban Nha trong một thời gian, nhưng sau khi Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với ông trong một thị kiến, ông trở lại Giuđêa – thời Hêrôđê và chết.

Santiago de Campostela
     Truyền thuyết nói thêm, sau khi chết và nhờ sự kiện lạ lùng, Giacôbê đã được đưa trở lại Tây Ban Nha.  Các môn đệ của Giacôbê đem thi hài ông lên một chiếc thuyền buồm, rồi gió đẩy tới địa điểm hiện tại.  Thiên thần lèo lái chiếc thuyền buồm về Tây phương, qua khoảng bốn ngàn kilômét, tới thị trấn Padrón, dọc bờ biển miền Galize,  Tây Ban Nha.  Đến đây, thi hài của Giacôbê bị vướng vào một tảng đá lớn, tạo thành hình dáng như một chiếc quan tài.

Vương Cung Thánh Đường Gicôbê - Santiago de Compostela

     Nữ hoàng địa phương cung cấp cho các môn đệ của Giacôbê mấy con bò, để chúng kéo quan tài; theo truyền thuyết, đến chôn tại Campus Stelle (Compostela).  Năm 813, một ngôi sao dẫn đường cho ẩn sĩ Pelagius tới phần mộ của Giacôbê.  Tại đây, khi đào, người ta tìm được một chiếc quan tài và một ít xương, mà ai cũng nghĩ rằng, đó là hài cốt của Giacôbê.

     Giacôbê được tôn vinh hiển thánh khi nào?  Không ai biết chắc chắn, nhưng dường như sau khi tìm được ngôi mộ của Ngài một thời gian ngắn.  Hiện nay, một thị trấn xuất hiện bên phần mộ của Giacôbê, có tên là Santiago - tiếng Tây Ban Nha là Thánh Giacôbê, và sau này, nhiều địa danh trong nước Tây Ban Nha và Châu Mỹ La Tinh cũng mang tên ngài, chẳng hạn như thủ đô nước Chí Lợi là Santiago de Chile.

Người Tiêu Diệt Dân Morrs
     Việc khai quật phần mộ của Giacôbê thật đúng lúc, bởi vì, vào thời ấy Tây Ban Nha đang bị đe doạ nặng nề về nạn xâm lăng của dân Hồi giáo Moors (nhóm Hồi giáo cư ngụ tại vùng Marôccô và phía tây Algeria).  Giáo sĩ và dân chúng Tây Ban Nha tin chắc hài cốt của tông đồ Giacôbê là một sức mạnh tuyệt vời, có thế chống lại quân Moors.              

     Một lực lượng quân sự lấy tên thánh Giacôbê làm huy hiệu được thành lập, truyền thuyết kể tiếp là Giacôbê đã thân hiện và cùng với đoàn quân Kitô giáo đẩy lui quân Hồi giáo Moors.  Kể từ đó, Giacôbê được biết đến như một nhân vật giết chết (matamoros) người Moors.

Những Người Hành Hương
     Chẳng mấy chốc, những người hành hương tuốn đến Santiago kính viếng hài cốt Giacôbê.  Vào thế kỷ XII, Vương Cung Thánh Đường có hài cốt bên trong, ở thị trấn Santiago, bắt đầu trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng, giống như Rôma và thánh đường mộ phần Đức Giêsu ở Giêrusalem.  Hậu qủa việc cải cách của nhóm tin lành (thệ phản) vào thế kỷ XVI, kéo theo tình trạng bất ổn chính trị, làn sóng hành hương giảm sút.

el Camino de Santiago - Đường Hành Hương
     Mãi đến thập niên 1980, số người hành hương vẫn còn lưa thưa, đột nhiên phát triển trở lại, và người người từ khắp nơi trên thế giới bắt đầu theo dọc con đường Giacôbê (tiếng Tây Ban Nha = el Camino de Santiago) để tới Santiago de Compostela.  Lúc ban đầu, con đường Giacôbê không phải là con lộ nhất định, nhưng kể từ năm 1993, khi UNESCO thừa nhận khoảng đất ranh giới giữa nước Pháp - Tây Ban Nha và Santiago là tài nguyên văn hóa thế giới, thì con đường này trở thành nổi tiếng.   

Vỏ Ngao (Sò)
Vỏ Ngao (Sò)
     Gắn liền với cuộc hành hương, người hành hương nào cũng lượm vỏ ngao (sò) lớn ở Santiago de Compostela về làm kỷ niệm.  Vỏ ngao (sò) là chứng minh cụ thể đối với người đã thực hiện chuyến hành hương Santiago.  Truyền thống này vẫn tiếp tục được người hành hương khắp nơi trên thế giới bảo tồn. 

                 Thánh Giacôbê Tông Đồ,
                 Cầu cho chúng con! Amen.

 


Thánh Giacôbê Trên Đường Truyền Giáo

Các bài đọc trích sách: - 2 Côrintô 4,7-15; - Thánh Vịnh 126,1-2ab.2cd-3.4—5.6; - Mátthêu 20,20-28
 
 
Việc Chúa Làm Cho Họ, Vĩ Đại Thay

 
     Nếu con tim bạn bị tan vỡ, nếu bạn cảm thấy bị đàn áp, nếu bạn đang đau khổ, hoặc bị sỉ nhục, thì bài đọc hôm nay rất thích hợp với hoàn cảnh của bạn. 

     Thánh Phaolô viết lá thư này cho tất cả những người Kitô hữu, còn đang tiếp tục phấn đấu tại trần gian.  Trong cuộc chiến lâu dài, nhiều khi chúng ta có cảm nghĩ như muốn đầu hàng, bỏ cuộc. 

     Trong Tin Mừng, Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đến trong thế gian để sống một cuộc đời hào nhoáng, sang trọng, với đầy đủ các tiện nghi vật chất, nhưng mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn, đón nhận chân lý và thần linh Chúa.

     Đời sống người Kitô hữu không chỉ được dệt bằng các thú vui và hạnh phúc, nhưng thường trải qua gian nan, khốn khó, tương tự như các điều đã được trình bầy trong thư thứ hai của thánh Phaolô, gửi tín hữu Côrintô.  Đó là một cuộc sống phơi bầy trước mắt chúng ta những đau khổ, bất công, lận đận và phiền nhiễu.

     Nhưng, một cái nhưng rất quan trọng; nhờ quyền năng Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta, nhờ Thiên Chúa chiếu sáng vào tâm trí, mà chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa, qua dung mạo Đức Giêsu Kitô, và nhờ sống kết hợp mật thiết với Người, nên, dù chúng ta chịu đau khổ, nhưng không bị đè bẹp, dù chúng ta chịu đối xử bất công, nhưng không bị quật ngã, dù chúng ta chịu quấy nhiễu, nhưng không bị bỏ rơi, dù chúng ta sống trong cảnh long đong, nhưng không bị tiêu diệt.

     Như thế, không có nghĩa là, khó khăn và đau khổ mỗi ngày sẽ tan biến dần, hoặc chỉ cần bấm vào một cái nút nào đó là mọi việc sẽ trở nên viên mãn; nhưng chính nhờ ơn Chúa, chúng ta vẫn giữ được con tim, biết cậy trông, mà không chỉ tin vào nỗ lực riêng mình. 

     Ơn Chúa giúp chúng ta bền tâm, vững chí, và Người luôn an ủi để chúng ta đủ sức đương đầu với cuộc sống hiện nay.  Ơn Chúa chẳng bao giờ ngưng hoạt động trong chúng ta. 

     Khi vui, chúng ta hướng lòng về Chúa để cảm tạ và ngợi khen; lúc buồn, chúng ta hướng lòng về Chúa để xin ơn phù trợ; đó là các phương thức thể hiện niềm tin của mình vậy.  Nhờ con đường mầu nhiệm, mà niềm tin, qua các việc làm của chúng ta, có thể tỏ lộ vinh quang và ơn sủng Thiên Chúa, chiếu tỏa trong thế gian.

     Thánh Phaolô xác định rằng, Thiên Chúa hoạt động trong thánh nhân, cũng chính là Thiên Chúa hoạt động trong thế gian; nhờ thế, mà thánh nhân đã đem ơn Chúa đến mọi dân tộc, kể cả những khi ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất trong cuộc sống. 

     Đó là một sự thực hiển nhiên, vì thế, khi gặp thử thách, chúng ta không nản lòng, thối chí; ngược lại, có thể dẫn chúng ta tới việc tự lên án hoặc khắt khe với chính mình. 

     Vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa trong thế gian, bằng các hành vi bầy tỏ niềm tin thật nhỏ bé từ nơi chúng ta, và dường như không bao giờ bị đánh giá qúa thấp.
 
          ‘’Lạy Chúa, Chúa là tảng đá đời con, con tin tưởng nơi Chúa.  Khi tâm hồn con tan rã, trí khôn con suy nhược, con ngả vào đôi tay Chúa, để Chúa dắt con đi.  Trong khung cảnh tràn đầy yêu thương ấy, con vui sướng, vì con được tĩnh dưỡng hầu gia tăng sức mạnh, và từ đó, con lại đứng lên để gặp gỡ một ngày mới an vui và tràn đầy hy vọng.  Amen.’’