Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

THÁNG MƯỜI – THÁNG MÂN CÔI ĐỨC BÀ


THÁNG MÂN CÔI ĐỨC BÀ

Hãy Năng Lần Hạt Mân Côi

Đức Giáo Hoàng Francis Và Đức Mẹ Fátima

Tháng 10 năm 2013
Đức Giáo Hoàng dâng thế giới cho Đức Mẹ Fátima
Tương quan tới Năm Đức Tin, vào ngày 12 tháng 10 năm 2013,
Đức Mẹ Fátima sẽ được đưa về Rôma.
Và sau thánh lễ đại trào tại công trường thánh Phêro,
Đức Giáo Hoàng Francis sẽ hiến dâng thế giới cho
Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.
Sau đó, Đức Giáo Hoàng Francis nối tiếp thi hành một truyền thống
đã do Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập,
và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II liên tục thực hiện,
là long trọng hiến dâng thế giới cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria

     Bức tượng Đức Trinh Nữ Fátima nguyên thủy, có chứa viên đạn bắn á thánh Gioan Phaolô II (trong cuộc mưu sát tại công trường Phêrô, ngày 13 tháng 5 năm 1981), gắn ở vương miện, đến công trường Phêrô, vào buổi chiều thứ bảy, và sẽ do Đức Giáo Giáo Francis thân hành nghênh đón bức tượng.

     Buổi chiều ngày 12 tháng 10 năm 2013, bức tượng sẽ được di chuyển tới thánh đường Madonna del Divino Amore tại Rôma, để cộng đồng tín hữu tham dự đêm canh thức cầu nguyệnĐây là lần thứ mười trong vòng non một trăm năm, tượng Đức Maria rời khỏi nguyện đường, được xây dựng sau khi thân hiện ở Fátima, Bồ Đào Nha.  

     Sáng ngày kế tiếp, 13 tháng 10 năm 2013, bức tượng sẽ trở lại công trường Phêrô.  Sau khi lần hạt, Đức Giáo Hoàng Francis sẽ cử hành thánh lễ và hiến dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.

Tiếp Tục Truyền Thống.
     Việc hiến dâng thế giới lần đầu tiên diễn ra dưới triều đại giáo hoàng Piô XII. Ngày 13 tháng 10 năm 1942, trong lúc Đệ Nhị Thế Chiến đang bùng nổ, Đức Giáo Hoàng đã hiến dâng thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria.  Tiếng nói từ đài phát thanh tại Bồ Đào Nha, Đức Giáo Hoàng đã nêu đích danh đặc biệt nước Nga, theo lệnh Đức Mẹ truyền cho ba trẻ chăn chiênk khi hiện ra tại Fátima.

     Việc hiến dâng thế giới lần thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 3 năm 1984, do Á thánh Gioan Phaolô II thực hiện, bên cạnh các cuộc biến động về hỏa tiễn tại Âu châu.  Ngoài ra, tượng Đức Mẹ Fátima cũng ở Rôma vào ngày 8 tháng 10 năm 2000, khi á thánh Gioan Phaolô II hiến dâng ngàn năm mới cho Đức Trinh Nữ Maria, trước sự có mặt của khoảng 1.500 giám mục từ khắp các nước trên thế giới.  Lời á thánh tỏ bầy với Đức Mẹ - vào một thời điểm không biết - trước cuộc tấn kích Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Nữu Ước (World Trade Center in New York), xẩy ra mười một tháng sau đó.  Trong dịp này, Đức Giáo Hoàng nói: thế giới đang đứng ở chân tường, và có thể chọn lựa để hướng tới một vườn nở đầy hoa, hoặc lao mình vào một đống hoang tàn, đổ nát.

Đức Giáo Hoàng Francis Và Đức Trinh Nữ Maria.  
     Đức Giáo Hoàng nói về chuyện bức tượng Đức Mẹ Fátima (mô phỏng) thánh du khắp thế giới, sau khi ngài đọc kinh truyền tin, vào ngày 17 tháng 3 như sau:   ‘’Tôi thụ phong giám mục vào năm 1992, đúng thời điểm bức tượng Đức Mẹ Fátima đến Buenos Aires, và một thánh lễ rất trọng thể dành cho bệnh nhân, trong lúc tôi ngồi tòa giải tội… một bà vào xưng tội và nói với tôi một câu rất đơn sơ, nhưng bầy tỏ đầy đủ đức tin của mình, khiến tôi vô cùng sửng sốt:  Nếu Chúa không tha thứ tất cả mọi sự, thì thế giới này chẳng thể nào tồn tại được.’’

     Một tháng sau, vị tổng quản Lissabon, hồng y José Policarpo kể việc Đức Giáo Hoàng Francis bảo hồng y hiến dâng chức giáo hoàng của ngài cho Đức Mẹ Fátima, như thế này:  ‘’Đức Giáo Hoàng Francis yêu cầu tôi, hai lần, là hãy hiến dâng chức tân giáo hoàng của ngài cho Đức Mẹ Fátima’’

     Hồng Y Policarpo bằng lòng, và ngài đã làm việc ấy vào ngày 13 tháng 5 năm nay – nhân dịp kỷ niệm 96 năm ngày Đức Mẹ  thân hiện lần đầu tiên với các trẻ chăn chiên, Lucia, Francisco và Jacinta.
           
       















Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Dacaria 8,20-23; - Thánh Vịnh 87,1-7; - Luca 9,51-56

 
Các Dân Tộc Sẽ Đến
Tìm Kiếm Đức Chúa Tại Giêrusalem

 
Ngôn sứ Dacaria nói những lời chúng ta vừa theo dõi, vào mùa đông, năm 518, trước công nguyên, tức là hai năm sau, kể từ ngày dân Do Thái từ miền lưu đầy Babylon trở về cố hương, và khởi công tái thiết đền thờ.  Dân chúng tỏ ra chán nản và thất vọng, khi nghe Dacaria phàn nàn, nào là đền thờ bây giờ chỉ bằng phân nửa lúc trước; nào là thành thánh cần thêm công sức hơn trong việc tu sửa, vì tường vách đã bị đổ nát; nào là làm thế nào để có thể sánh kịp với các đền thờ rộng lớn ở Babylon và Ai Cập!   

Dacaria quan tâm tới nhiều vấn đề, vì ông biết rõ chương trình của Chúa, và về ý nghĩa thâm sâu, liên hệ đến công tác mà dân chúng đang tham gia thực hiện.  Thiên Chúa hứa với Abraham:  ‘’Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.’’ (Sáng Thế 12,2-3).  Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng, để nhờ họ, sự công chính và tình yêu của Người có thể lan rộng đến tận cùng trái đất. 

Dacaria biết, Thiên Chúa trực tiếp thực hiện chương trình của Người, cụ thể là Người đã dẫn đưa dân Do Thái trở về cố hương.  Ông tiên đoán là Thiên Chúa sẽ đến ngự trong đền thờ Giêrusalem, và mọi dân, mọi nước sẽ đến tìm kiếm Người.  Niềm tin ấy giúp đồng bào Do Thái của ông thêm cậy trông n ơi Thiên Chúa, và hiểu rõ mục đích, tại sao họ phải tích cực tham gia tái thiết đền thờ.

Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta biết chương trình của Người, hầu chúng ta có thể thi hành bổn phận của mình cách cẩn trọng hơn; đó chính là việc Thiên Chúa sai Đức Giêsu đến thế gian cứu chuộc nhân loại tội lỗi.  Thiên Chúa kêu gọi dân Do Thái kết hợp với các sắc dân khác trên toàn cầu, không bằng máu thịt, nhưng trong Thánh Thần, để mọi người trở nên dân mới của Thiên Chúa.  ‘’Những người thuộc Dân Chúa, tuy chưa phải là tất cả, nhưng chắc chắn là hạt giống tạo sự hiệp nhất, niềm hy vọng, và ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại.  Được tạo dựng trong Chúa Kitô như một cộng đồng trong sự sống, tình yêu và đức tin, để chúng ta trở nên khí cụ của ơn cứu chuộc cho tất cả mọi người; hoặc trở nên ánh sáng cho trần gian và muối cho đời’’ (Mátthêu 5,13-16), và ‘’để gieo vãi đến tận cùng trái đất’’ (Ánh sáng muôn dân, số 9).

Dacaria biết rõ những điều, khiến các dân tộc tìm đến Giêrusalem; đó là tình yêu, niềm tin và sự bình an, mà Thiên Chúa đã ban cho dân riêng Người, để họ là chứng nhân của nhân loại.  Chúng ta cũng được chung hưởng ân sủng ấy.  Tình yêu là sức mạnh huyền nhiệm, có sức lôi cuốn mọi người tìm về với Chúa.

 Một điều mang tính cách khẩn trương mà Dacaria cảm nhận được, đó là việc Đức Kitô đến thế gian, và muốn mọi người được ơn cứu độ.  Chúng ta cùng nhau thực hiện ý Chúa, và cầu nguyện cho các dân tộc biết hoán cải.

‘’Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho mọi người được ơn cứu độ; và xin cho chúng con, là Giáo Hội Chúa, trở thành muối và ánh sáng, chiếu soi mọi người.  Chúng con cầu xin cách riêng cho dân tộc Do Thái, các vị trưởng lão được dồi dào trong đức tin, để họ dẫn đưa thế giới tiến lại với Chúa.  Amen.’’


Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Dacaria 8,1-8; - Thánh Vịnh 102,15-22.28; - Luca 9,46-50

 
Chúa Sẽ Xây Dựng Lại Xion

 
Theo giòng thời gian, ý nghĩa chữ viết hoặc ngôn từ của người xưa truyền lại, thường bị các thế hệ kế tiếp diễn dịch hoặc hiểu sai lệch, tùy theo cách suy nghĩ và hoàn cảnh sống.  Lấy chữ ‘’ghen’’ làm thí dụ điển hình.  Chữ ghen nguyên thủy do tiếng Hy Lạp, có nghĩa là ‘’nhiệt tâm’’, dần dần từ ngữ ‘’ghen’’ được hiểu với một ý nghĩa hoàn toàn tiêu cực như hiện nay. 

Vì ghen, nên người ta mới tức giận. nghi ngờ và e sợ đối thủ của mình, nhất là trong lãnh vực tình yêu.  Có lẽ, trong thế giới lắm chữ, nhiều văn như hiện nay, đặc biệt tại các nước kém văn minh, luật lệ không được triệt để tôn trọng, dân trí còn thấp kém, luân lý lỏng lẻo, thì từ ngữ rất dễ bị bóp méo, kết qủa sự việc hay câu nói hoàn toàn bị biến thể, xây dựng biến thành đổ vỡ, tốt lành trở nên xấu xa, bởi vì con người lệ thuộc vào trần tục, phe nhóm. 

Kinh Thánh thường xử dụng chữ ‘’ghen’’, với ý nghĩa nguyên thủy, để ám chỉ Thiên Chúa.  Thực vậy, trong các đoạn Kinh Thánh đề cập tới hậu vận, Thiên Chúa dùng ‘’lời nói’’ để biểu lộ bản tính của Người; do đó, chúng ta cần hiểu thật rõ và phân biệt ý nghĩa, từ ngữ, thế giới hiện đại đang xử dụng, khác với ý nghĩa nguyên thủy như thế nào.  Khi chúng ta sống trong ghen tương, chắc chắn Chúa không tỏ vẻ ngạc nhiên, bởi vì Người biết tất cả mọi sự. 

Cũng vậy, tương lai của chúng ta ra sao, Thiên Chúa không e ngại hoặc bối rối, ngờ vực, vì Người có quyền trên tất cả mọi loài, mọi vật.  Từ ngữ dường như mang nhiều ý nghĩa trái ngược nhau.  Tuy nhiên, Thiên Chúa ‘’nhiệt tâm’’lo hạnh phúc chúng ta, và tỏ ra tức giận mối liên hệ chúng ta đối với Người.  Người muốn chúng ta chỉ yêu mến một mình Người mà thôi. Ý muốn Thiên Chúa được thể hiện rõ nét trong giao ước đời đời, và được ghi trong đoạn Kinh Thánh hôm nay:  Người sẽ là Thiên Chúa chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người.  Vắn tắt chỉ có thế.

Nhân loại qúa phản nghịch, đến nỗi Thiên Chúa toàn năng đã tự hiến thân mình thành yếu đuối, thấp hèn, chịu thương tích, chỉ vì hết lòng yêu thương chúng ta, là những kẻ cứng đầu, ương ngạnh, bất trung.  Sự phản nghịch của chúng ta lên đến cực điểm, khiến Người Con vô tội của Thiên Chúa phải chết trên thập giá, để gánh chịu tội lỗi nhân loại.

Tình yêu Thiên Chúa đã tiêu diệt sự dữ và tội ác, do đó sự chết được chuyển đổi thành sự sống.  Sứ điệp của Dacaria viết cho dân Do Thái vào thời hậu lưu đầy, tức là giai đoạn tái thiết đền thờ Giêrusalem, có một ý nghĩa bất diệt, giúp con người hướng tới viên mãn trong nước Thiên Chúa.  Giao Ước và Nước Thiên Chúa đang đến.  Đức Giêsu, với tư cách là Đấng loan truyền Giao Ước và công bố Nước Thiên Chúa, ngay ở trần gian. 

Mọi người sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, nếu chúng ta thực tâm ăn năn, sám hối, đặt trọn niềm tin vào Người.  Nước Thiên Chúa không đủ ý nghĩa, nếu thiếu một người trong chúng ta, bởi vì Thiên Chúa tạo dựng nhân loại chỉ với mục đích duy nhất là Người muốn ở cùng chúng ta muôn đời.

‘’Lạy Chúa, xin giúp con sống như một người đang ở trong Nước Chúa.  Xin giúp con hướng về quãng thời gian không còn đau khổ và than khóc nữa, và tất cả mọi giọt lệ sẽ được lau khô.  Amen.’’

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Chúa Nhật XVI Thường Niên - Năm C


Các bài đọc trích sách:
- Amos 6,1.4-7;
- Thánh Vịnh 146,7-10;
- 1 Timôthê 6,11-16;
- Luca 16,19-31


Chúa Nắm Giữ Vương Quyền Muôn Muôn Thuở

Người Nhà Giầu Và Kẻ Nghèo Ladarô

     Ngôn sứ Amos, một mục đồng tầm thường, xuất thân từ sườn đồi xứ Giuđêa, được Thiên Chúa kêu gọi, để loan truyền Lời Người.  Nghe sứ điệp của Amos, hình như không ai thú vị, vì qúa trung thực. 

     Vào thời bấy giờ, quốc gia Israel rất thịnh vượng, nhưng cùng lúc, người ta lại tỏ ra ích kỷ, đề cao vấn đề vật chất, và tìm đủ mọi cách khai thác tài năng, sức lực của thành phần nghèo túng. 

     Amos cho biết, những người giầu có, nằm ngủ trên giường ngà, uống rượu bằng bát lớn, và dùng dầu thơm đắt giá, xức lên thân xác.  Sự giầu sang và ấm cúng kia, thúc đẩy họ chỉ nghĩ tới việc tạo dựng sự an toàn cho cá nhân mình, không quan tâm tới cảnh nghèo khổ của kẻ khác; nhưng Amos lên tiếng cảnh báo: chẳng bao lâu nữa, Thiên Chúa sẽ ra tay trừng phạt họ. 

     Thực tế, họ không vi phạm lỗi lầm, nếu may mắn có nhiều tiền bạc, của cải; nhưng họ mắc tội, là đã dùng tiền mua sắm các xa xỉ phẩm, lo cho thân xác, tạo điều kiện ăn ngon, mặc đẹp, tận hưởng các thú vui nhục dục, mà không chia sẻ cho kẻ nghèo túng.

     Mua sắm chiếc giường làm bằng ngà, một sản phẩm đắt giá để ngả lưng, là hình thức tiêu pha qúa trớn, hoang phí, trong khi thành phần nghèo túng phải đầu tắt mặt tối, chật vật suốt ngày, không kiếm nổi miếng cơm manh áo, thiếu chỗ nương thân.  Những người này chẳng quan tâm gì tới quốc gia dân tộc, và cũng không lợi dụng sự giầu có của mình, mà giúp đỡ thành phần nghèo túng, đói khổ.

     Hy vọng lời Amos, có thể giúp chúng ta dò xét lại cuộc sống của riêng mình.  Mặc dù không có một đời sống hào nhoáng với những tiêu pha hoang phí, nhưng thái độ của chúng ta hình như cũng giống những người dân Israel nhiều tiền, lắm của. 

     Chúng ta thường có khuynh hướng tìm an vui, hạnh phúc cho riêng mình, mà chẳng lưu tâm tới hoàn cảnh đói khổ của kẻ khác, kém may mắn hơn mình.
Người Nhà Giầu Và Ladarô

     Thiên Chúa kêu gọi chúng ta dùng những gì mình đang có, hết lòng phục vụ kẻ khác; không riêng vấn đề tiền của, nhưng khả năng và thì giờ cũng rất cần thiết.

      Chúng ta cần cố gắng tìm kiếm các phương cách có thể xử dụng được, để giúp đỡ những người đang ở trong tình cảnh khó khăn.  Chúng ta cũng nên bắt chước Amos, lên tiếng đòi hỏi sự công bình trong hoàn vũ, và nghiêm chỉnh lên án các hành vi ích kỷ, theo chủ nghĩa  duy vật. Thời gian thực sự đã thay đổi, nhưng lời ngôn sứ Amos vẫn còn vang vọng bên tai những kẻ giầu sang, phú qúi trong thế giới hiện đại. 

     Hầu hết nhân loại trên mặt đất này đang sống trong cảnh nghèo đói, thế mà một số quốc gia dư giả lại nhẫn tâm, tiêu hao một số lớn tổng lượng tài nguyên thế giới, vào những việc gây thiệt hại, như chiến tranh và khủng bố.

     Hành động bất công ấy ảnh hưởng không ít tới đời sống của tất cả mọi người trong chúng ta; vì thế chúng ta cần tiếp lời ngôn sứ, cao giọng, đấu tranh cho thành phần nghèo đói và bị chèn ép.  Đức Giêsu luôn đứng về phía những người bị áp bức; và nếu muốn gần gũi Chúa, chúng ta cần bắt chước Người, trong việc phục vụ những kẻ đang ở trong cảnh thiếu thốn nhất.

     Chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ, trước những sai lầm đang diễn ra trong thế gian này, nhưng hãy mau mắn quảng bá sâu rộng các giá trị đích thực của Kitô giáo.    
‘’Lạy Chúa,
chúng con nài xin Chúa tha thứ cho lối sống
 ích kỷ; làm ngơ trước những bất công
xẩy ra chung quanh cuộc sống chúng con.
Xin Chúa giúp chúng con trở nên những kẻ
dám đấu tranh cho công lý, và xin tỏ lộ tình yêu
Chúa, qua đường lối phục vụ của chúng con.  Amen.’’



Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Dacaria 2,5-9.14-151; - Giêrêmia 31,10-13; - Luca 9,43-45

 

Này Ta Đang Đến Để Ở Lại Giữa Ngươi

 
Là phần tử thuộc thụ tạo mới, đương nhiên chúng ta là con cái Chúa, vì thế, đời sống tâm linh của chúng ta có liên hệ mật thiết với dân Do Thái.  Lịch sử của họ, cũng là lịch sử của chúng ta; niềm hy vọng của họ cũng là hy vọng của chúng ta.  Sự sa ngã của họ, cũng là sa ngã của chúng ta.  Với ý hướng ấy, chúng ta ước mong, có thể đón nghe Lời Chúa cùng một tâm tình như dân Do Thái đã nghe. 

Đồng thời, chúng ta có thể được chung hưởng vinh quang Chúa, như ngôn sứ Dacaria đã đón nhận. ‘’Hỡi những ai kính sợ Chúa, hãy ca tụng Người đi!  Hỡi con cái nhà Giacóp, hãy tôn vinh Người đi! Hỡi toàn dân Do Thái, hãy một lòng sợ hãi!’’ (Thánh Vịnh 22,23). Lời kêu gọi trên thật đúng lúc, vì ngay từ thuở ban đầu, dân Do Thái đã được diện kiến Thiên Chúa.   

Người tuyển chọn và yêu mến họ.  Người tạo dựng họ giống và như hình ảnh Người, và Người thổi thần khí của Người vào trong họ.  Người nâng niu, chiều chuộng họ, giống như vị hôn thê của Người; như người chủ chăm nom vườn nho của mình thế nào, thì Người cũng săn sóc, dưỡng nuôi, đào luyện, chở che họ, ngày đêm như vậy, để họ không bị khô héo hoặc úa tàn, nhưng nẩy sinh thật nhiều hoa trái.

Đối với chúng ta, Thiên Chúa cũng bầy tỏ tình yêu của Người, bằng những cử chỉ như vậy, nhưng chúng ta làm ngơ và ngoảnh mặt đi.  Chúng ta thờ ơ, lãnh đạm, không tìm gặp Chúa.  Chúng ta phủ nhận giao ước, sống theo ý riêng mình, và luôn cảm thấy thiếu vắng vinh quang Chúa.

Đáng lẽ công lý tự nhiên đã chôn vùi chúng ta, nhưng Chúa đầy lòng khoan dung, vẫn yêu thương, tha thứ lỗi lầm, và mang bình an đến cho chúng ta.  Thấy sự bất trung nơi chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự trung tín của Người.  Mỗi lần chúng ta sám hối, Người ban cho chúng ta niềm hy vọng.  Khi trở về với Chúa và sống an bình trong Người, chúng ta tìm được ơn cứu độ. 

Trong thinh lặng và tin yêu, chúng ta tìm được sức mạnh.  Thiên Chúa kêu gọi và giải thoát chúng ta khỏi cảnh lưu đầy tội lỗi, để Người chiếm ngụ chúng ta, bằng sự hiện diện yêu thương, ngoài mong ước thông thường của chúng ta.  Lúc đó, không tường vách, cản ngăn nào, đủ khả năng phân cách sự gần gũi giữa Người và chúng ta, nhưng chỉ còn lửa tình yêu của Người phủ che chúng ta mà thôi.  Lửa ấy có sức tẩy luyện và biến đổi tâm hồn chúng ta.  

Chúng ta vui mừng trong ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng biến đổi chúng ta, từ một con người mang não trạng cũ sang mới, từ nơi tối tăm, vào nơi ánh sáng.  Người đã thực hiện trọn vẹn lời Thiên Chúa hứa với dân Do Thái.  Trong Đức Kitô Giêsu, chúng ta có một cuộc sống mới, một khởi đầu mới, hầu tiến tới thành tựu, trong giờ sau hết. 
 
Lúc ấy, bằng quyền uy, Thiên Chúa sẽ bênh vực chúng ta, bảo vệ Giáo Hội, và dân riêng Người, như những kẻ mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang Chúa, như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi, nên giống, cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, bởi tác động của Chúa là Thần Khí (2 Côrintô 3,18).
 

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - KhácGai 1,15-2.9; - Thánh Vịnh 43,1-4; - Luca 9,18-22

 
Chính Ngài Là Thiên Chúa Bảo Vệ Con

    
Sau thời kỳ lưu vong bên Babilon, dân Do Thái trở về Giêrusalem, nhưng họ cảm thấy chán ngán, khi nghĩ tới trách nhiệm nặng nề, đang chờ đợi ở phía đằng trước.  Mặc dù vui mừng, vì thóat cảnh tù hãm, trở lại khôi phục quê hương, thôn xóm, làng mạc, nhưng họ nhận thấy qúa nhiều việc phải làm, trong việc tái xây dựng cuộc sống. 

Thành phố lớn và đền thờ Salômôn đã đổ nát, hoang tàn, và chỉ còn một số ít người xứ Giuđêa quay về, đang cố gắng làm lại cuộc đời mới.  Qua lời ngôn sứ KhácGai, Thiên Chúa khuyến khích dân Người, và khuyên răn họ chớ nản lòng, thối chí, vì vinh quang đền thờ thuở xưa không còn nữa. 

Mặc dù gặp nhiều gian truân, khổ ải, nhưng Thiên Chúa, Đấng đã đưa dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập, luôn ở với họ, và Thánh Thần Chúa không ngừng trợ giúp họ trong các cuộc chiến đấu cam go.  Cuối cùng, dáng điệu nguy nga và hùng vĩ của đền thờ hiện nay, được coi là qúi trọng hơn tất cả các sự kiện diễn ra trước kia.

Nhìn vào hoàn cảnh Giáo Hội hoàn vũ đương đại, chúng ta dễ cảm thấy chán nản và thất vọng:  xã hội đang bị trần tục hóa, rất ít người còn muốn đến nhà thờ, nhất là Kitô giáo thường bị nhạo báng và chê cười. Không biết tình hình đen tối kia, có hy vọng tạo được cơ hội chuyển đổi chăng? 

Thiên Chúa cũng nói với chúng ta những điều, Người đã bầy tỏ với dân Israel, vào thời ngôn sứ Khácgai, là đừng sợ hãi, vì Người luôn ở với chúng ta.  Mặc dù tai ương, bất hạnh xẩy đến, Thiên Chúa trước sau là một, và quyền năng của Người vẫn hoạt động như thế, trong thế gian. 

Chúng ta có thể tin chắc rằng, Thiên Chúa luôn trung thành với tất cả những điều Người đã hứa, và Thánh Thần của Người luôn phù trợ chúng ta.  Người là Chúa toàn thể vũ trụ, và vẫn tỏ vinh quang của Người trong thế gian.  Chúng ta biết, sự kiện ấy sẽ tái diễn, khi Chúa lại đến; nhưng, ngay từ bây giờ, vinh quang của Chúa đang ở trong chúng ta. 

Mặc dù Giáo Hội đang ở trong hoàn cảnh không mấy thuận lợi, nhưng Giáo Hội là đền thờ sống động của Thiên Chúa, và chúng ta là những phần tử thuộc đền thờ ấy:  ‘’Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Chúa Giêsu Kitô’’ (1 Phêrô 2,5).

Mặc dù là những kẻ yếu đuối và tội lỗi, chúng ta chớ ngã lòng, bởi vì sức mạnh của Thiên Chúa luôn hoạt động trong chúng ta, và chúng ta có thể tin chắc rằng, chương trình của Người sẽ hoàn tất, đồng thời hãy vui mừng, vì chúng ta ‘’là một giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa… Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền.’’ ( Phêrô 2,9).

‘’Lạy Chúa, chúng con biết, Thánh Thần Chúa đang ở với chúng con, và Chúa có một chương trình cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tin cậy Chúa, cả khi các sự việc tưởng như bất thành, đồng thời, xin Chúa giúp chúng con luôn vui mừng, vì chúng con là phần tử thuộc ngôi đền thờ vinh quang Chúa tại trần gian.  Amen.’’

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - KhácGai 1,1-8; - Thánh Vịnh 150,1-6.9; - Luca 9,7-9
 
Đọc Kinh Thánh Cựu Ước, nhiều người, dường như không cảm thấy thoải mái lắm, vì nhiều đoạn văn rất khó hiểu; tuy nhiên, nếu chương nào quen thuộc, dễ thông đạt, thì chúng ta thật hài lòng, chẳng hạn, Thánh Vịnh, thường gợi lên trong tâm hồn chúng ta những nguồn cảm xúc sâu xa; còn các câu truyện trong sách Sáng Thế, thì qúa hấp dẫn, đến nỗi, phần đông nghe đi, đọc lại, gần như thuộc lòng. 
Trái lại, nhiều đoạn khó hiểu, làm mất hứng thú, nên đọc giả không nhớ hết cốt truyện; thí dụ, một số khá đông, ngay cả tên của ngôn sứ KhácGai, cũng không biết; điển hình là bài đọc hôm nay, mới nghe qua, khó có thể hiểu rõ ý nghĩa; nhưng nếu phân tích tỉ mỉ, thì nội dung là một sứ điệp cứng rắn và cương quyết, loan báo cho nhân loại, suốt trên hai ngàn năm qua. 
Đúng, sứ điệp này gửi đến chúng ta vào ngày 29 tháng 8 năm 520 trước công nguyên.  KhácGai là ngôn sứ đầu tiên của cộng đồng phục hưng, sau thời lưu vong.  Ông quở trách dân chúng hèn nhát và nhu nhược, trước những nguy nan và gian khổ.  Vì đã trải qua nhiều khó khăn, nhọc nhằn, nên dân chúng cho rằng, việc tái thiết đền thờ được kể là qúa sớm.  Do đo, Thiên Chúa bèn trách khéo họ, qua câu hỏi: ‘’Bây giờ có phải là lúc các ngươi ở trong nhà có ghép gỗ đóng trần, còn đền thờ thì lại hoang tàn đổ nát không?’’ (KhácGai 1,4).
Câu hỏi nêu trên là chủ điểm sứ điệp hôm nay.  Dân chúng quan tâm đặc biệt tới những sự kiện gắn liền với đời sống cá nhân hơn công trình tái thiết đền thờ, nghĩa là họ muốn phụng sự Thiên Chúa theo cách thế, và quyết định riêng mình, nhưng Thiên Chúa lại ước ao có một nơi xứng đáng, để ngự trị.  Vì thế mớ xảy ra tình trạng trì hoãn!
Khi suy ngẫm các chi tiết trên, chúng ta nhận thấy, cả chúng ta nữa, thường cũng rơi vào cạm bẫy như thế. Chúng ta muốn quan tâm cách riêng tới việc học hỏi Lời Chúa, hoặc đọc kinh, cầu nguyện -  nhưng bây giờ chưa phải là lúc… Chúng ta nghĩ, lúc này chưa là thời gian thực sự thuận tiện; có lẽ nên đợi đến khi con cái khôn lớn, tự lo liệu được, và dọn ra ở riêng, hoặc chờ đến khi được hưu dưỡng, cũng chưa muộn; hay hoãn đến mùa hè (hoặc mùa đông!), lúc đó sẽ có nhiều thì giờ hơn, để chúng ta qui hướng mọi hoạt động về Chúa. 
Ai cũng muốn dành nhiều thì giờ thực hiện các công tác trong giáo xứ, nhưng những chuyện bất ngờ luôn xẩy đến, làm cản trở các dự tính cá nhân.  Giống như dân xứ Giuđêa vào năm 520 trước công nguyên, chúng ta cũng có thể nói: ‘’Bây giờ chưa phải là lúc…’’ (KhácGai 1,2). 
Nhưng, hôm nay là thời gian thuận tiện, là ngày của Chúa, vì thế chúng ta phải khởi công ‘’tái thiết đền thờ’’ trong đời sống của chính mình, để Chúa có thể nhận thấy, chúng ta bắt đầu quan tâm tới các việc của Chúa, tới phần thiêng liêng của cá nhân mình, và lợi ích của những người sống chung quanh.
 
              ‘’Lạy Cha Trên Trời, chúng con thú nhận là ít khi chúng con dành thì giờ vào các việc của Cha.  Chúng con quyết tâm, kể từ nay, chúng con xin nhận Cha làm trung tâm đời sống chúng con.  Nguyện xin Cha ban cho chúng con sức mạnh và nhẫn nại để luôn vâng theo ý Cha, chứ không theo ý riêng của chúng con. Amen.’’
 

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên   -   Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Ezra 9,5-9; - Thánh Vịnh Tôbia 13,2-5.8; - Luca 9,1-6

 
Thiên Chúa Là Đấng Cao Cả Muôn Trùng

 
Cảnh lưu đầy đã trôi qua.  Đền thờ đã được tái thiết và thành phố cũng đã được trùng tu.  Dân Do Thái có lý do để vui mừng.  Cuộc đời tốt đẹp như thế, lẽ nào Ezra lại còn buồn chán về lỗi lầm trong qúa khứ, do cá nhân, hoặc tập thể gây nên. Trong những năm tháng lưu đầy gian khổ, dân chúng Israel đã đền đáp Thiên Chúa của họ, bằng những bất trung, ngoan cố và ương ngạnh. 

Tuy nhiên, chính trong giây phút ấy, Thiên Chúa lại giải cứu họ, và giúp cuộc sống của họ trổ sinh hoa trái.  Hiện nay, Thiên Chúa vẫn giữ lòng trung tín với họ.  Người không ngừng yêu thương và chăm sóc họ.  Cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, trong những lúc gặp khó khăn, Ezra cho rằng mình chẳng có giá trị gì, trước mặt Người.  

Hôn nhân dị chủng dường như chỉ có ý nghĩa mơ hồ đối với chúng ta, nhưng hậu qủa rất tai hại, đối với những người Do Thái lưu vong hồi hương.  Thiên Chúa muốn cấm đoán, vì tình trạng ấy có thể làm cho tinh thần quốc gia của dân được ưu tuyển, không còn nguyên vẹn nữa, đồng thời dẫn họ tới việc thờ cúng các thần minh của nhóm dân cư sống trong các vùng lân cận.  

Giống như nhiều người trong Cựu Ước, Ezra liệt kê mọi tội lỗi và các điều gian ác, để xin ơn tha thứ, đồng thời bầy tỏ ước muốn được tái bắt đầu một đời sống mới, mặc dù làm như thế sẽ gây ngạc nhiên không ít cho người đọc.  Chân thành bầy tỏ sự đau đớn, chưa hẳn đã cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.   

Một đoạn Kinh Thánh khác kể rằng, khi vua Đavít phạm tội ngoại tình với Bésêva, ông đã dùng lời du dương và cảm động, để tỏ lòng ăn năn, sám hối (Thánh Vịnh 51); nhưng vấn đề đặt ra là, những câu văn chải chuốt và bóng bẩy kia, liệu có chứng minh đủ là Đavít đã cảm nghiệm được ơn tha thứ của Thiên Chúa chăng! 

Chỉ những người Kitô hữu đích thực, mới có thể thấu hiểu vẻ kiều diễm và an toàn, về ơn tha thứ mà Thiên Chúa ban cho họ.  Chỉ những người Kitô hữu đích thực, mới dám qủa quyết rằng, tội lỗi của họ đã được xóa bỏ tận gốc rễ, và do đó họ bắt đầu trở thành người công chính.   

Bởi vì, chỉ những người Kitô hữu mới có một Đấng Cứu Thế, là Thiên Chúa, tự hiến mạng sống mình đền tội cho họ.  Khi thật lòng ăn năn, sám hối, thì tội lỗi chúng ta chắc chắn được tha, như Chúa đã hứa.  Do đó tội lỗi không còn chỗ hoạt động trong đời sống người Kitô hữu nữa. 

Chúng ta có thể nghe tiếng Đức Giêsu nói, thường được nhắc đi nhắc lại, qua các động tác, Người chữa lành dân chúng, như đã ghi trong Phúc Âm, và từ tháng này qua năm khác, vẫn liên tục nhắn nhủ chúng ta:  ‘’Tội con đã được tha, hãy đi bình an.’’     

‘’Lạy Chúa, khi dấn thân vào đời, lòng thương xót Chúa chưa  được thể hiện; vì thế, Chúa muốn hy sinh chịu chết trên thập giá để con nhận biết tình yêu vô biên của Chúa.  Xin Chúa tha thứ, vì con đã không đền trả xứng đáng tình yêu Chúa dành cho con.  Xin Chúa chỉ cho con cách đón nhận ơn tha thứ của Chúa, hầu tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi ra khỏi tâm ồn con.  Amen.’'

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Ezra 6,7-8.12.14-20; - Thah Váịnh 122,1-5; - Luca 8,19-20

 
Ta Vui Mừng Trẩy Lên Đền Thánh Chúa

 
Samuel Johsonne có lần nói:  ‘’Không do sức mạnh, nhưng nhờ nhẫn nại, người ta có thể hoàn tất những việc vĩ đại.’’  Đền thờ được xây cất, giữa năm 536 và 516 trước công nguyên, chắc chắn do một lệnh truyền, ban cho dân ương ngạnh Israel.  Sách Ezra ghi lại một số nghịch cảnh và trở ngại, mà họ đã vượt qua, để có thể hoàn thành việc xây cất đền thờ. 

Thành phần thân cận nhà vua, tỏ ra phẫn nộ, trước lệnh tái thiết đền thờ Giêrusalem, và vì thế, họ đã khiếu nại nhà vua nước Persia rằng: sức mạnh của dân tộc Israel mỗi ngày càng gia tăng, là mối đe dọa to lớn.  Lúc đầu, nhà vua chấp nhận lời khiếu nại, và ban chỉ thị ngưng việc xây cất thành phố.

Nhưng, lệnh của Cyrus Cả, vua tiền nhiệm, cho phép dân Israel lưu vong được hồi hương, và tái thiết thành phố cũng như đền thờ của họ, vì vậy, họ đã gửi thỉnh nguyện thư lên nhà vua.  Vua kế vị đế quốc Persia, Dariô Mêđê, nhận thấy, đó là vấn đề hợp tình, đúng lý, nên ban một sắc lệnh với lời lẽ thật cứng rắn, cho phép tái thiết, lại còn tài trợ việc xây cất nữa. 

Sắc lệnh viết bằng tiếng Aram và ngày nay, có lẽ vẫn còn lưu giữ ít nhiều nét chữ nguyên thủy; và cuối sắc lệnh, liệt kê một loạt các lời hăm dọa trừng phạt những kẻ không tuân hành.  Ngoài những khó khăn khủng khiếp, liên quan tới công trình chỉnh trang thành phố Giêrusalem, và tái thiết đền thờ, tình trạng di dân hồi hương cũng được kể là rất cam go, phức tạp và trở ngại, khiến dân chúng, nhiều lúc, dường như tỏ ra thất vọng. 

Thế rồi, thêm một nỗi chán chường khác xuất hiện; vì nhận thấy chiều kích và chất lượng đền thờ mới xây cất, lần thứ hai này, kém xa đền thờ do Salomôn xây dựng trước kia, đã bị quân đội Babylon bình địa; những người còn nhớ hình dáng đền thờ cũ đã lớn tiếng than khóc, khi so sánh với đền thờ mới xây cất (Ezra 3,12).

Lời bình phẩm làm những người đã vất vả thực hiện việc xây cất, tỏ ra chán nản vô cùng, mặc dù vậy, họ vẫn tiếp tục cố gắng hoàn tất công trình của Chúa, bằng nỗ lực và khả năng tuyệt đối, từ mỗi cá nhân đóng góp.  

Các thử thách mà dân Israel cổ đại phải gánh chịu, cũng là những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, của người Kitô hữu chúng ta hiện nay.  Khó khăn, trở ngại, thù nghịch, chống đối, chỉ trích và bất mãn thường bám sát những kẻ hết lòng thực hiện trách vụ do Chúa gửi đến; khiến có lần Đức Giêsu đã phân giải: ‘’Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì của nó.  Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian; và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.’’ (Gioan 15,19-21). 

Khi gặp chuyện đáng tiếc bất ngờ xẩy đến, chúng ta không nên tìm cách lấn át, nhưng điều quan trọng, là hãy loại bỏ vấn nạn đó, bằng cách nhìn lại những công trình tốt đẹp, mình đã thực hiện, đồng thời tiếp tục thi hành bổn phận và trách nhiệm đã được trao phó.  Sự kiên nhẫn có thể đem lại thành công, nhưng đơn phương, nếu Chúa không trợ lực, sức mạnh không thể đạt tới được.

‘’Lạy Chúa, con thường cảm thấy thiếu khả năng, khi đảm đương các trách vụ được trao phó.  Chúa biết tất cả mọi sự, Chúa biết con yếu đuối.  Xin Chúa giúp con tiếp tục thi hành bổn phận cách chu đáo, trong bất cứ tình huống nào.  Amen.’’

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Ezra 1,1-6; - Thánh Vịnh 126,1-2.3-4a.4b-5; - Luca 8,16-18
 
Việc Chúa Làm Cho Ta, Ôi! Vĩ Đại.
 
Đã từ hàng trăm năm, có những người vẫn tự coi mình, là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, sống cuộc đời tương đối ổn định, trong một quốc gia độc lập nhỏ bé, nằm tại một góc, thuộc miền Trung Đông cổ kính.  Tiếc thay, nền hòa bình và thống nhất dân tộc, không kéo dài mãi mãi. 
Vào đầu thể kỷ thứ sáu, trước công nguyên, vương quốc miền bắc Israel, đã bị quân lực hùng mạnh Assyria quét sạch; và vào năm 587 trước công nguyên, vương quốc Giuđêa đã bị đế quốc siêu cường Babylon đè bẹp và nghiền nát.  Thủ đô của Giuđêa là Giêrusalem bị tàn phá, và đền thờ của Salômôn, biểu tượng tình nghĩa quốc gia, và cũng là nơi nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người, cũng bị tẩy trừ. 
Dân tộc Babylon theo đuổi chính sách tiêu diệt tận gốc rễ, như họ đã từng thực hiện tại các quốc gia bị họ chiếm đóng. Họ khai trừ tất cả mọi giai cấp nghệ thuật, tịch biên các kho tàng qúi giá của nước bị xâm chiếm, thanh trừng toàn bộ gia đình các vị lãnh đạo quốc gia, trục xuất thành phần học thức, và các tay thợ lành nghề sang Babylon, sống một cuộc đời như những tên tay sai, trong cảnh lưu đầy. 
Dường như chỉ một số rất ít nông dân còn được ở lại Giuđêa, nhưng trên phương diện địa lý, quốc gia đã bị xóa nhòa.  Những người bị đưa đi sống cảnh lưu đầy, phải chịu muôn vàn đắng cay, tủi nhục; họ bị xếp vào thành phần công dân hạng hai, đồng thời mất hẳn căn tính tập thể của mình.  Cảnh lưu đầy, không chỉ làm cho họ trở thành những con người bị bật hẳn gốc rễ, mà còn khiến họ có cảm nhận như không còn nhân phẩm nữa. 
Điều khá ngạc nhiên là sau chỉ hơn một thế hệ sống trong cảnh lưu đầy, mà dân chúng đã tỏ ra vô cùng buồn chán, tâm hồn như bị tan vỡ từng mảnh. Đối với một dân tộc đã được Thiên Chúa dẫn đưa ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập, mà biến cố Xuất Hành được kể là truyền thống có giá trị và tốt đẹp nhất của họ, thì cảnh lưu đầy thật sự bi thương, nhục nhã, khó có thể phai nhòa trong tâm óc.  
Tình cảnh khắt khe khiến họ thất vọng, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi, Người luôn săn sóc và che chở họ.  Vào năm 538, trước công nguyên, dân Babylon bị đế quốc Persian (tức nước Ba Tư hiện nay) đánh bại, nhà lãnh đạo mới, tên là Cyrus đệ nhị, ban hành một chính sách khoan nhượng, đối với các nước bị chiếm đóng, cho phép dân chúng đang sống cảnh lưu đầy, được trở về nguyên quán, và đem theo các kho tàng tôn giáo, và mọi thứ liên quan tới đền thờ của họ.  Sự thay đổi bất ngờ xẩy ra, vào năm đầu tiên, triều đại Cyrus, dường như khó có thể tin được.  Đây là bước khởi đầu một kỷ nguyên mới.  
Mặc dù các sự kiện vừa kể đã chôn chặt trong lịch sử cổ đại, nhưng chúng ta vẫn có thể rút ra những bài học giá trị, không mất thời gian tính. Thiên Chúa đã ban lời hứa yêu thương và săn sóc dân Người, và Người chưa lấy lại lời hứa ấy; ngay cả những khi chúng ta tưởng như Chúa bỏ rơi, thì chính lúc ấy Người đang có mặt và ở với chúng ta.  Những lần tưởng như thất vọng, thì quyền năng Thiên Chúa lại làm cho cục diện thay đổi.  Điều quan trọng là chúng ta cần kiên nhẫn, để cho chương trình của Thiên Chúa uyển chuyển hoạt động.
 
               ‘’Lạy Cha, xin giúp con tin tưởng kế hoạch Cha dành cho con.  Xin giúp con nhìn thấy sự hiện diện của Cha ở trong con, ngay cả lúc cuộc đời con đen tối nhất.  Và xin giúp con luôn nhớ lời yêu thương Cha dành cho con trong Đức Kitô. Amen.’’ 


Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Chúa Nhật XXV Thường Niên - Năm C


  • Các bài đọc trích sách:
  • - Amốt 8,47;
  • - Thánh Vịnh 113,1-2.4-8;
  • - 1 Timôthê 2,1-8;
  • - Luca 16,1-13


Hỡi Tôi Tớ Chúa, Hãy Dâng Lời Ca Ngợi

Anh Em Không Thể Vừa Làm Tôi Thiên Chúa
Vừa Làm Tôi Tiền Của

     Amos là một mục đồng, xuất thân từ vương quốc miền Giuđêa, đến rao giảng Lời Chúa tại vương quốc miền bắc Israel.  Ông là người linh hoạt, thuộc triều đại Giêrôbôam II (từ 783 đến 43 trước Công Nguyên); đó là thời kỳ doanh nghiệp phát triển, và đời sống dân chúng rất thịnh vượng. 

     Tuy nhiên, lúc quốc gia trở nên giầu mạnh, thì xã hội lại sinh ra các tệ nạn như tham nhũng..., và con người bắt đầu đặt vấn đề vật chất lên hàng ưu tiên. 

     Khoảng cách giữa người giầu và kẻ nghèo mỗi ngày càng rộng lớn hơn, đặc biệt là trên thương trường, các nhà buôn thường tìm cách lừa bịp giới nghèo.  Amos cực lực phản đối tình trạng bất công này; và qua bài đọc hôm nay, chúng ta nhận thấy, ông đã lên tiếng công kích những kẻ sản xuất các bàn cân giả dối, để lừa đảo dân lành, và chèn ép thành phần túng quẫn. 

     Amos báo cho dân Israel biết, Thiên Chúa sẽ trừng phạt, về các hành vi bất chính của họ.  Lời tiên đoán của Amos đã thành sự thật, khi vương quốc miền bắc bị quân Assyrie phá hủy và bắt giữ dân chúng, vào năm 721, trước công nguyên. 

     Ngoài ra,  Amos còn lên án dân chúng hành đạo theo lối giả nhân giả nghĩa; bên ngoài xem ra có vẻ sùng bái. Lễ nghi tôn giáo chỉ là hình thức ngụy trang cho các hành vi tham nhũng trong xã hội của họ. 

     Sứ điệp của Amos vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay.  Nhiều người đang sống trong sự giầu có vật chất, nhưng chúng ta cảm nhận được, khi vật chất tràn ngập, dư đầy trong xã hội, thì đời sống tinh thần ở những nơi ấy dường như đang xuống dốc. 

     Giống như thời kỳ của Amos, khoảng cách giữa người giầu và nghèo mỗi ngày càng trở lên rộng lớn.  Sư kiện này dễ thấy trong các nước văn minh, và sự khác biệt càng rõ nét hơn, giữa những quốc gia tân tiến và kém mở mang. 

     Qua báo chí và các cơ quan truyền thông khác, chúng ta hiểu biết thêm tình trạng bất công trong thế giới loài người.  Mỗi người trong chúng ta được mời gọi, để thi hành vai trò ngôn sứ theo khả năng và đường lối riêng, cần mạnh dạn lên tiếng chống lại các tệ đoan xã hội, và bất công trên thế giới. 

     Nếu chỉ hành đạo bằng việc tham dự các nghi lễ, mà không có những việc làm cụ thể, nếu chỉ vì các lễ nghi tôn giáo, mà làm cho chúng ta mất đi một lương tâm xã hội, thì chúng ta cũng đang vướng mắc vào tình trạng thực hành đạo theo lối giả hình, giống như dân Israel cổ xưa. 

     Tuy nhiên, chúng ta không nên dành trọn thì giờ và sức lực vào việc thực hiện ơn gọi thi hành công tác xã hội, mà sao lãng học hỏi Lời Chúa và loan báo Tin Mừng.  Công tác xã hội chỉ là một trong các bổn phận của người Kitô hữu phải thực hiện, để đem lại công lý và hòa bình trên thế giới. 

     Mến Chúa và yêu người là các giới luật nền tảng, gắn liền với nhau, như hình với bóng, mà Thiên Chúa đòi chúng ta phải thi hành. Thực tâm yêu mến Chúa và dành thì giờ kết hợp, cầu nguyện với Người, thì tình yêu của Người sẽ tuôn đổ xuống trong tâm hồn chúng ta, và đồng thời Người sẽ hướng dẫn chúng ta biết cách biểu lộ tình yêu với tha nhân. 

     Chúng ta được mời gọi để nên giống Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.  Đức Giêsu đã dùng rất nhiều thì giờ để phục vụ những kẻ nghèo khó, bệnh tật, bị xã hội ruồng bỏ; và cuối cùng đã bầy tỏ trọn vẹn tình yêu, bằng cách hiến mạng sống cho chúng ta trên thập giá.
‘’Lạy Chúa,
chúng con cầu xin Chúa ban cho chúng con
sự khôn ngoan và lòng can đảm để
chúng con trở nên những ngôn sứ của Chúa,
mạnh dạn tố giác tội ác trong xã hội
nơi chúng con đang sống.  Xin Chúa đổ
tràn tình yêu Chúa trong tâm hồn chúng con,
để chúng con tận tâm sống một cuộc đời
bằng tình yêu Chúa và phục vụ tha nhân
trong công tác xây dựng nước Chúa.  Amen.’’