Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 13,13-25; - Thánh Vịnh 89,2-3.21-22.25+27;
- Gioan 13,16-20

Nhập Lễ: 
’’Lạy Chúa,khi Chúa đứng đầu dân tộc tiến ra, Chúa lên đường với họ, và ở trong họ, thì đất rung động và trời vỡ lở, halleluia’’ (Thánh Vịnh 67,8-9.20)
Bài Đọc:
’’Từ dòng dõi Đavít, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu’’ (Công Vụ Tông Đồ 13,13-25).
Đáp Ca
                 ’’Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng’’ (Thánh Vịnh 88,2a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Lạy Chúa Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, Chúa đã yêu mến chúng con, và đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng con.  Halleluia’’. (theo Khải Huyền 1,5ab)
Tin Mừng:
’’Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy’’ (Gioan 13,16-20).
Ca Hiệp Lễ:
’’Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, halleluia’’. (Mátthêu 28,20)
 
*****

Đấng Cứu Độ Là Đức Giêsu


Phaolô Nói Với Các Đồng Hương Do Thái tại Antikôniaka


                      Để thi hành trọn vẹn sứ vụ Tông Đồ, Phaolô cũng như bạn hữu của Người luôn sẵn sàng chuẩn bị lên đường.  Trình thuật của Luca trong sách Công Vụ Tông Đồ phản ảnh kế hoạch và hoạt động không ngừng của Giáo Hội sơ khai, trong các chuyến du hành truyền bá Tin Mừng.

                 Muốn thực hiện sứ vụ rao giảng Tin Mừng thêm hiệu năng, dường như có những khi các Tông Đồ phải tập hợp thành từng nhóm nhỏ, thay vì tách riêng, ra đi rải rác từng người.  Chương trình rao giảng của các Tông Đồ dựa theo kết hoạch hợp rồi lại tan.

Tiến trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô diễn biến theo kế hoạch do chính Người tự sắp xếp. Mặc dù Gioan từ giã nhóm để trở về Giêrusalem, các môn đệ khác tiếp tục cuộc hành trình tới Antioch, xứ Pesidian.

Ở đây, theo thói quen, các Ngài tham dự ngày Sabát tại hội đường.  Sau các bài đọc trích từ sách luật và sách tiên tri, các Tông Đồ được giới đặc trách trong hội đường giới thiệu, đặc biệt yêu cầu các Ngài khuyên dậy dân chúng ít lời.

Trải qua nhiều cuộc quấy nhiễu và bất mãn tới cùng cực, khiến nền đạo đức đã bị sa sút trầm trọng, dân chúng cần một sức đẩy nào đó, có thể đem lại cho họ một niềm tin và hy vọng; từ đó, họ sẽ cảm thấy phấn khởi.

Sứ điệp của Phaolô là lời dẫn chứng riêng đối với dân tộc Israel.  Phaolô cho người nghe một tổng lược về lịch sử ơn cứu độ, giúp họ cảm thấy tự hào và hãnh diện, đồng thời thêm hăng say trong cuộc sống hiện tại.

Qua sứ điệp của Phaolô, người Do Thái biết mình là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, rồi đưa họ vào sa mạc để chuẩn bị tiến vào đất hứa; đoạn Thiên Chúa ban cho họ các thẩm phán để cai trị họ, và tiếp theo là ban tặng cho họ một vị vua, như lòng họ mong muốn. Sau khi loại bỏ Saulê, con của Kish, Thiên Chúa đã đặt để Đavít; và từ dòng dõi này, xuất hiện Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu.

Sau buổi diễn thuyết, Phaolô không ngừng gợi lên trong tâm trí họ niềm kiêu hãnh và lòng tôn phục tự nhiên, đối với truyền thống, cũng như đối với Thiên Chúa.  Trong kế hoạch tiêu diệt nhân chủng, người ta thường tìm đủ cách hầu triệt hạ một dân tộc, bằng cách nêu lên các tệ đoan diễn ra trong xã hội liên hệ, hoặc thiết lập một loại công dân hạng hai tại nơi đó.

Vì thế, Phaolô đã khuyên bảo dân chúng Israel nên ý thức điều đó và hãy đứng thẳng người, nâng hẳn đầu lên, hướng mặt về phía trước và hùng dũng tiến bước.  Phaolô cho biết, có Thiên Chúa ở bên cạnh, thì đừng sợ hãi bất cứ điều gì.

Thánh Gioan nói:  ’’Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi’’ (1 Gioan 4,18).  Cũng có lý, khi câu nói kia được đổi ngược lại, và Phaolô biết rất rõ điều đó. Sợ hãi có thể tiêu diệt tình yêu.  Sợ hãi là một ý tưởng thiếu lành mạnh, làm nhụt chí người đem Tin Mừng gieo vãi trong một thế giới tràn đầy đố kị và hỗn loạn.

’’Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm và lòng nhiệt thành, sẵn sàng làm nhân chứng của Chúa trong thế gian.  Xin cho con biết đặt niềm tin ở chính mình, đồng thời biết nâng phẩm giá của người  khác lên.  Xin Chúa mở lòng trí tất cả mọi người để họ có thể đón nhận Tin Mừng cứu độ. Amen’’.

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 11,19-26; - Thánh Vịnh 87,1-7; - Gioan 10,22-30

Nhập Lễ: 
’’Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng, hãy tôn vinh Thiên Chúa, vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng của chúng ta đã thống trị, halleluia’’ (Công Vụ Tông Đồ 19,7.6,)
Bài Đọc:
’’Họ rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cho cả người Hy Lạp’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,19-26).
Đáp Ca
                 ’’Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa’’ (Thánh Vịnh 86,1a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói: ’Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi .  Halleluia’’.
Tin Mừng:
’’Tôi và Cha tôi là một’’ (Gioan 10,22-30).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Kitô đã phải chịu khổ hình và từ cõi chết sống lại, và như vậy Người được vinh quang, halleluia. (theo Luca 24,46.26)

Chiên Của Tôi Thì Nghe Tiếng Tôi




Lần Đầu Tiên Các Môn Đệ Được Gọi Là Kitô Hữu

                 Đọc trình thuật Giáo Hội sơ khai tăng trưởng nhanh chóng, chúng ta cảm thấy thật phấn khởi, đồng thời thúc đẩy mọi người thêm lòng cậy trông vào ơn phù trợ của Thiên Chúa, Đấng ban sự ơn tốt lành và chúc phúc cho các nỗ lực của chúng ta, hầu chúng ta xứng đáng làm chứng nhân của Đức Kitô, nhờ thế, xã hội, nơi chúng ta đang sống có thể theo đà lớn mạnh nhanh chóng như Giáo Hội thuở ban đầu.

                 Đức Giêsu truyền cho các môn đệ rao giảng Tin Mừng, bắt đầu từ Giêrusalem, Giuđêa, Samaria… và cho tới tận cùng trái đất (Tông Đồ Công Vụ 1,8).  Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, số tín hữu tại Giêrusalem đã lên tới trên 5.000 người (Tông Đồ Công Vụ 4,4), và rồi càng ngày càng thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông lẫn đàn bà - rất đông ((Tông Đồ Công Vụ 5,14).

                 Giáo Hội phải trải rộng ra ở nhiều nơi, vì các cuộc bách hại hung hãn nổi dậy, khiến Stêphanô chết vì đạo, nhưng các người Kitô hữu tân tòng, mặc dù mất nhà cửa và các tài sản khác, vẫn tiếp tục hăng say loan truyền Tin Mừng.  Lần theo dấu vết hoạt động của các nhà rao giảng Tin Mừng ẩn danh, trước hết, Luca đặt chân tới Samaria, rồi lần lượt đến Phoenicia (ngày nay gọi là Libanon), Cyprus và Antioch.

                 Antioch là thị trấn lớn thứ ba thuộc đế quốc Rôma.  Thị trấn này được mệnh danh là ‘’Người Đẹp Antioch’’ ‘’Nữ Hoàng Đông Phương’’, vì các biệt thự và những hàng cột thiết kế trong thị trấn.  Thị trấn gồm khoảng một triệu cư dân.

                 Tin Mừng không chỉ được loan truyền ở khắp các nơi thuộc thị trấn Antioch, mà còn lan rộng tới mọi nền văn hóa, bởi vì một số tín hữu gốc Do Thái đến từ Cyprus và Cyrene (thuộc miền Bắc Phi Châu), là những người có nhiều tương quan với Dân Ngoại, nhờ thế họ có thể là thành phần nhân chứng tích cực cho Tin Mừng, khi họ dịp giao dịch với các sắc dân liên hệ.

                 Việc rao giảng Tin Mừng của họ thành công tới độ, tin tức lan truyền về Giáo Hội tại Giêrusalem, nên người ta đã sai Barnaba đi diều tra, để tìm hiểu sự thật.  Nhận thấy quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các tín hữu gốc Do Thái và Dân Ngoại, Barnaba rất vui mừng. 

                 Kết qủa này nhắc Barnaba nhớ tới Giáo Hội lúc ban đầu tại Giêrusalem:  ‘’các tin hữu bán tất cả các vật sở hữu, gom góp chung với nhau, chỉ có một lòng một ý’’ (Tông Đồ Công Vụ 4,32).  Thế rồi, Barnaba đã cùng Saulô, suốt một năm trời khuyến khích, dậy bảo và giúp đỡ tín hữu Antioch trở nên một cộng đoàn trưởng thành.

                 Bài học nào đã dậy Giáo Hội tại Antioch trở nên lớn mạnh?  Bài học căn bản giúp Giáo Hội Antioch lớn mạnh nhanh chóng là nhờ các tín hữu hăng say loan truyền Tin Mừng bằng lối sống đơn sơ, bình dị hằng ngày.  Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn cần học ở nơi cộng đoàn Kitô hữu Antioch mẫu gương yêu thương, đùm bọc và nhiệt tâm dấn thân phục vụ Đức Kitô, đồng thời nỗ lực loan truyền Tin Mừng cách rộng rãi.

                 Nhờ thế, những người chưa nghe biết Chúa, có thể sớm tìm đến nguồn mạch đức tin.  Và từ đó, Giáo Hội sẽ mau chóng bành trướng.  Điều thế gian dễ nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô là chúng ta hết lòng yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.  Chỉ như thế, chúng ta mới xứng đáng tự nhận mình là người Kitô hữu, như các nhà rao giảng Tin Mừng tại Antioch.

‘’Lạy Chúa Giêsu, Chúa ước ao đem mọi người đến với Chúa, bằng lối sống yêu thương và nhiệt tâm dấn thân rao truyền Tin Mừng.  Xin cho chúng con trở nên nhân chứng của Chúa và xứng đáng mang danh Chúa.  Amen’’.

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh

 Thứ Hai Sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 11,1-18; - Thánh Vịnh 42,1-2.43,3-4; - Gioan 10,1-10

Nhập Lễ: 
’’Chúa Kitô một khi từ cõi chết sống lại, thì không còn chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.- halleluia’’ (Rôma 6,9).
Bài Đọc:
’’Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,1-18).
Đáp Ca
                 ’’Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống’’ (Thánh Vịnh 42,3a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Chúa nói:  Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.  Halleluia’’.
Tin Mừng:
 ’’Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’’ (Gioan 10,11-18).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Giêsu đứng giữa các môn đệ và phán rằng: ’Bình an cho anh em’’. (Gioan 20,19)

*****

Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con Thờ

 
Tôi Là Cửa Cho Chiên Ra Vào

 
                 Người Do Thái và Dân Ngoại khinh ghét nhau cách thậm tệ trong suốt nhiều thế kỷ, đến nỗi người Do Thái không ngồi đồng bàn ăn với Dân Ngoại, hoặc lui tới tư gia của họ; và người Do Thái coi Dân Ngoại như một lũ ‘’chó’’.  Người Do Thái sùng đạo coi việc liên hệ với Dân Ngoại có thể làm thân xác họ trở nên dơ bẩn. Đó là điều gây trở ngại lớn trong việc thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu là đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc. 

                 Qua bài đọc hôm nay, chúng ta nhận thấy việc Thiên Chúa đã phá vỡ hàng rào ngăn cản vĩ đại này bằng cách nào? Chúa Thánh Thần hoạt động trong Phêrô một cách tài tình và khéo léo. 

Trước tiên, trong một thị kiến liên quan tới các thực phẩm thanh sạch và ô uế; Chúa Thánh Thần nhắn bảo Phêrô nên đón nhận những điều do Thiên Chúa phán quyết; đoạn Chúa Thánh Thần truyền dậy Phêrô đi với ba sứ thần thuộc Dân Ngoại, để có thể hiểu ý nghĩa thị kiến kia một cách rõ ràng hơn; cuối cùng, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên những kẻ đang nghe lời Chúa trong gia đình Cornêliô; điều đó tỏ lộ cho Phêrô biết, Dân Ngoại cũng được chung hưởng ơn cứu độ của Đức Giêsu:  ‘’Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa’’  (Công Vụ Tông Đồ 11,17).

                 Từ đó, người Kitô hữu gốc Do Thái hiểu rõ rằng, Thiên Chúa có ý định làm cho người Kitô hữu Dân Ngoại và Do Thái hiệp nhất với nhau.  Tất cả các tư tưởng bất chính xưa cũ, nay đã bị loại trừ.  Mọi người hoan hỉ chung hưởng một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần.

                 Đức Giêsu muốn Giáo Hội nên một, bởi vì sự hiệp nhất là cách biểu lộ tình yêu rõ nét nhất, đồng thời phản ảnh tình yêu kết hợp giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Đó cũng là lời chứng rất hợp lý xuất hiện giữa một thế giới luôn luôn chỉ nghĩ tới việc xử dụng chung một thứ vũ khí ‘’xung khắc và bất hòa’’.

                 Sự phân hóa trầm trọng giữa những người Kitô hữu từ nhiều thế kỷ qua, trên một số lãnh vực khác nhau, gây nên nhiều tổn hại trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Lịch sử ghi đậm nét bằng mối thù hận, đến nỗi, anh chị em không ngần ngại chém giết nhau.

                 Trong quãng thời gian mới đây, Giáo Hội xác nhận là Chúa Thánh Thần đang mời gọi các tín hữu Kitô giáo tái hiệp nhất với nhau.  Sắc Lệnh Đại Kết do Công Đồng Vatican II ban hành, đã mở rộng cánh cửa đón chào các buổi đối thọai. Sắc Lệnh minh định rằng Chúa Thánh Thần đã hoạt động ở các Giáo Hội khác nhau, và Người rất đau buồn về tình trạng phân hóa, tạo nên ‘’sự phản nghịch công khai ý định của Đức Giêsu, làm băng hoại trần thế, và gây tổn hại tác vụ thánh là rao giảng Tin Mừng đến tất cả các tạo vật.’’  (Unitatis redingtegratio 1).

                 Trong tông thư ‘’Ut unum sint’’, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi sự tái hiệp nhất.  Người khuyên nhủ tất cả mọi người chúng ta hãy đồng tâm góp sức trong tác vụ này, bằng cách xét định lại thái độ sống của mình, tức là ‘’thay đổi con tim và thánh hóa cuộc sống, đồng thời gia tăng cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô giáo, dưới hình thức tập thể hoặc riêng tư, vì đó là linh hồn của toàn thể phong trào đại kết’’ (UUS, 21).

‘’Lạy Chúa, xin giúp con biết đau buồn trước sự phân hóa Thân-Mình của Chúa.  Xin giúp con tận tâm hy sinh vì Chúa, để nhờ đó, con có thể tiến lại gần anh chị em của con mỗi ngày một hơn.  Amen.’’

Chúa Nhật 4 Phục Sinh - Năm B

Chúa Nhật 4 Phục Sinh  -  Năm B
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 4,8-12; - Thánh Vịnh 118,1+8-9.21-23.26+28-29;
- 1 Gioan 3,1-2; Gioan 10,11-18


Bài Đọc 1:  Công Vụ Tông Đồ 4,8-12  -       Ngoài Người Ra Không Ai
                                                   Đem Lại Ơn Cứu Độ


Ông Phêrô Nói Trước Thượng Hội Đồng 
 
Bài Đọc 2:  1 Gioan 3,1-2  -        Chúng Ta Là Con Thiên Chúa

 
Chúng Ta Được Gọi Là Con Thiên Chúa


Tin Mừng:  Gioan 10,11-18  -     Tôi Chính Là Mục Tử Nhân Lành

 

Tôi Chính Là Mục Tử Nhân Lành


                 Trong Tin Mừng của Gioan, Đức Giêsu sử dụng cụm từ ’’tôi chính là’’ tới bảy lần.  Theo Gioan, đây là một thiết bị thần học có thể làm sáng tỏ sứ mệnh và bản tính của Đức Giêsu.  Mỗi lần nhắc tới từ ngữ ’’tôi chính là’’ là một lần chiều kích sứ mệnh nền tảng của Đức Giêsu được long trọng tuyên dương và nhấn mạnh.  Cụm từ ấy phản ảnh những lời ghi tại chương 3, câu 14, sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Israel.  Những ai nghe Đức Giêsu sử dụng các từ ngữ này có thể hiểu rõ rằng Người đang mang hướng về thần tính.

                 Hôm nay, chúng ta tiếp cận với Đức Giêsu, môt Mục Tử nhân lành.  Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Gioan 10,11).  Nghe những lời ấy, đám thính giả của Đức Giêsu cảm thấy khó chịu.  Hầu hết các mục tử Palestine đều đã hy sinh cuộc sống vì đoàn chiên của mình.  Họ sẵn sàng chịu đựng gian khổ và hiểm nguy để bảo vệ đoàn chiên. Địa hình trắc trở, thời tiết khắc nghiệt và tình trạng sói rừng vẫn là một trong số các đe doạ họ thường xuy ên phải đối đầu.  Nói chung, nguy nan và hiểm trở luôn rình rập n ơi việc làm của họ.  Tuy nhiên, sự tận tâm, tận lực của họ không đến nỗi phải hy sinh mạng sống, vì như thế là vượt ra khỏi bổn phận và khả năng của họ -  đời sống con người được kể là quan trọng hơn một con chiên.  Khác với họ, Đức Giêsu đã hoàn toàn hy sinh cuộc sống cho đoàn chiên của mình.

                 So sánh chúng ta với hình ảnh con chiên thực sự không tương  hợp chút nào, bởi vì con chiên, hơn tất cả, không phải là loài động vật sáng giá nhất! Chiên cần một mục tử.  Chúng rất dễ lạc đường và mau mất định hướng.  Chúng cũng dễ bị kẻ thù tấn công. 

                 Vì cố gắng nghe theo tiếng nói của mục tử, nên chúng ta cũng dám thừa nhận rằng mình giống như những con chiên.  Chúng ta cũng dễ lạc đường vì bị ảnh hưởng của thế giới trần tục.  Chúng ta suy nghĩ và hành động theo chiều hướng trái ngược với Tin Mừng.   Chúng ta có thể cảm nhận rằng mình mất phương hướng và tụt xuống con hẻm đen tối của nhầm lẫn.

                 Đức Giêsu là mục tử nhân lành.  Phần chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành.  Thánh Gioan Chrysotom viết:  ’’Bao lâu chúng ta còn hành xử như những con chiên, thì chúng ta là kẻ chiến thắng; ngay cả khi có hàng chục ngàn con sói bao vây, chúng ta vẫn có thể chiến thắng được.  Nhưng trong giây phút hành động như những con sói, thì chúng ta là kẻ chiến bại, vì chúng ta mất sự hỗ trợ của mục tử.  Nếu mục tử xa lià bạn, là vì bạn không cho phép mục tử biểu lộ quyền lực của mình mà thôi’’.
                 ’’Lạy Chúa Giêsu, Ngài là mục tử nhân lành và Ngài hiến thân vì chúng con, những con chiên của Ngài.  Không được soi dẫn dưới ánh sáng của Ngài, chúng con sẽ lầm đường, lạc lối.  Nhưng nếu được ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng con sẽ nhìn thấy rõ lối đi và được hướng dẫn trên nẻo đường thánh thiện và công chính.  Xin Chúa giúp chúng con luôn biết nghe theo và đáp trả lời mời gọi của Chúa.

Thứ Ba, 14 tháng 4, 2015

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 7,51-8,1; - Thánh Vịnh 31,2-3.5-7.16.20; Gioan 6,30-35

Nhập Lễ: 
’’Hỡi tất cả những kẻ kính sợ Thiên Chúa, trẻ nhỏ và người lớn, hãy chúc tụng Chúa chúng ta vì Người là phần rỗi, là sức mạnh và là quyền năng Đức Kitô của Người, halleluia’’
Bài Đọc:
’’Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con’’ (Công Vụ Tông Đồ 7,51-8,1a).
Đáp Ca
’’Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con’’ (Thánh Vịnh 31,6a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia. Chúa nói:  Chính tôi là bánh trường sinh.  Ai đến với tôi, không phải đói bao giờ’’ .  Halleluia’’.
Tin Mừng:
 ’’Không phải ông Môsê, mà chính là Cha tôi đã cho bánh bởi trời, bánh đích thực’’ (Gioan 6,30-35).
Ca Hiệp Lễ:
’’Nếu chúng ta đã chết với Đức Kit6o, chúng ta tin rằng, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, halleluia.’’

*****

Lậy Đức Kitô, Xin Nhận Lấy Hồn Con

 

Stêphanô:  Kià Tôi Thấy Trời Mở ra
 
                 Trong bất cứ trường hợp nào, tâm hồn trẻ thơ luôn luôn hồn nhiên và trong sáng.  Trái lại, người lớn thường cố gắng che dấu tình cảm, ngay cả những khi đau buồn nhất, hoặc lúc sung sướng, hạnh phúc tuyệt vời. 

Tuy nhiên, dù khéo dấu giếm cách mấy, đôi khi chúng ta vẫn để lộ cho người chung quanh thấy một chút tình cảm riêng tư, đặc biệt là những khi qúa xúc động.  Ánh mắt vui mừng của người mẹ trẻ khi thấy đứa con đầu đàn vừa chào đời trong an lành, là hình ảnh rất đẹp đẽ.

Dù sao chúng ta cũng đã từng chứng kiến những hiện tượng đối nghịch tràn đầy tội ác, diễn ra trong cuộc sống hằng ngày.  Thành phần sống sót trong vụ thảm sát tập thể nhân dân Do Thái thời Đức Quốc Xã, chẳng bao giờ quên được các khuôn mặt hung bạo của nhóm lùng bắt, tiêu diệt họ.

Những người nắm giữ quyền hành thời bấy giờ tỏ ra vui mừng và hãnh diện trước đau khổ của nạn nhân.  Người ta ủng hộ và tung hô hành động tàn ác.  Các tù nhân chứng kiến những mánh khóe gian xảo, liên quan tới sức mạnh của bóng tối, thuộc thế giới loài người.  Thật rùng rợn, kinh sợ, mỗi lần phải nghĩ tới!

Bài đọc hôm nay phác họa một hình ảnh tương tự.  Những kẻ bắt bớ và hành hạ Stêphanô đã chiến thắng nhờ căm hờn, tức giận, mà không có một thứ ngôn ngữ nào trong nhân loại có thể diễn tả cho trọn vẹn.  Họ nghiến răng, tâm can sôi sục, trong khi tâm hồn Stêphanô tràn ngập vui mừng, như đang nhìn thấy trời mở rộng, toàn thân hoan hỉ.  Hình ảnh kia chấm dứt bằng một cuộc xét xử theo công lý, hay bằng một cuộc đấu tranh giữa sự tốt lành và quyền lực sự dữ.  Có thể nói rằng, các xung khắc dường như không ngừng diễn ra trên mặt đất này.

Vị tông đồ tương lai, tức Saulê, cũng thuộc thành phần dân chúng dính líu tới việc gây đổ máu cho Stêphanô.  Mặc dù được huấn luyện để trở thành giáo sĩ Do Thái, ông không tránh khỏi sự thúc đẩy của sự dữ, can dự vào vụ án có tính cách hung tàn, đưa Stêphanô vào cõi chết.

Trình thuật trong bài đọc hôm nay cho thấy, hội viên tích cực trong nhóm hoạt động tôn giáo thuộc thế kỷ thứ nhất, đã không tìm được người có lòng nhân đạo hơn thời đại chúng ta đang sống.

Mặc dù sau này Phaolô đã sám hối về các việc có tính cách phá rối Giáo Hội tiên khởi, nhưng ngay thời gian ấy, không có dấu hiệu nào chứng tỏ Phaolô hối hận về thái độ ngược đãi và đối xử bất công với Stêphanô.

Đức Giêsu thật đúng, khi khẳng định rằng, những gì tỏ lộ ra bên ngoài không làm cho con người trở nên ô uế, nhưng chính là những cái ẩn chứa sâu kín trong nội tâm.  Vấn đề trở ngại là chúng ta không thể nhận thức rõ cảm nghĩ của mình đúng hay sai, trước khi sự việc được thể hiện, qua lời nói cũng như việc làm.

Vì thế, mọi suy tính cần cẩn trọng, trước khi hành động.  Mỗi khi bực tức, nóng giận là cách thế biểu lộ một tâm hồn thiếu bình an, và do đó có thể làm rạn nứt sự tương quan tốt đẹp giữa cá nhân chúng ta và Thiên Chúa.  Chặn đứng kịp thời sự nóng giận và đố kị, giúp tâm hồn chúng ta luôn thăng bằng, không nổi loạn hoặc xúi giục gây hiềm khích, làm thiệt hại đến chính mình và tha nhân.

‘’Lạy Chúa, xin giúp con nhận biết sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn con.  Xin Chúa dẹp tan các ý nghĩ ích kỷ trong con, hầu con có thể nghe được tiếng Chúa nói với con.  Amen.’’

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 6,8-15; - Thánh Vịnh 119,23-24.26-27.29-30;
- Gioan 6,22-29

Nhập Lễ: 
’’Đấng Chăn Chiên nhân lành đã phục sinh, Người đã phó mạng sống mình vì con chiên và đã đoái thương chịu chết vì đoàn chiên, halleluia’’
Bài Đọc:
’’Họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông’’  (Công Vụ Tông Đồ 6,8-15).
Đáp Ca
’’Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời’’ (Thánh Vịnh 118,1).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ lời miệng Thiên Chúa phán ra.  Helleluia’’.
Tin Mừng:
 ’’Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh’’ (Gioan 6,22-29).
Ca Hiệp Lễ:
’’Chúa phán:  Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.  Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng, halleluia. Gioan 14,27’’

*****
Xin Giúp Con tránh Đường Xảo Trá

                 Tactus, văn sĩ kiêm sử gia người Rôma, có lần đã nói một câu thật sâu sắc, nhưng cũng đầy miả mai:  ’Giận ghét tha nhân là một trọng tội.’’  Trong các cuộc giao tiếp giữa con người, giận ghét dường như lan tràn rộng rãi tới mọi nơi.  Giận ghét có thể trở thành hung hãn và bạo động, khi đời sống con người bị đe dọa.  Không ai muốn các ý kiến của mình bị loại bỏ, nhất là khi các ý kiến ấy lại phát xuất từ kẻ thù, cố tình gây ảnh hưởng và thế lực. 

                 Vì các lý do nêu trên, kẻ chống đối Stêphanô đã xách động dân chúng và những ngưòi có thế giá nổi dậy, bầy tỏ lòng căm phẫn đến nỗi quyết định hạ sát Người.  Họ bóp méo lời nói của Stêphanô để mọi người đều cho rằng, Stêphanô là kẻ lộng ngôn, đã vi phạm luật Do Thái, và bị kết án tử hình.  Đúng là một mưu tính gây chết người.  Bản án bất chính đầy gian ác, nhắc chúng ta nhớ tới việc xét xử và lên án Đức Giêsu.

                 Làm chứng gian là một trong các tội phạm xấu xa và ghê tởm nhất, bởi vì đó là điều làm tổn hại trực tiếp đến bản tính Thiên Chúa là sự thật.  Bản tính Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng của thanh sạch và thánh thiện trong sự thật.  Vì thế, khi sự thật bị bóp méo hoặc phủ nhận, thì Thiên Chúa sẽ bị chế nhạo.

Nếu chúng ta không sống trong sự thật, tức là chúng ta phủ nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa, và làm giảm bớt giá trị ơn gọi cao cả của con người.  Điều đáng ngạc nhiên là con người lại dám vi phạm trắng trợn một trong mười giới luật cơ bản, mà Thiên Chúa đã ban cho Môsê, như một bảo chứng thẩm định phẩm cách ngay chính của nhân loại.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu có ai, nhờ lời nói thật của chúng ta, mà cứu được mạng sống họ, thì chúng ta nên can đảm, đừng để mình rơi vào tình trạng làm chứng dối, như những kẻ, thuở xưa, đã cáo gian Stêphanô.  Ngoài ra, Giáo Hội còn khuyên dạy chúng ta phải hết lòng thành thật, khi giao tiếp với nhau, ngay cả những khi cần đề cập tới vấn đề của người vắng mặt.

Vu cáo và nói xấu là các lỗi phạm đáng chê ghét. Mặc dù đã dược học hỏi kỹ lưỡng trong các buổi giáo lý ngay từ thuở niên thiếu, nhưng, dường như, vì vô tình, chúng ta tự rơi vào mạng lưới cám dỗ của xác thịt, bằng cách biến mình thành trò tiêu khiển không thể thiếu trong các cuộc họp mặt thông thường.

Vu cáo là một hình thức làm chứng dối, tức là nói sai sự thật hoặc bịa đặt chuyện, với dụng ý tạo nên một dư luận không tốt, thiếu ngay thẳng, cố tình gây thiệt hại cho người khác, về tài sản cũng như danh dự.

Gièm pha hay rỉ tai là cách loan truyền những điều xấu hoặc khuyết điểm của kẻ khác, để nhiều người biết.  Đó là hành động của những kẻ được mang danh là ‘’ngồi lê đôi mách.’’

Tất cả các hình thức nêu tên biểu lộ một cá nhân thiếu lòng bác ái, đời sống tâm linh nghèo nàn, không phù hợp tinh thần Kitô giáo.
 
               ‘’Lạy Chúa, con cảm nhận, nói xấu người khác thật qúa dễ. Phải chăng đó là cách con làm cho cá nhân liên hệ trở thành bé nhỏ, và để con trở thành to lớn?  Xin Chúa tha thứ cho con, và giúp con sẵn sàng bày tỏ tình yêu với anh chị em của con, như Chúa đã truyền dạy những người muốn theo Chúa.  Amen.’’

Chúa Nhật 3 Phục Sinh - Năm B

Chúa Nhật 3 Phục Sinh  -  Năm B
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 3,13-15.17-19; -  Thánh Vịnh 4,2.4.7.9;
- 1 Gioan 2,1-5a; - Luca 24,35-48

 
Bài Đọc 1:  Công Vụ Tông Đồ  - Chúa Đã Mở Lối Cho Con


Phêrô:  Anh Em Hãy Sám Hối Và Trở Lại CùngThiên Chúa


Bài Đọc 2:  1 Gioan 2,1-5a  -      Đức Giêsu Là Của Lễ
                                                  Đền Bù Tội Lỗi Chúng Ta

 
Đức Giêsu, Đấng Công Chính


Tin Mừng:  Luca 24,35-48  -      Bình Anh Cho Anh Em

 

Bình An Cho Anh Em
 
                 Rất nhiều người trong chúng ta không thể nắm bắt hoặc thấu hiểu trọn  vẹn đoạn Tin Mừng mô tả việc Đức Giêsu sau khi chịu chết và sống lại.  Mỗi phong cách diễn đạt khác nhau, bốn thánh sử đều nói lên cảm nhận mất mát và hoang mang của các môn đệ, nhưng được tiếp nối bằng một chuỗi vui mừng khi Thầy và Chúa của mình hiện ra qua dạng thức Phục Sinh.

             Câu chuyện chúng ta nghe hôm nay diễn tả đoạn đường tiến về Emmaus, một trong những tường trình gợi cảm và ý nghiã nhất, nói về Đức Giêsu sau khi sống lại; hơn nữa, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trình thuật này trong Tin Mừng thánh Luca.  Trước tiên, chúng ta cần lưu ý tới vị trí đã diễn ra trong trình thuật.  Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và hai môn đệ có lẽ xảy ra đúng vào ngày Đức Giêsu thực sự sống lại, và trước khi các phụ nữ đến thăm viếng ngôi mộ trống.   

Tuy nhiên, câu chuyện này đã bị các tông đồ cho là vớ vẩn, chẳng nên tin (Luca 24,11).  Nói cách khác, câu chuyện này là trình thuật đầu tiên nói về Đức Giêsu phục sinh, và diễn tả việc Người hiện ra lần đầu tiên với các môn đệ.   Trình thuật này còn có một giá trị tuyệt vời, mô tả cuộc gặp gỡ thực sự sống động, tạo nên nhiều chủ đề sắc bén phát sinh từ Tin Mừng thánh Luca.  Câu chuyện cũng được mô tả là căn nguyên của sự miả mai và hài hước. 

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh sử Luca đã nhấn mạnh tới hình ảnh của người môn đệ, như một cuộc hành trình, và câu chuyện chứa đựng nhiều hình ảnh tương tự (thí dụ: câu 13, 17 và từ câu 32 đến 33, đoạn 24, Tin Mừng Luca).  Thực chất câu chuyện nói lên phương cách Đức Giêsu giao hòa với hai bạn đồng hành, những người đã bỏ rơi Người, nhưng đó lại là Đấng đã tha thứ và làm cho họ tỉnh ngộ, trước khi họ quay gót trở lại Giêrusalem, loan tải những tin tức tuyệt diệu đến mọi người.     

                 Cũng vậy, trong suốt Tin Mừng của mình, thánh sử Luca đã nói về đức tin như một điều bí ẩn, mắt chúng ta không thể nhìn thấy (thí dụ như ở đoạn 9, câu 45, Tin Mừng Luca).  Bây giờ, Đức Giêsu mới khai triển và hoàn tất chủ điểm này, bằng cách mở cặp mắt các môn đệ để họ nhận biết ý nghĩa đích thực về cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người; và tất cả đều nằm gọn trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Luca truyền đạt những điều này dựa trên cơ sở vững chắc:  ’’Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người…  Họ mới bảo nhau: Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’’ (Luca 31-32).
 
                 ’’Như hiện nay, mặc dù đã trên hai nghìn năm trôi qua, chúng con cũng đang thực hiện cuộc hành trình, khởi đi từ Lễ Phục Sinh; xin cho chúng con biết trân trọng những gì Chúa mặc khải cho chúng con, để chúng con luôn suy ngẫm và ấp ủ trong tâm hồn của mình.’’        

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2015

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 2 Phục Sinh

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 2 Phục Sinh
Các bài đọc trích sách: - Công Vụ Tông Đồ 4,23-31; - Thánh Vịnh 2,1-3.4-6.7-9; - Gioan 3,1-8

Nhập Lễ: 
’’Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa, alleluia’’ (Rôma 9,9).
Bài Đọc:
’’Cầu nguyện xong, ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa’’  (Công Vụ Tông Đồ 4,23-31).
Đáp Ca
’’Lạy Chúa, hạnh phúc tahy những ai ẩn náu bên Ngài’’ (Thánh Vịnh 2,12d).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Halleluia.  Halleluia.  Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.  Helleluia’’  (Thánh Vịnh Côlôsê 3,1)
Tin Mừng:
 ’’Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí’’ (Gioan 3,1-8).
Ca Hiệp Lễ:
’’Đức Kitô đã phải chịu khổ hình và từ cõi chết sống lại, và như vậy Người được vịnh quang’’ (xem Luca 22,46.29).

*****

Con Cứ Xin, Rồi Cha Ban Tặng

 
Ông Nicôđêmô Tâm Tình Với Đức Giêsu


                 Nicôđêmô là một thủ lãnh dân Do Thái.  Việc ông đến thăm Đức Giêsu vào ban đêm cho thấy, ông sợ hãi hoặc xấu hổ vì dám công khai thông hiệp với Đức Giêsu, đồng thời cũng biểu lộ một tinh thần mờ ám ẩn chứa trong con người ông.  Trái với hầu hết những người thuộc nhóm Pharisêu khác của mình, ông tin nhận Đức Giêsu là một người của Thiên Chúa, và ông coi Đức Giêsu như một người đồng đẳng với mình. Trong một buổi bàn luận về cuộc sống đời đời, Đức Giêsu cho ông biết - trước sau như một - : chúng ta không thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không tái sinh trong Thần Khí.

                 ‘’Sinh ra một lần nữa’’ chiếm qúa nhiều thì giờ làm việc của một số học giả, chỉ với mục đích giúp mọi người có thể hiểu tường tận và chính xác ý nghiã sâu xa  trong câu nói; ngược lại, nhiều người Kitô hữu, vì đã hoặc không tìm thấy ý nghĩa đích thực, nên có thể trở hành cực đoan. 

Điều này có lẽ chúng ta cần đem ra mổ xẻ trước mặt Thiên Chúa.  Vấn đề phải bàn tới, đó là, nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, chúng ta không thể không làm những việc tốt lành cho Chúa.  Quan điểm kia được hiểu và nhìn thấy hậu qủa hành động tai hại của tổ phụ chúng ta trong vườn Địa Đàng. 

Xa lìa Chúa, đời sống thiêng liêng nơi chúng ta bị hủy diệt, và như thế, chúng ta tự giam mình trong bóng tối, và chỉ còn biết tin vào khả năng riêng mà thôi.  Diễn dịch kỹ lưỡng lời nhắn bảo của Đức Giêsu, chúng ta dám khẳng định rằng, Nicôđêmô biểu tượng một đời sống tinh thần bị bóng tối bao phủ.  Cho nên, thật đáng sợ, nếu không có thập giá Đức Giêsu Kitô, chúng ta không thể nào thoát khỏi kiếp lưu đầy nơi hỏa ngục.

Không thể phủ nhận rằng, sinh theo cách thế tự nhiên là sự kiện mà chúng ta không thể tiên định được cho chính mình:  Đó là vấn đề cha mẹ tự quyết cho mỗi cá nhân chúng ta.  Cũng vậy, tái tạo tâm linh cũng là vấn đề thuộc phần việc của Cha chúng ta ở Trên Trời, Đấng đã ban cho chúng ta ơn hoà giải, nhờ sự chết của Đức Giêsu trên thập giá, và ân sủng của Chúa Thánh Thần, qua Bí Tích Rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận. ‘’Chúng ta có thể thờ lạy Chúa Cha, vì Người đã cho chúng ta sinh lại vào sự sống của Người khi nhận chúng ta làm nghĩa tử của Người trong Con một của Người: bằng phép Rửa tội; Người cho chúng ta nhập vào Thân Thể của Đức Kitô, Con Người, và bằng việc xức dầu Thánh Thần, chảy từ đầu xuống các chi thể; Người làm cho chúng ta trở thành ‘những Kitô’ khác’’ (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 2782).

Nhiều người trong chúng ta được Rửa tội lúc sơ sinh hoặc đã trưởng thành; nay cần tái dâng đời sống mình cho Đức Kitô.  Trong lúc tái dâng hiến này, chúng ta thừa nhận rằng, việc tái sinh trong Bí tích Rửa tội có liên quan tới việc từ bỏ lối sống riêng tư, mà trở về, như những người con tiến vào nguồn mạch sự sống.

‘’Chúng con cảm tạ Cha Trên Trời, đã ban phép Rửa tội cho chúng con.  Xin tái sinh chúng con trong Người Con yêu dấu của Cha, để đời sống con luôn đem vinh quang tới cho Cha.  Amen’’.