Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA LÒNG THƯƠNG XÓT và ÂN SỦNG

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA
LÒNG THƯƠNG XÓT ÂN SỦNG


             Nhiều người thường nhầm lẫn giữa Lòng Thương Xót và Ân Sủng, bởi vì hai cụm từ này có nghĩa tương tự, nhưng không giống nhau.  Sự khác biệt có thể được tóm tắt như sau: 


Tội lỗi chúng ta đáng Chúa trừng phạt, nhưng vì Lòng Thương Xót, Người không làm như vậy, còn Ân Sủng là ơn lành, phúc lộc Chúa ban cho mỗi người, mặc dù chúng ta không xứng đáng được hưởng.  Lòng Thương Xót là hành động ban ơn giải thoát khỏi án phạt, còn Ân Sủng là lòng từ bi đối với kẻ không xứng đáng.


Theo Kinh Thánh, tất cả mọi người chúng ta đều là những tội nhân (Sách Giảng Viện 7,20; Rôma 3,23; 1 Gioan 1,8).  Hậu qủa do tội lỗi mình đã vấp phạm là tất cả mọi người đáng phải chết (Rôma 6,23) và chịu án phạt đời đời trong biển lửa (Khải Huyền 20,12-15).  Với ý hướng đó, chúng ta có thể biết rằng mỗi ngày chúng ta sống là một hành vi Chúa tỏ lòng thương xót đối với từng cá nhân.  Nếu Chúa ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta xứng đáng được hưởng, do những việc chúng ta làm, thì ngay giờ đây, là án phạt đời đời. Trong Thánh Vịnh 51,1-2, Đavít đã lên tiếng kêu cầu:  ’’Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con; mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.’’ Đó là lời nguyện dâng lên Chúa, xin Người cất bỏ án phạt chúng ta đáng phải chịu và thay vào đó, ban cho chúng ta ơn tha thứ, mà không thể nào chúng ta có được.

Chúng ta chẳng xứng đáng được hưởng bất cứ sự gì từ Thiên Chúa.  Mọi điều tốt lành chúng ta trải nghiệm trong cuộc sống, đều do Ân Sủng của Chúa (Êphêsô 2,5).  Ân Sủng được định nghĩa giản dị là ơn huệ Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không.  Chúa ban ơn, hoặc cho chúng ta những gì tốt lành mà thực ra chúng ta không xứng đáng hưởng hay không bao giờ tìm kiếm được.

Được cứu thoát khỏi án phạt là do Lòng Thương Xót của Chúa, còn Ân Sủng là bất cứ điều gì và mọi sự chúng ta nhận được thì vượt qúa Lòng Thương Xót (Rôma 3,24).  Ân Sủng thông thường ám chỉ ân sủng tối cao mà Chúa ban cho toàn thể nhân loại không kể tình trạng tâm linh của họ như thế nào khi đứng trước tôn nhan Người; trong khi ân sủng cứu chuộc là ơn đặc biệt Chúa ban cho kẻ được chọn, mặc dù họ không xứng đáng, hầu trợ giúp họ nỗ lực cải tiến và thánh hóa đời sống cá nhân.

Lòng Thương Xót và Ân Sủng minh họa cách xác thực nhất về công cuộc cứu chuộc do Đức Giêsu Kitô đã thực hiện.  Chúng ta xứng đáng chịu án phạt, nhưng vì thừa nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Chuộc, nên chúng ta nhận được Lòng Thương Xót của Chúa và giải thoát khỏi án phạt đời đời.  Thay vì bị phán xét, chúng ta lại nhận được ân sủng cứu chuộc, ơn tha thứ mọi tội lỗi, được sống dồi dào (Gioan 10,10) và bất diệt trong Thiên Đàng, một nơi vô cùng đẹp đẽ không ai có thể  tưởng tượng được (Khải Huyền 21-22).

Đáp trả Lòng Thương Xót và Ân Sủng Chúa, chúng ta chỉ biết qùi gối thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ.  Trong thư gửi tín hữu Do Thái, thánh Phaolô nhắn bảo:  ’’Chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.’’ (Do Thái 4,16).

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

LUYỆN NGỤC

LUYỆN NGỤC

Có thể nói Giáo Lý về Ân Xá gắn kết với Giáo Lý về Luyện Ngục.

Nếu người công giáo không tin là có Luyện Ngục

thì đã chẳng có học thuyết Ân Xá.

Giáo Lý Công Giáo dạy rằng sau khi người công giáo xưng tội,

các tội trọng dù đã được tha,

nhưng hối nhân vẫn phải chịu hình phạt tạm do hậu qủa của tội lỗi  

ở ngay đời này, bằng những hy sinh, những việc đạo đức,

những việc sám hối và những việc bác ái, hoặc ở một nơi khác, sau khi chết,

mà các Tổ Phụ gọi là Lâm Bô hay Luyện Ngục

để tẩy sạch, để thanh luyện cho đến khi linh hồn hoàn toàn trong sạch

mới có thể vào thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa.

Ân Xá là phương tiện hữu hiệu nhất có thể rút ngắn

thời gian phạt tạm cho linh hồn của chính mình và

các linh hồn hiện đang bị giam cầm nơi Luyện Ngục.

 

                  Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo định nghĩa Luyện Ngục là một nơi ‘’thanh luyện, hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng,’’ nơi dành cho ‘’những người đã chết trong ân sủng và tình nghĩa Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy trọn vẹn’’ (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 1030).  Điều đáng ghi nhận là:  sự thanh luyện sau cùng dành cho những người được chọn này… hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt’’ (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 1031).

 

                      Sự thanh luyện cần thiết bởi vì, như Kinh Thánh dạy, ‘’tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa ở trên thiên đàng’’ (Sách Khải Huyền 21,27) và, nếu chúng ta chết trong tình trạng tội trọng mà đã được tha thứ rồi, nhưng có thể vẫn còn nhiều tạp chất nơi chúng ta, đặc biệt là các tội nhẹ, nên phải chịu hình phạt tạm.

 



Hai Bản Án

                      Khi chết, chúng ta trải qua một cuộc phán xét riêng, hoặc cá nhân.  Kinh Thánh nói rằng:  ‘’Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét’’ (Do Thái 9,27).  Chúng ta bị xét xử ngay lập tức và nhận được phần thưởng của mình, dù tốt hay xấu. Chúng ta biết ngay về số phận cuối cùng của mình ra sao.  Đến thời sau hết, khi Đức Giêsu trở lại, sẽ có cuộc phán xét chung như Kinh Thánh nhắc tới trong Tin Mừng Mátthêu 25,31-32:  ‘’Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.  Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.’’  Trong cuộc phán xét chung này tất cả mọi tội lỗi của chúng ta sẽ bị công khai phơi bày  (Luca 12,2-5).

 

                      Augustin nói, giống như trong truyện phim tiếng Bồ Đào Nha, mang tự đề Cidade de Deus - ‘’Thành Đô Thiên Chúa’’ , rằng:  ’những hình phạt tạm, có những người chỉ phải chịu ở đời này, còn những người khác thì phải chịu sau khi chết, và những người khác nữa thì phải chịu ngay bây giờ và cả mai sau; nhưng tất cả mọi người đều phải chịu cuộc phán xét cuối cùng và nghiêm khắc nhất.’’  Đó là giữa cuộc phán xét riêng và phán xét chung, đoạn linh hồn sẽ bị thanh luyện do hậu qủa của tội lỗi để lại:  ‘’Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.’’ (Luca 12,59).

 

Tiền, Tiền, Tiền

                      Một lý lẽ chống người Công Giáo thường được sử dụng để công kích Giáo Hội Công Giáo là đã ''sáng chế'' ra Giáo Huấn về Luyện Ngục để làm tiền. Những kẻ chống đối lên tiếng: nếu không có Luyện Ngục, Giáo Hội sẽ bị phá sản.  Bất cứ số sách phản Công Giáo nào cũng đều đề cập tới việc Giáo Hội thiếu nợ một phần lớn trên số tài sản của mình đang có, vì các giáo lý này; nhưng không đưa ra được con số tổng kết.

                      Khi một người Công Giáo xin cử hành thánh lễ tưởng nhớ người chết – đó là một thánh lễ tạo lợi ích cho một linh hồn đang ở trong Luyện Ngục – theo thông lệ thì người xin lễ đưa cho linh mục chính xứ một ‘’bổng lễ’’, vì trên nguyên tắc, ‘’làm thợ thì đáng được trả công’’ (Luca 10,7) và ‘’người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ.’’ (1 Côrintô 9,13-14).  Tại nhiều giáo xứ, bổng lễ thường không qúa mười mỹ kim; nhưng người nghèo khổ qúa thì không phải trả đồng nào.  Một số người có điều kiện và khả năng, dĩ nhiên, tự nguyện dâng cúng nhiều hơn.  Số tiền dâng cúng cha xứ, linh mục mỗi ngày chỉ được phép nhận một số tiền ấn định không qúa một bổng lễ.  Không ai có thể trở nên giầu có với số tiền mười mỹ kim một ngày, và chắc chắn không thể nói là Giáo Hội, không nhận được tiền từ nơi đâu.  Nhưng nếu quan sát kỹ thì chúng ta sẽ thấy, vào mỗi Chúa Nhật, thường có hàng trăm giáo dân tham dự một thánh lễ.  Nếu giáo xứ đông thì con số có thể lên đến hàng ngàn.  Nhiều gia đình hoặc nhiều cá nhân để mười mỹ kim hoặc nhiều hơn vào giỏ ‘’quyên’’ tiền trong mỗi thánh lễ; nhiều người khác nữa thì cho ít hơn; trong khi một số nhỏ lại cho nhiều hơn.  Một giáo xứ có thể có bốn hoặc năm hay sáu thánh lễ trong một Chúa Nhật.  Tổng số quyên góp được vào Chúa Nhật vượt qúa xa so với tiền ít ỏi nhận được từ các thánh lễ cầu nguyện cho người chết.

 

Một ‘’Sáng Chế’’ của Đạo Công Giáo?

                      Thành phần cực đoan lên tiếng nói:  Giáo Hội Công ‘’sáng chế’’ ra giáo huấn về Luyện Ngục để làm tiền, nhưng họ không có thể dẫn chứng rõ rệt là khi nào?  Hầu hết những kẻ chống người Công Giáo  – trong đó một số người đã cống hiến cả đời mình để tấn công ‘’chủ nghĩa Rôma’’ - nhưng chủ yếu là chỉ đổ lỗi cho Đức Giáo Hoàng Gregoria Cả, Đấng trị vì Giáo Hội từ năm 590 đến 604 sau Công Nguyên. Không thể qui lỗi cho Đức Giáo Hoàng Gregorie là người luôn xác nhận là có Luyện Ngục, chỉ vì một mâu thuẫn khó có thể thỏa mãn của Monica, người đã yêu cầu Augustin, con trai mình, ở thế kỷ thứ bốn, nhớ tới linh hồn bà trong các thánh lễ do ngài cử hành;  nhưng việc dâng thánh lễ cầu hồn này sẽ không làm nên ý nghĩa gì, vì bà nghĩ rằng linh hồn mình sẽ chẳng hưởng lợi ích do các lời cầu nguyện, nếu bà bị giam cầm trong hỏa ngục hoặc đang được đầy vinh quang ở trên trời.  Từ đó suy ra, có lẽ bà chưa tin hẳn vào sự hiện hữu của Luyện Ngục!

 

Cũng không thể gán cho học thuyết của Gregoria là đã giải thích các hình vẽ ‘’nhố nhăng’’ (graffiti) tại các ‘’hầm mộ’’ (catacombs), nơi chôn xác các Kitô hữu trong thời kỳ đạo giáo bị bách hại, vào thế kỷ thứ ba sau công nguyên, là những lời cầu nguyện cho kẻ chết.  Thực vậy, các tác phẩm của những người Kitô hữu tiên khởi không nằm trong bộ sách Tân Ước, như Sách Công Vụ của Phaolô Thecla, cũng như Nhà Tử Đạo Perpetua và Felicity (cả hai đều ở vào thế kỷ thứ hai), hướng tới việc cầu nguyện cho người chết.  Chỉ nên dâng lời cầu nguyện cho người chết, nếu người tín hữu Kitô giáo tin vào sự hiện hữu của Luyện Ngục, ngay cả nếu họ không biết đến cái tên – luyện ngục.

 

Tại Sao Không Có Sự Phản Đối

                      Xin bạn cho biết ngày ‘’sáng chế’’ Luyện Ngục, đồng thời xin bạn cũng cho biết rõ giáo huấn về Luyện Ngục phát xuất vào thời điểm nào?  Ngoài ra, nếu vài ba điểm trong giáo huấn đã bị loại bỏ, mà tại sao trong lịch sử Giáo Hội không ghi chép bất cứ một sự chống đối nào từ hàng giáo sĩ về vấn đề ấy?  Một nghiên cứu lịch sử của giáo huấn cho biết những người Kitô hữu thế kỷ thứ nhất sẽ mau mắn vùng dậy, nếu có ai đó đề nghị, ít nhất là sự thay đổi trong niềm tin. 

 

                      Họ là những người cực kỳ bảo thủ nên đã tìm sự thật của giáo huấn bằng cách hỏi:  tại sao tổ tiên chúng ta đã tin vào Luyện Ngục? Có phải đây là niềm tin do các tông đồ truyền lại không?  Tin vào Luyện Ngục chắc chắn được coi là một thay đổi lớn, nếu chưa tin vào Luyện Ngục ngay từ buổi đầu – thì đâu là văn khố đề cập tới các phản đối?  Văn khố không tồn tại, nhưng không sao, bởi vì các văn liệu xưa cũ đã có sẵn cho chúng ta (hoặc sau này, cũng về vấn đề ấy), xác định rằng các ‘’tín hữu trung thực’’ ngay sau những năm hậu các tông đồ đã nói về Luyện Ngục như một học thuyết có vẻ mới lạ. 

 

                      Họ đã có thể hiểu rằng lời giảng dạy bằng lời nói của các tông đồ, mà những gì người Công Giáo gọi là truyền thống, thì Kinh Thánh không có gì gọi là mâu thuẫn với giáo huấn, nhưng, thực sự, hình như đã xác nhận là có Luyện Ngục.  Điều đó không có gì là ngạc nhiên, vì những người phủ nhận sự tồn tại của Luyện Ngục chỉ đụng chạm vào lịch sử niềm tin một cách rất giới hạn.  Họ muốn Kinh Thánh chỉ nói về Thiên Đàng và Hỏa Ngục mà thôi.  Không đuợc.  Điều nói tới chính là một trạng huống thứ ba, thường được các Giáo Phụ gọi là ‘’lâm bô’’, nơi những người chết tạm trú ngụ, trước khi được cứu chuộc, tức là đang chờ đợi cửa thiên đàng mở ra cho họ.  Sau lúc chết và trước khi sống lại, Đức Kitô đã đến thăm viếng những người đang trải qua thời gian ở Lâm bô của các Giáo Phụ và rao giảng rằng thiên đàng đã mở ra cho họ (1 Phêrô 3,19).  Như thế nghĩa là các vong linh này chưa ở trong thiên đàng, cũng không phải chịu khổ nhục trong hỏa ngục.  Một số người nghĩ rằng Lâm Bô của các Giáo Phụ cũng giống như Luyện Ngục.  Điều này có thể hoặc không có thể đáng quan tâm.  Tuy nhiên, ngay cả nếu Lâm Bô của các Giáo Phụ không phải là Luyện Ngục, thì sự tồn tại của Lâm Bô chỉ là một sự tạm thời, trạng thái trung gian không hề trái với Kinh Thánh.  Nhìn theo hướng này, tức là, nếu Lâm Bô của các Giáo Phụ là Luyện Ngục, thì đây là cách trực tiếp chấp nhận sự tồn tại của Luyện Ngục.  Nếu Lâm Bô của các Giáo Phụ là một trạng thái tạm thời khác, thì ít nhất là Kinh Thánh cũng muốn đề cập tới một trạng thái có thể tồn tại.  Điều ấy chứng minh là có một ‘’thứ’’ không giống thiên đàng và hỏa ngục.

                                       
‘’Luyện Ngục Không Có Trong Kinh Thánh’’
                      Một số nhà cực đoan nhận định, như thể đã chứng minh một điều là ‘’Chữ Luyện Ngục không tìm thấy ở bất cứ chỗ nào trong Kinh Thánh.’’  Đúng vậy, và tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bác bỏ sự tồn tại của Luyện Ngục, hoặc thực sự, niềm tin vào Luyện Ngục luôn là phần thuộc về giáo huấn của Giáo Hội.  Phải, những chữ như Thiên Chúa Ba Ngôi Mầu Nhiệm Nhập Thể cũng không có trong Kinh Thánh; còn nữa, những học thuyết liên quan tới các vấn đề kia không được giảng dạy rõ ràng.  Tương tự như vậy, Kinh Thánh dạy rằng Luyện Ngục tồn tại, thậm chí Kinh Thánh không sử dụng các chữ ấy, và cả trong chương 1, đoạn 3, câu 19 cũng đề cập tới một nơi khác với Luyện Ngục.

                      Đức Kitô hướng tới ‘’tội nhân sẽ không được tha thứ, cả đời này lẫn đời sau’’(Mátthêu 12,32), và một người có thể được tự do sau khi chết là do hậu qủa của tội lỗi mình đã vấp phạm trước kia.  Phaolô cũng nói với chúng ta lời tương tự như vậy:  khi bị phán xét, thì mỗi người sẽ được phân xử theo từng việc mình đã làm --- ‘’còn việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ phải thiệt.  Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thế phải băng qua lửa’’ (1 Côrintô 3,15).
                      Giờ đây sự thua thiệt, hình phạt đã có, nhưng không sa xuống hỏa ngục, bởi vì ở nơi ấy, không ai còn được cứu thoát; nếu không như vậy thì hỏa ngục không còn là hỏa ngục, vì nơi ấy không có khổ đau (‘’lửa’’).  Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo giải thích rất rõ phần đề cập tới Luyện Ngục.  Tất nhiên là Kinh Thánh tán thành việc cầu nguyện cho người chết:  ‘’Làm việc này, ông tỏ ra là đã có một cử chỉ rất tốt đẹp và cao qúy vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho ngưởi chết qủa là việc dư thừa và ngu xuẩn.  Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức.’’ (2 Máccabê 12,43-45).  Không cần thiết phải cầu nguyện cho những người ở trên thiên đàng, và chẳng ai có thể cứu được người bị giam cầm trong hỏa ngục.   Điều này có nghĩa là một số người sẽ ở vào hoàn cảnh thứ ba, ít nhất là trong tình trạng tạm thời; chứng minh sự tồn tại của Luyện Ngục, vậy mà trong thời kỳ Cải Cách, giáo phái Tin Lành đã ngang nhiên cắt bỏ sách Macabê (quyển 1 và 2) ra khỏi bộ Kinh Thánh để có lý do tránh việc chấp nhận phần giáo lý này. 

                      Cầu nguyện cho người chết và tiếp theo là giáo huấn về Luyện Ngục đã trở nên một phần thuộc tôn giáo đích thực từ trước thời Đức Kitô.  Không phải chỉ chúng ta mới biết rõ việc dân Do Thái thực hành việc cầu cho người chết vào thời Mácabê, mà ngay cả những người Chính Thống Do Thái vẫn không ngừng dùng một lời kinh thương tiếc quen thuộc ‘’Mourner’s Kaddish’’ - bằng ngôn ngữ cổ Do Thái Aramaic, chứ không phải tiếng Hebrew, để hằng ngày cầu nguyện, trong suốt 11 tháng liên tục, sau khi một trong những người thân yêu chết, hầu giúp họ trở nên thanh sạch.  Không phải Giáo Hội Công Giáo thiết lập thêm một giáo huấn mới gọi là Luyện Ngục; nhưng thực sự chính Giáo Hội Tin Lành đã thay đổi lời giảng dạy nguyên thủy bằng cách từ chối một giáo huấn mà luôn được các tín hữu Do Thái cũng như Kitô giáo luôn luôn tin tưởng. 

Tại Sao Phải Ở Trong Luyện Ngục?
                      Tại sao ai cũng phải ở trong Luyện Ngục?  Để tẩy uế, để tẩy rửa cho sạch, vì ‘’tất cả những gì ô uế đều không được vào [thiên đàng]’’ (Khải Huyền 21,27).  Tất cả những ai không hoàn toàn sạch tội và chịu ảnh hưởng do tội lỗi gây nên, dù ở mức độ nào, đều ‘’dơ dáy’’.  Qua thống hối ăn năn, chúng ta có thể được hưởng ân sủng cần thiết xứng đáng vào thiên đàng, có nghĩa là chúng ta đã được tha thứ và linh hồn ở trong trạng huống còn sống.  Như thế chưa đủ để có thể vào thiên đàng, mà còn cần được tẩy rửa hoàn toàn sạch. 

                      Những nhà cực đoan đã từng biện giải rằng:  ‘’Kinh Thánh cho biết rất rõ, tất cả các điều kiện đòi buộc những kẻ tội lỗi trở nên thánh thiện và công chính đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, như thế nghĩa là Đức Kitô đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc, hoặc đã mua lại chúng ta bằng giá máu của Người.  Những người ủng hộ và xác tín là có một Luyện Ngục (thành phần tín hữu tin việc cầu nguyện cho người chết là cần thiết) thì nói rằng, công cuộc cứu chuộc của Đức Kitô thực ra chưa hoàn tất… Tuy nhiên, mọi sự đều do Đức Giêsu Kitô làm cho chúng ta, chứ chúng ta chẳng làm được gì mà cũng chẳng bổ trợ được gì.’’ Điều hoàn toàn đúng, nếu nói rằng trên thập giá, Đức Kitô đã hoàn thành công cuộc cứu chuộc tất cả mọi người chúng ta; nhưng điều ấy không giải đáp thỏa đáng cho vấn đề đặt ra là công cuộc cứu chuộc chúng ta được thể hiện bằng phương thức nào.  Kinh Thánh cho biết, công cuộc cứu chuộc chúng ta trải dài suốt giòng lịch sử nhân loại, và được thể hiện trên các tạo vật, nhờ tiến trình thánh hóa của người Kitô hữu.  Thánh hóa thì vướng vào đau khổ (Rôma 5,3-5), và Luyện Ngục là giai đoạn cuối cùng trong việc thánh hóa, mà mỗi người cần trải qua trước khi vào thiên đàng.  Luyện Ngục là giai đoạn chót Đức Giêsu áp dụng để thanh luyện công cuộc cứu chuộc mà Người đã hoàn tất cho chúng ta bằng sự chết của Người trên thập giá.

Không Có Sự Mâu Thuẫn
                      Những người cực đoan chống lại giáo huấn về Luyện Ngục trong Kinh Thánh vì cho rằng có một mâu thuẫn giữa sự cứu chuộc mà Đức Kitô đã làm cho chúng ta trên thập giá và tiến trình chúng ta được thánh hóa.  Không phải, vì một nhà cực đoan không thể nói rằng đau khổ ở giai đoạn chót trong việc thánh hóa xung khắc với sự cứu chuộc đã hoàn tất của Đức Kitô, mà không nói tới đau khổ trong các giai đoạn đầu thánh hóa dẫn tới một xung khắc tương tự.
                      Nhà cực đoan có một sự thụt lùi:  Đau khổ trong sự thánh hóa không tách rời khỏi thập giá.  Thay vào đó, thập giá giúp chúng ta thánh hóa, do đó mới phải trải qua những đau khổ, bởi vì ‘’ngay lúc ấy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền.  Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.’’ (Do Thái 12,11). 

Chẳng Có Gì Trong Sạch
                      Luyện Ngục làm nên ý nghĩa, bởi vì Luyện Ngục có một đòi buộc là một linh hồn không chỉ tỏ ra thanh sạch, nhưng phải thực sự thanh sạch, trước khi cá nhân đó có thể đi vào cuộc sống đời đời.  Hơn tất cả, nếu một linh hồn tội lỗi đơn thuần được ‘’che đậy’’, thì coi như tình trạng tội lỗi của linh hồn ấy vẫn tồn tại, nhưng lại không thực sự được quan tâm tới, vì thế, linh hồn ấy vẫn là một linh hồn tội lỗi.  Như vậy thì linh hồn ấy vẫn còn ô uế.

                      Thần học Công Giáo coi trọng quan điểm cho rằng ‘’tất cả những gì ô uế thì chẳng được vào thiên đàng.’’ Từ đó, có thể suy ra rằng một linh hồn kém thanh luyện, hoặc ngay cả nếu bị tội lỗi ‘’che phủ’’, thì linh hồn ấy vẫn ở trong tình trạng ô uế, chưa xứng đáng vào thiên đàng.  Linh hồn cần được thanh luyện hoặc ‘’bị giam trong Luyện Ngục’’ vì linh hồn vẫn còn trong tình trạng chưa toàn thiện.  Sự tẩy uế chỉ diễn ra trong Luyện Ngục.  Thực vậy, vấn đề Luyện Ngục đã được diễn giải trong Kinh Thánh, thí dụ như trong thư thứ 2 gửi tín hữu Thêxalônica, đoạn 2, câu 13, thánh Phaolô xác quyết rằng Thiên Chúa tuyển chọn chúng ta ‘’để được cứu chuộc qua sự thánh hóa của Thần Linh.’’  Như vậy, việc thánh hóa không phải là một lựa chọn tùy ý, mà trong đó có những điều có thể hoặc không thể xảy ra trước khi cá nhân liên hệ được vào trong thiên đàng.  Điều cần thiết tuyệt đối, như trong thư gửi tín hữu Do Thái, đoạn 12, câu 14, thánh Phaolô cho biết: chúng ta phải cố gắng ‘’vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa.’’

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THỂ HIỆN LÒNG THƯƠNG XÓT – (2)

NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THỂ HIỆN
LÒNG THƯƠNG XÓT(2)

                      Các việc làm bày tỏ lòng thương xót có thể không chỉ hướng tới những người có nhu cầu thể chất, nhưng cũng hướng đến cả về các linh hồn nữa. Thực vậy, hầu hết các hình thức nghèo có thể chỉ xuất phát từ cái  nghèo tâm linh, bởi vì tâm linh không những cung cấp nghị lực, niềm vui, nỗi buồn và khái niệm về mục đích sự sống, mà còn sinh ra một thứ nghèo có thể kéo dài mãi mãi.

                      Nhà rao giảng Tin Mừng Billy Graham kể một câu truyện liên quan tới bữa ăn chiều của ông với một trong số những người giầu nhất nước Mỹ.  Trong lúc dùng bữa, nhà tỷ phú thú nhận rằng, mặc dù ông có tất cả mọi thứ qúy giá đã mua được bằng tiền, nhưng ông đau khổ không sao tả hết bằng lời.  Bài học ở đời dạy rằng:  tiền không thể mua được hạnh phúc.  Dường như đó chỉ là một sáo ngữ, nhưng lại chính là sự thật.  Rõ ràng là nhà qúi tộc giầu có kia đã đau khổ vì tâm linh mình nghèo khó.

                      Thực vậy, nếu muốn có một cuộc sống khang cường, thì tâm hồn con người cần được nuôi dưỡng bằng chân, thiện, mỹ, đồng thời trưởng thành trong sự thánh hóa và được chuẩn bị cho cuộc sống mai sau.

                      Đó là lý do, tại sao, ngoài các việc làm bày tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống thể chất, Giáo Hội còn phác họa những việc làm bày tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống tâm linh nữa.  ’’Thương Linh Hồn Bảy Mối’’ là phương thuốc phòng ngừa sự nghèo khó trong tâm hồn, xuất phát từ các việc làm mà mỗi cá nhân bày tỏ lòng thương xót với nhau trong cuộc sống đời thường, sẽ được trình bày dưới đây:   

Thương Linh Hồn Bảy Mối:
                       Thứ nhất:   Lấy lời lành mà khuyên ngườ
                       Thứ hai:     Mở dạy kẻ mê muội.
                       Thứ ba:      Yên ủi kẻ âu lo.
                       Thứ bốn:    Răn bảo kẻ có tội.
                       Thứ năm:   Tha kẻ dể ta.
                       Thứ sáu:     Nhịn kẻ mất lòng ta.
                       Thứ bảy:    Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Thứ nhất:  Lấy Lời Lành Mà Khuyên Người.
                      Lấy Lời Lành Mà Khuyên Người là việc làm bày tỏ lòng thương xót, mà chúng ta có thể cho là một ’’thứ tình yêu tuyệt khó,’’ - một loại tác vụ không dễ thực hiện nhất, đặc biệt là tại các nước phương Tây và một số quốc gia đang phát triển hiện nay.  Tại sao? Bởi vì ’’Tôi rất hài lòng  Tôi đang sống giữa một nền văn hóa tốt’’ là những câu nói mà mỗi người  dường như rất tự hào, mỗi khi phát biểu để tỏ ra  ’’Tôi’’ có những giá trị đặc thù của riêng tôi, và ’’Anh’’ có những giá trị của riêng anh; do đó, chúng ta, mỗi người có quyền tự do thực thi những giá trị mà tâm hồn cảm thấy hài lòng, bao lâu chúng ta chưa làm điều gì nguy hại đến đời sống thể chất của những người sống chung quanh.

                      Nếu chúng ta thực sự muốn làm một cuộc mạo hiểm bằng cách trực tiếp phê bình hoặc chỉ trích hay phàn nàn, dù chỉ với dụng ý muốn ''làm tốt'' cho cá nhân nào đó giữa thanh thiên bạch nhật, đại để như:  ra ngoài đường mà anh  / chị ăn mặc lố bịch qúa, hoặc anh / chị đừng nói chuyện trong nhà thờ nhé; hay ra mặt chống đối việc phổ biến phim / ảnh khiêu dâm, chống phá thai, đồng tính luyến ái… Chín trong số mười lần cố gắng bày tỏ nhiệt tâm của mình, thì kết qủa tác vụ ’’lấy lời lành mà khuyên người’’, dù có nhã nhặn, lịch sự cách mấy, cũng có một lần chúng ta gặp phản ứng bất lợi hoặc dữ dội từ phía những người mang bản tính ngang ngược.

                      Cuối cùng, hậu qủa bất lợi khó lường sau những lời phát biểu thơ ngây và thiếu khôn ngoan: ’’Tôi rất hài lòng - Tôi đang sống giữa một nền văn hóa tốt’’ có thể cũng xảy đến, mà chúng ta gọi là ''mắc hoạ vào thân'', hay ''con gà chết vì tiếng gáy'';  thay vì nên tỏ lộ cùng người khác với một tấm lòng khiêm hạ:  ’’Tôi không được thoải mái, vì có lẽ Tôi đang làm tổn hại chính mình và nhiều người khác, ít nhất là về vấn đề thể lý và tâm linh, nếu không muốn nói tới cả vấn đề tâm lý xã hội học nữa’’.

                      Vấn đề trở ngại là chúng ta sống trong một xã hội đang bị những con người không được hấp thụ một tiến trình giáo huấn về luân lý cũng như tâm lý từ khi đến tuổi dậy thì, thống trị.  Do đó, họ lầm lỗi trong suốt cuộc sống vì sự hiểu biết về tình yêu rất giới hạn ở tuổi thanh niên.  Đối với họ, để được ’’yêu’’, là tất cả những gì họ muốn và làm, mà không gây thiệt hại về thể chất của bất cứ ai, đều phải được thừa nhận.  Nếu chỉ thẳng vào mặt một người và nói:  ’’Này, theo tôi nghĩ, điều bạn đang làm là sai; tôi nghĩ, điều bạn đang làm có thể dẫn tới thiệt hại cho đời sống tâm linh của bạn và cả những người khác nữa.’’, thì có thể người ấy sẽ nghĩ rằng, chúng ta phàn nàn vì họ đang làm một điều mà chúng ta cho là hẹp lượng và điên dại.

                      Dù sao thì đó vẫn là tâm tính của giới trẻ - đang sống trong một xã hội dưới sự thống trị của những con người có cùng tâm tình như thế - buộc chúng ta phải có thái độ dũng cảm và lòng xót thương, như lời thánh Phaolô khuyên dạy:’’sống trong sự thật và trong tình bác ái,’’ (Êphêsô 4,15), với tâm hồn từ bi và dũng cảm.      
       Được như thế, không phải dễ, vì vậy mỗi khi muốn răn bảo ai, chúng ta phải rất thận trọng:  tìm thời gian thuận tiện và sử dụng đúng ngôn từ để nói cho họ hiểu rõ giá trị nhân phẩm của người mà chúng ta đang hướng dẫn, khuyên dạy; thậm chí cả những khi phải kêu gọi họ hoàn tất một việc bằng tiềm năng tuyệt đối.

                      Thánh nữ Faustina cho chúng ta một thí dụ điển hình liên quan tới vấn đề này.  Trong tu viện của thánh nữ tại Ba Lan, thỉnh thoảng thánh nữ đã được Thánh Linh kêu gọi thực hiện ’’thứ tình yêu tuyệt khó’’.  Thánh nữ đã thực sự trở nên nổi tiếng trong Dòng nhờ tính táo bạo khuyên nhủ các chị em, thậm chí cả những chị em đồng tu lớn tuổi và có học vấn hơn mình, vì họ thường đem những mẩu chuyện thiếu lành mạnh ra ’’lảm nhảm’’ với nhau, và cuối cùng, vài ba nữ tu đã nuôi ác cảm với Faustina.     

Thứ hai: Mở Dạy Kẻ Mê Muội
                      Với điều này, trước tiên, chúng ta phải chấp nhận trách nhiệm được Thiên Chúa trao ban để trở thành người dạy bảo và uốn nắn con cái mình.  Nhiều người công giáo hiểu lầm, cho rằng việc dạy bảo giới trẻ, chủ yếu là trách nhiệm của trường công giáo địa phương và các lớp giáo lý tại mỗi giáo xứ. Thực ra đó là trách nhiệm của bậc phụ huynh.  Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng: ’’cha mẹ là những người có trách nhiệm đầu tiên trong việc giáo dục con cái mình’’ (2223), ’’do ân sủng bí tích hôn phối, các cha mẹ đã nhận được trách nhiện và đặc ân phúc âm hóa con cái mình’’ (2225).

                       Việc giáo dục bắt đầu ngay từ thuở ban đầu, gồm việc đọc sách cho con cháu nghe những mẩu truyện trong Kinh Thánh và sự tích các thánh; như thế là cung cấp cho chúng một chế độ dinh dưỡng tâm linh đều đặn, hầu dẹp tan những mơ hồ xuất hiện trong tâm trí non dại, có thể làm hoen ố bản tính ngây thơ, gây thiệt hại đến lòng đạo đức đang triển nở nơi chúng. 

                      Đường lối giáo dục Kitô giáo sẽ hạn chế loại văn hóa đồi trụy từ đài truyền hình hoặc trên các mạng Internet, hăm dọa đột nhập vào căn nhà yêu dấu của chúng ta. Gia đình cùng cầu nguyện, qua hình thức Lần Chuỗi Lòng Thương Xót hoặc hát thánh ca cầu nguyện trước khi lên giường ngủ vào buổi tối là cách bảo vệ đời sống thanh cao trong mỗi gia đình vậy.

                      Chúng ta không cần phải hoán chuyển gia đình mình thành những tu viện hay tịnh xá, nhưng chúng ta nên lắng nghe lời răn dạy của thánh Phaolô:  ’’Anh em đừng rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.’’  (Rôma 12,2).  Bên ngoài cuộc sống bình thường của gia đình, tất nhiên, việc hướng dẫn đức tin chân chính cũng là điều cần thiết. Không cách nào (nhưng không ít bị đe dọa) trong việc chia sẻ đức tin Công Giáo với bạn bè không công giáo hiệu qủa hơn là cứ để cho tình thân hữu diễn ra tự nhiên.  Trong các lễ Chúa Giáng Sinh hay sinh nhật, sao chúng ta không tặng bạn một cuốn sách mình ưa thích nhất với lời dẫn giải tỉ mỉ về đức tin? Đa số người Công Giáo (và không Công Giáo) thường được cung cấp những tin tức thiếu chính xác về giáo lý cũng như vai trò của Giáo Hội qua giòng lịch sử, nhưng nhờ một cuốn sách hay có thể đánh tan những thành kiến bấy lâu nay họ vẫn có về đạo Công Giáo, như thế cũng được kể là làm một việc bày tỏ lòng thương xót vậy. Khi có dịp, người Công Giáo Tây phương thường tặng nhau một cuốn sách hay,tức là món qùa thật sự qúi báu, đúng như lời nhắn bảo của thánh Phêrô: ’’Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em, nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng…’’ (1 Phêrô 3,15).  

Thứ ba và thứ bốn: Yên Ủi Kẻ Âu Lo và Răn Bảo Kẻ Có Tội
                      Một món qùa tặng to lớn dường bao phát sinh từ Lòng Thương Xót Chúa, khi có người thật sự lắng nghe bạn nói, hay một người thật sự  cho bạn trút bầu tâm sự cùng họ, và chia sẻ những khó khăn, buồn khổ của bạn, hoặc một người thật sự đón nhận tất cả mọi tình huống của bạn và dâng lên Chúa trong lời cầu nguyện trước khi cho bạn lời khuyên. Rất nhiều người vội vàng đưa ra các ý kiến chưa chín chắn và thiếu suy nghĩ kỹ càng!  Nhưng có bao nhiêu người bạn biết thật sự lắng nghe bạn tâm sự và tiếng nói của Thánh Linh trước khi phát ngôn?

                      Bạn có thể trở thành người vì mọi người nếu bạn thực tâm học cách lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh trong đời sống riêng của bạn, trước tiên với sự trợ giúp của một vị linh hướng.  Đọc Sách Tân Ước mỗi ngày và lắng nghe tiếng Chúa nói với bạn ở trong đó.  Tìm gặp một vị linh hướng và lắng nghe tiếng Chúa nói với bạn qua lời khuyên dạy khôn ngoan của vị linh hướng.  Như vậy, sau khi học nghe, bạn sẽ sẵn sàng và có thể nghe được tiếng nói của người khác một cách sâu lắng.     

                      Chúng ta có thể tìm thấy một thí dụ điển hình về vấn đề này qua đời sống của thánh nữ Faustina.  Trong cộng đoàn nữ tu, Faustina là một người thực sự biết lắng nghe, đến nỗi bà được các nữ tu đồng nghiệp tặng cho biệt danh là ’’thùng đổ cặn bã’’, bởi vì họ luôn luôn tới trút tất cả mọi vấn đề trở ngại cho bà (đọc Nhật Ký của thánh nữ Faustina, đoạn 871).  Học biết nghệ thuật nghe từ Nhật Ký của thánh nữ Faustina không hẳn là dễ.  Bà học lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh khi cầu nguyện và cũng từ tiếng Thánh Linh nói với bà qua sự chỉ bảo của vị linh hướng, chẳng hạn như linh mục Joseph Andrasz, S.J., và Á thánh Michael Sopocko.

Thứ năm:  Tha Kẻ Dể Ta
                      Đây là một việc làm thật sự khó khăn.  Trong tình yêu do lòng thương xót Chúa, chắc chắn buộc chúng ta phải chia sẻ Đức Tin Công Giáo với những ai đang xa lìa Chúa, bởi vì họ rất cần lòng thương xót của Người, (chẳng lẽ chúng ta lại không cần sao!).  Đó là một hành động tỏ lòng thương xót chỉ vì yêu thương, nên chúng ta phải chia sẻ đức tin với những ai cần tới lòng thương xót, đồng thời còn phải cầu nguyện cho họ nữa.  Mặt khác, chúng ta nên kiên nhẫn trong việc rao truyền Chúa tới cuộc sống của những người khác.  Chúng ta đừng bao giờ gây phiền hà, làm áp lực, hay thúc giục bất cứ ai.  Một câu nói trên tấm yết thị được kể là khá nổi tiếng rằng:  ’’Nên kiên nhẫn. Thiên Chúa chưa hoàn thành nơi tôi!’’  Câu viết tóm tắt thái độ của chúng ta cần có là gieo hạt giống đức tin vào tâm hồn và trí khôn những người đang vướng mắc sai lầm trầm trọng. Nhưng sự thay đổi còn tùy thuộc vào thời gian do Chúa định liệu.  Ngay khi không thấy kết qủa do những nỗ lực của mình, thì chúng ta vẫn tin chắc là Chúa sẽ làm cái phần của Người là tưới nước ’’ân sủng trở lại’’ trên những hạt giống do chúng ta ươm trồng, và nếu hoặc thời điểm con người sẵn sàng muốn đón nhận tặng phẩm ấy, thì tự nhiên sẽ đến  Vì vậy, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn với những người phạm sai lầm, chia sẻ đức tin với họ càng nhiều càng tốt nếu chúng ta có thể (nhìn nhận rằng tất cả những hiểu biết chúng ta có về sự mặc chân lý của Chúa chỉ giới hạn, và khả năng bày tỏ chính xác chân lý ấy cho người khác còn hạn chế), và cầu nguyện cho họ, với niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa và kiên nhẫn chờ đợi tất cả mọi người trong chúng ta.  

Thứ sáu:  Nhịn Kẻ Mất Lòng Ta
                      ’’ Đừng tự mình báo oán.’’ (Rôma 12,19)  Nếu bất cứ một mối thù nào cần ’’thanh toán’’, ở đời này hay đời sau, thì Một Đấng  duy nhất có đầy đủ tư cách làm việc đó, chính là Chúa, vì chỉ một mình Người biết tất cả mọi bí ấn trong mỗi cá nhân.  Vì thế, chúng ta nên luôn dẹp bỏ bất cứ ý muốn trả thù nào trong tim óc, và với ý hướng đó, ít nhất là hãy tha thứ cho kẻ thù của mình.  Nghĩa là chúng ta nên dừng lại cả những mối ’’thù vặt’’, dưới hình thức gièm pha hoặc vu khống hay nói xấu bất cứ ai vì họ đã gây tiếng xấu cho mình.  Do đó, tha thứ cho kẻ thù là điều hoàn toàn tương dung, là hành động bảo vệ mình cách hợp lý. Lòng khoan dung đối với kẻ vi phạm luật pháp đã bị bắt giữ và nhốt trong phòng giam, để họ không còn có thể làm thiệt hại cho kẻ vô tội, là điều thích hợp.  

Lòng khoan dung, thậm chí cả khi phải điều động lực lượng cảnh sát hay quân sự trong việc xử dụng vũ lực độc hại, như một phương sách cuối cùng, để tiêu diệt thành phần tội phạm hung dữ hoặc đẩy lui thế lực ngoại bang xâm lấn. (Xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 2263-2267).  

Nói chung, tha thứ cho kẻ thù vừa là bổn phận của chúng ta, vừa là cách bảo vệ chính mình và những người thân yêu của mình tránh khỏi các nguy hại, tuy nhiên, điều này đòi hỏi những người thân cận, trong đó gồm cả các thành viên gia đình và chính cá nhân mình, phải có các lối ứng xử cao. Để phòng ngừa và không để cho sự ác lây lan theo các đường hướng kia, thực sự cũng là một việc làm bày tỏ lòng thương xót, không chỉ đối với chính mình và những người thân yêu, mà thậm chí cả với các tên thủ phạm tội ác.  Các tên thủ phạm thường ít có cơ may thống hối, nếu không có sự trợ giúp bằng ’’phép trị liệu cụ thể’’ do giới chức đặc trách xã hội đề xướng và bảo vệ những kẻ vô tội.

Nói cách khác, để tha thứ và yêu thương kẻ thù, không nhất  thiết là chúng ta phải để họ chà đạp lên mình, nhưng khi không còn  cách nào khác để bảo vệ mình và những người thân cận khỏi bị hãm hiếp thì chúng ta có thể ngoan ngoãn nhịn nhục chịu đựng.  Tuy nhiên chắc hắn  không phải lúc nào hoặc ở đâu chúng ta cũng cứ bị thiệt thòi như vậy.

Thứ bảy:  Cầu Cho Kẻ Sống và Kẻ Chết
Mỗi ngày chúng ta có thể đem những nhu cầu của chính mình, những nhu cầu của mọi người thân yêu, và những nhu cầu của toàn thế giới đặt vào Trái Tim đầy lòng thương xót Đức Giêsu.  Chính thánh nữ Faustina đã thường đem các nhu cầu ấy đặt vào ’’Trái Tim rất từ bi’’ của Đức Kitô, (xem Nhật Ký, số 1209-1229).

Các việc tỏ lòng thương xót chúng ta làm liên quan tới cả hai lãnh vực thể lý cũng như tâm linh dường như không bao giờ đủ so với những nhu cầu của thế giới chung quanh chúng ta.  Nhưng Chúa không đòi chúng ta phải đáp ứng mọi nhu cầu. Người chỉ muốn chúng ta cố gắng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được, phần còn lại hãy để Người lo liệu giải quyết cho từng linh hồn mỗi cá nhân.

Chắc chúng ta vẫn nhớ câu truyện ’’năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá’’.  Thánh Anrê thưa với Đức Giêsu:  ’’Ở đây, có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá; nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!’’ (Gioan 6,9). Đó là nguồn cung cấp ít ỏi, nhưng nhờ đặt niềm tin vào Đức Giêsu, nên đã có lương thực nuôi sống một số rất đông người.  Vì vậy, với nỗ lực hạn hẹp trong việc thực hành tỏ lòng thương xót liên quan tới cả hai lãnh vực thể lý cũng như tâm linh, chúng ta nên để Thánh Linh dìu dắt và hướng dẫn, đồng thời dâng tất cả mọi sự lên cùng Đức Giêsu. Người có thể làm các phép lạ nhờ những hy sinh nhỏ bé ấy.

Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy những phép lạ như vậy bằng chính cặp mắt mình, cho đến khi chúng ta trực diện cùng Người trên thiên đàng.  Đó là lúc Người ban cho chúng ta ân sủng được nhìn thấy những gì Người nhìn thấy; đó là lúc Người đưa cặp mắt yêu thương nhìn chúng ta và chúng ta sẽ nghe những lời chúc phúc phát ra từ đôi môi của Người: ’’Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành!’’ (Mátthêu 25,23).

Các Câu Hỏi Để Thảo Luận
1.-  Tại sao ngày nay ’’Việc Răn Bảo Kẻ Có Tội’’ lại qúa khó khăn? Đã có bao giờ bạn thực sự được người nào đó răn bảo chưa?

2.-  Bạn có thể tìm được phương cách nào mới để hướng dẫn người chưa bao giờ biết đến chân lý đạo Công Giáo không?

3.-  Bạn có thể tìm được phương cách nào mới để ’’tha thứ cho những kẻ làm mất lòng mình,’’ cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục bạn, nhưng nhất định không ’’nguyền rủa bóng tối’’ ?

Một Lời Khích Lệ của Thánh Nữ Têrêsa Avila
                      Đức Kitô không có ai trên mặt đất này, nhưng có bạn; không có bàn tay nhưng có bàn tay bạn; không có chân nhưng có chân bạn.  Qua đôi mắt bạn, lòng thương xót Đức Kitô có thể nhìn ra khắp thế giới. Với đôi chân bạn, Người ra đi để thực hiện những điều tốt lành.  Bằng đôi tay bạn, Người chúc phúc cho dân Người.

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THỂ HIỆN - LÒNG THƯƠNG XÓT – (1)

NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THỂ HIỆN
LÒNG THƯƠNG XÓT – (1)


                      Để làm những việc từ thiện, bác ái - tỏ lòng thương xót tha nhân - trước hết, chúng ta có thể dùng lời Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Asissi làm mẫu mực:

’’Lạy Chúa từ nhân!
xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem an hòa vào nơi tranh chấp,
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan,
chiếu trông cậy vào nơi thất vọng.
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
Đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an.
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết.
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Ôi! Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con.
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí.
Ơn an bình.’’


Tiếp đến là Kinh Mười Bốn Mối.  Kinh Mười Bốn Mối đề cập tới hai lãnh vực, kêu gọi chúng ta ứng xử với nhau trong cuộc sống đời thường:  Thể xác (Thương Xác Bảy Mối) Tâm Linh (Thương Linh Hồn Bảy Mối.

Chúng ta cùng nhau thu tóm lối sống mà trong đó chính Đức Giêsu đã kêu gọi mỗi cá nhân phải thực hành.  Trái tim đầy lòng thương xót của Đức Giêsu, Đấng tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, đặc biệt là qua lời chúng ta cầu nguyện và những việc lành chúng ta làm, cũng như các thánh lễ chúng ta tham dự, để từ đó Tình Yêu đầy Lòng Thương Xót của Người thấm sâu nơi tâm trí chúng ta mới có thể lan tỏa tới những người mà chúng ta gặp gỡ trên đường đời, đang cần tới lòng thương xót ấy.

Á thánh Mẹ Têrêsa Calcutta, một người đã thực hành và chỉ rõ cho chúng ta lối sống vô cùng cao đẹp trong suốt cuộc đời làm chứng nhân cho Chúa. Mẹ đã từng nói rằng, có hai cách thế nhận ra sự ’’Hiện Diện Đích Thực’’ của Chúa trong thế gian:  1.) Sự Hiện Diện Đích Thực của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, từ nơi ấy, Người ban cho chúng ta Ánh Sáng, Sự Sống và Tình Yêu của Người; và 2.) Sự Hiện Diện Đích Thực của Chúa trong người nghèo, kể cả những người nghèo vật chất lẫn những người nghèo tinh thần, ở đấy Người đang chờ đợi chúng ta đưa lại cho Người Ánh Sáng, Sự Sống và Tình Yêu của Người.  Rước Bánh Sự Sống là chúng ta tiếp nhận tình yêu đầy lòng thương xót của Đấng Cứu Thế.  Chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát vật chất cũng như tinh thần là chúng ta trả lại cho Người tình yêu, là trao niềm an ủi và hoan lạc lại cho Người.

Mẹ Têrêsa đã tận hiến đời sống mình để thu lượm những người nghèo khó và đau khổ trên các đường phố Calcutta và các thị trấn lớn khác ở Ấn Độ, cung cấp cho họ những gì gọi là cần thiết nhất trong cuộc sống như thực phẩm, chỗ nương thân, chăn, mền, và một chút tình thương.  Nhiều người mắc các chứng bệnh nan y, vô phương cứu chữa, nhưng Mẹ Têrêsa cũng như các chị em thuộc Cộng Đồng Nữ Tử Bác Ái không tỏ ra e dè hay phân biệt.  Các chị đã hiến thân phục vụ và yêu thương người nghèo như đang thấy ’’Đức Giêsu ẩn mình’’ trong họ.  Các chị thấy Chúa như đang hiện diện nơi tất cả những người đau khổ.

Truyền thống của Giáo Hội Công Giáo là khuyến khích giới trẻ hiểu biết và thực hành các công tác từ thiện tỏ lòng thương xót qua hai thể loại:  vật chấttinh thần.  Những gì chúng ta nhìn thấy nơi cuộc sống Mẹ Têrêsa phản ánh đặc biệt các việc làm tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống vật chất của con người, đã được Kinh Mười Bốn Mối giải trình, mà trong đó gồm có:

Thương Xác Bảy Mối  (Các việc làm tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống vật chất):
                                            Thứ nhất:     Cho kẻ đói ăn.
                                            Thứ hai:       Cho kẻ khát uống.
                                            Thứ ba:        Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
                                            Thứ bốn:      Viếng kẻ liệt (6)
                                                                 cùng kẻ tù rạc.    (5)
                                            Thứ năm:     Cho khách đỗ nhà. (4)
                                            Thứ sáu:       Chuộc kẻ làm tôi.
                                            Thứ bảy:      Chôn xác kẻ chết.

                      Đọc qua phần Thương Xác Bảy Mối truyền thống, nhiều người cho rằng dường như các điều trong bản liệt kê đã ’’khá lỗi thời, bởi vì trong thế giới giầu có, tân tiến, văn minh hiện đại, làm cách nào để chúng ta tạo được cơ hội đưa nước cho kẻ khát uống, đưa quần áo cho kẻ rách ruới mặc, hoặc tìm đâu ra nô lệ mà chuộc, hay chết ở đâu mà cũng có người đem xác đi chôn!’’

                      Nhưng, chúng ta chớ vội gạt bỏ các điều trong bản danh sách đã có từ lâu đời liên quan tới các việc làm bác ái, từ thiện, giúp đỡ vật chất tỏ lòng thương xót tha nhân.  Trái lại, các điều liệt kê kia thật sự có ích hơn chúng ta suy tưởng, vì đó chính là những thách đố, những con đường mà Đấng Cứu Thế kêu mời chúng ta tiến bước theo Người.

                      Hơn nữa, chúng ta có thể thấy, trên thực tế, mỗi tác vụ giúp đỡ vật chất tỏ lòng thương xót tha nhân, không chỉ gồm những việc làm mang chiều kích cá nhân nhưng còn có cả những việc làm mang chiều kích xã hội rộng lớn, mà một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu Kitô, sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội.  Trên tất cả, Đấng Cứu Chuộc đầy lòng thương xót của chúng ta là Đấng công minh và là Chúa thật của mọi thụ tạo, chất chứa tất cả các lãnh vực thuộc đời sống con người:  riêng tư, hôn nhân và gia đình, đời sống giáo sĩ, và ngay cả các góc cạnh liên hệ tới đời sống xã hội, kinh tế và chính trị của chúng ta.

                      Chúng ta đừng sợ tìm ý Chúa trong mọi lãnh vực, mà không nhất thiết là phải tích cực dấn thân vào các mối quan hệ chính trị, nhưng ít ra đôi khi chúng ta cũng cần tham gia những cuộc đấu tranh chống lại các hành động xấu trong xã hội, có thể làm suy giảm phẩm giá con người, chẳng hạn như vấn đề kỳ thị, nghèo đói, chuyên chế, hoặc những vi phạm nhân quyền, như phá thai và tình trạng an tử (việc làm cho người sắp chết ngủ mê để khỏi đau đớn trong cơn hấp hối.)

                      Chấp nhận Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thế, thì phải khước từ tất cả những việc làm trái với lòng thương xót và tình yêu cao cả của Người.   

Thứ nhất và thứ hai:  Cho Kẻ Đói Ăn và Cho Kẻ Khát Uống
Với một cái nhìn tổng thể, việc cho người khác thức ăn được kể là khá bình thường và hợp tình hợp lý.  Chúng ta có thể giúp những người nghèo đói bằng những cách thế giản dị:  chẳng hạn như cho tiền qua ngân hàng gây qũi mua thực phẩm tại địa phương, nếu chúng ta có thì giờ, thì có thể phụ giúp trong nhà bếp và phân phát thức ăn cho thành phần vô gia cư.  Ngoài ra, khác với hoàn cảnh của những người Kitô hữu thời sơ khai và trung cổ (lúc mà danh sách các việc làm tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống vật chất của con người thành hình), chúng ta cần tự giáo hóa mình để khám phá ra cảnh đói nghèo trong thế gian, và từ đó chúng ta có thể dùng tiếng nói và quyền đầu phiếu của mình để thỉnh cầu và tạo áp lực với các nhà làm chính trị, tranh đấu, đòi chính quyền đưa kế hoạch xoá đói giảm nghèo trên toàn cầu lên hàng ưu tiên.

Cho Kẻ Khát Uống có thể cũng được thực hiện bằng quyền hạn của mình, với tư cách là những cử tri, trong việc ủng hộ dự án cung cấp nước sạch để các thế hệ tương lai có nước sạch mà uống.  Trong khi ấy, ngay gia đình chúng ta, cũng cần cố gắng giữ nước sạch, chẳng hạn như việc tôn trọng môi trường, đừng để nước thải từ nhà máy công nghiệp chảy bừa bãi, hạn chế dùng nước sạch tưới cây cỏ…

Tại một số địa phương trên thế giới, nhiều người đã làm được một số tác vụ đáng ghi nhận trong việc đem nước sạch đến cho cư dân sống tại các vùng hẻo lánh, vùng sâu vùng xa, đồng chua nước mặn hay quanh năm khô cằn. 

Như chúng ta biết, nhiều quốc gia đang phát triển, khí hậu oi bức, dễ rơi vào tình trạng thiếu nước sạch, gây nên một số bệnh hiểm nghèo như thương hàn.  Quyên góp tiền gây qũi đào giếng hút nước sạch từ lòng đất cho cư dân uống, là việc làm cụ thể và thiết thực tỏ lòng thương xót, thật đáng khích lệ.

Thứ ba và thứ năm:  Cho Kẻ Rách Rưới Ăn Mặc và Cho Khách Đỗ Nhà.
Chúng ta có thể thực hiện các việc tỏ lòng thương xót kia cũng lại bằng lá phiếu bầu cử.   Hành động như vậy cốt là để ủng hộ chính sách của các cơ quan chính quyền địa phương cũng như quốc gia trong việc tạo công ăn việc làm và thiết lập hệ thống an sinh cho người nghèo và kẻ vô gia cư – Không có sự ganh đua qúa đáng trong các việc làm từ thiện giữa các tổ chức hay cá nhân người công giáo; tuy nhiên, tất cả mọi người dân nên nắm vững chính sách nào của chính phủ được coi là ưu tiên để có thể đạt tới các mục tiêu ấn định, nhưng cần quan tâm tới hoàn cảnh của người nghèo mới thực sự đáng đặt lên hàng đầu. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy:  ’’Nỗi thống khổ của con người kéo sự cảm thương của Đức Kitô Cứu Thế… Bởi vậy, những người sống trong cảnh khốn cùng vẫn được Giáo Hội ưu ái đặc biệt’’ (2448).

                      Ngoài ra, còn có những đội chuyên viên đầy tiềm năng trong việc giải quyết vấn đề thiếu nơi trú ngụ.  Ủng hộ công việc của họ cũng luôn là cách thế tốt nhất trong việc thực hành các tác vụ tỏ lòng thương xót.  Thí dụ, Tổ Chức Cung Cấp Nhà Ở Nhân Đạo hay Chương Trình Những Căn Nhà Tình Thương không ngừng đầu tư và tuyển mộ các tình nguyện viên giúp một tay trong việc thiết lập các căn nhà mới cho người nghèo và xấu số.  Nếu thấy các tình nguyện viên hăng say làm việc, chúng ta có thể sẽ dễ nhớ tới một kế hoạch ’’ ươm trẻ’’ ở nhiều địa phương.

                      Một số người thuộc thành phần vô gia cư trong vùng còn rất trẻ - thường là trốn chạy khỏi những tình huống khó khăn trong các gia đình -  hoặc sống trên đường phố rồi sa vào vùng lầy ma túy và hấp thụ nền văn hóa mại dâm.  Nhiều nhóm từ thiện ẩn danh đang hoạt động ở khắp nơi, với mục đích cung cấp thực phẩm, nhà ở và một sự khởi đầu mới cho nhiều người trẻ gặp khó khăn, mặc dù có em chỉ cần một phần trợ giúp tượng trưng để có thể tự đứng lên bằng đôi chân của mình.

                      Như chúng ta đã biết, chính Chúa chúng ta cũng bắt đầu cuộc sống như một cậu bé vô gia cư – sinh ra trong máng cỏ, vì nhà trọ thiếu chỗ trú – và thường xuyên, trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ truyền giáo, Người không có chỗ tựa đầu.  Như thế, chắc chắn là Người phải có một tấm lòng yêu thương những ai đã từng gần gũi và chia sẻ những kinh nghiệm về tình trạng vô gia cư định kỳ với mình.

                      Đối với việc ’’cho kẻ rách rưới ăn mặc,’’ chúng ta có thể mở tủ quần áo, lựa ra một số để tặng cho kẻ nghèo khổ.  Các tiệm bán quần áo với giá hạ tại địa phương có thể làm các nhà hảo tâm hài lòng và sẵn sàng mua tặng những người nghèo khó (vì những tiệm quần áo này thường do các cơ quan từ thiện như Hội Hồng Thập Tự, nhà thương, viện tế bần… quản trị và bán các tặng phẩm do các nhà hảo tâm tặng, lấy tiền sử dụng vào những việc công ích khác.)

                      Cuối cùng, mọi người cần nhớ rằng, mỗi thành viên trong gia đình chúng ta, hằng ngày vẫn lao động cực nhọc để lấy tiền mua thức ăn, nước uống, sắm sửa quần áo và trả tiền nhà cho gia đình riêng của mình, và các thành viên lo việc giặt giũ, nấu cơm, đun nước, lau nhà dọn cửa, thu vén bếp núc trong nhà, chính là đang thực hiện công việc tỏ lòng thương xót lẫn nhau - ít nhất là với cái nhìn khách quan.

                      Nhưng tại sao chúng ta không làm những việc ấy với cả nội tâm, phát xuất từ con tim của mình, không vì miễn cưỡng hay thói quen bình thường, nhưng vì lòng thương xót và yêu thương vợ, chồng, con cái, làm tất cả mọi sự để tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa Cha, Đấng không ngừng ban cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần (xem 1 Corintô 10,31; Côlôsê 3,17), đúng với lối sống giản dị hằng ngày mà thánh Phaolô đã khuyên nhủ là hãy hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, ’’một việc làm xứng hợp thờ phượng Thiên Chúa’’ (Rôma 12,1).

Thứ bốn:      Viếng Kẻ Liệt Cùng Kẻ Tù Rạc
                    Thăm viếng những người ngồi trong tù chắc chắn không có nghĩa là ’’mềm dẻo đối với những kẻ vi phạm hình sự’’.  Một số tội hình sự mà các phạm nhân bị liệt vào thành phần vô cùng khủng khiếp, bị cách ly, dưới hình thức tống họ vào phía đằng sau song sắt một thời gian dài, thậm chí có khi cả đời người, hầu bảo vệ an ninh xã hội hoặc không để cho phạm nhân cơ hội tái gây thêm các tội khủng khiếp khác trong tương lai.  Đối với một số phạm nhân hình sự dữ dội, xã hội tỏ ra không còn một chút lựa chọn nào khác hơn là ’’đẩy họ vào một phòng giam, khóa cửa lại và vứt chìa đi.’’  Phải, vứt chìa khóa đi, nhưng -  thật sự, vẫn để ’’người’’ lại. Hình phạt ngăn chặn và cách ly với mục đích để phạm nhân đền tội, nhưng chính tình thân hữu, thăm viếng và cầu nguyện mới có khả năng cải thiện và chữa lành phạm nhân.

                      Một việc làm tỏ lòng thương xót mà những người Kitô hữu cần làm là nâng đỡ và bảo vệ những kẻ đang bị giam cầm ở trong các trại cải huấn, vì danh Đức Giêsu Kitô, nhận biết họ là những con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

                      Một thí dụ điển hình, Charles Colson, tên cựu chủ mưu trong vụ ’’khủng hoảng’’ Watergate đã trở lại Kitô giáo trong thời gian ngồi tù.  Hiện nay ông đang giữ một vai trò quan trọng trong việc mở mang nước Chúa ngay ở trại giam.  

                      Các tông đồ Thánh Thể thuộc Linh Đạo Lòng Thương Xót lập chương trình viếng thăm tù nhân trong những trại cải huấn địa phương và giúp họ học hiểu Nhật Ký của thánh nữ Faustina, Kinh Thánh và Giáo Lý, nhờ thế họ có thêm kiến thức và yêu mến Chúa.  Tóm lại, người nghèo khổ ngồi ngay ’’trước cửa’’ nhà chúng ta, mà chúng ta giả vờ ’’bước qua’’ (xem Luca 16,19-20), đôi khi, có thể là một tù nhân ’’hàng xóm.’’

                      Việc làm bày tỏ lòng thương xót thứ sáu là: Viếng Kẻ Liệt (bệnh nhân).  Tại Đền Thờ  Lòng Thương Xót ở Bulacan, Phi Luật Tân, có một viện y tế mở cửa mỗi tuần.  Bác sĩ và y tá tài năng ở đây đều làm việc và phát thuốc miễn phí cho các bệnh nhân thật stúng nghèo. Nhiều giáo xứ mà chúng ta biết cũng đang có những hoạt động tương tự.  ’’Viếng Kẻ Liệt’’, một phần, có nghĩa, trước tiên, là an ủi bệnh nhân bằng cách giúp họ những gì thật sự cần thiết: hỗ trợ chính đáng về lãnh vực y khoa.  Nhưng tiếc thay, tại nhiều quốc gia, đa số dân chúng phải ngày đêm âu lo về sức khỏe vì không đủ khả năng mua bảo hiểm y tế.  Một mạng lưới an toàn về y tế dành cho người nghèo vẫn còn là vấn đề nan giải, dẫn đến bế tắc.

                      Đương nhiên, có một số người đang bị ’’bệnh’’, nhưng không do bệnh tật gây nên, mà là do phải sống trong tình trạng cô đơn giữa một xã hội vô cùng náo động. Đến đây, chúng ta có thể liên tưởng ngay tới những ông già bà lão hiện đang sống trong một căn nhà hoặc viện tế bần hay trung tâm dưỡng lão nào đó, xa cách những người thân yêu của mình.

                      ’’Viếng Kẻ Liệt’’ trong thế giới chúng ta còn có nghĩa là đến với những người thiếu tình thân hữu, hiện đang trú ngụ tại các nhà điều dưỡng địa phương rất gần với mình: những người ’’bệnh tật trong tâm hồn’’ , vì phải sống trong đơn độc và quên lãng, những người thường bị tước đoạt ’’tình thân hữu’’-  một nhu cầu thiết yếu của con người.

                      Việc làm tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống vật chất tương đối dễ thực hiện, bởi vì tác vụ này không cần có kiến thức sâu rộng, hoặc phải có chứng chỉ tốt nghiệp khoa kinh tế hay chính trị.  Những người cao niên đang sống trong cảnh cô đơn không ở xa chúng ta.  Họ thường  sống gần gũi, bên cạnh hoặc ở chung quanh chúng ta, có khi họ chính là những thành viên thuộc giáo xứ chúng ta.  Nếu tổ chức những bữa ăn xoay ’’lượt’’ từ nhà này sang nhà khác, từ xóm này sang xóm kia, chắc chắn chúng ta sẽ tìm gặp được với họ. 

                      Cha xứ có thể giúp chúng ta tìm đến với những người cần được thăm hỏi trong giáo xứ.  Chúng ta đừng quên rằng trong số những người nên được thăm hỏi có thể là các thành viên trong gia đình hoặc họ hàng thân thích của mình, đã từng bị coi thường hoặc quên lãng.  Viếng thăm những người cao niên không thể đi lại được và những người mắc bệnh nan y hoặc mãn tính thì thường không dễ, nhưng cố gắng, nếu có thể, chúng ta viếng thăm họ theo định kỳ, vào những thời điểm thuận tiện, vì cuộc sống còn lại của họ ít hy vọng kéo dài được lâu.  Những người như vậy thường sống trong cảnh nghèo khổ, thiếu thốn mọi bề, có khi phát sinh mùi hôi thối, khiến lúc nào cũng tỏ ra bực dọc, khó chịu, vì đau đớn triền miên.  Nhưng nếu chúng ta thường xuyên viếng thăm, gần gũi và ngỏ ý làm thân, muốn là một người bạn với họ và sẵn sàng nghe họ nói, thì đối với họ thật sự có ý nghĩa hơn chúng ta tưởng rất nhiều, nhờ thế chúng ta có thể phát hiện từ nơi họ một món qùa qúi họ dành cho chúng ta:  món quà lòng thương xót đang triển nở. 

Thứ bảy:  Chôn Xác Kẻ Chết
                      Chúng ta có thể đoan chắc rằng, những người thân yêu và bạn bè của mình sẽ có một nghi lễ an táng thích đáng.  Nhưng chúng ta cũng có thể nhận biết được các nhu cầu khẩn thiết của những người đang trong tình cảnh đau buồn:  đó là cố gắng ’’chôn người chết của họ’’ trong cảnh đau buồn .  Đau buồn có thể là một tiến trình kéo dài trong gian nan, là nước mắt rơi trong lễ tang và khó có thể dừng lại ngay tại đó.

                      Chúng ta cần thực sự giúp đỡ nhau chôn cất những người thân yêu đã mất để họ ra đi bình an, phó thác họ trong bàn tay nhân hậu của Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế.  Đó là tình bạn - một tình bạn kiên dũng không ngừng viếng thăm tang quyến, tiếp tục giúp họ lau khô những giọt lệ tuôn trào, không kể tiến trình đau buồn kéo dài trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.  Đó là một việc làm bày tỏ lòng thương xót thật đáng ghi nhận:  giúp nhau ’’chôn xác kẻ chết’’ với tràn đầy cảm xúc, cuối cùng phó thác họ nơi Trái Tim vô cùng thương xót của Đấng Cứu Thế.

                      Vấn đề này nói lên sức mạnh phi thường nơi truyền thống công giáo trong thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn.  Vì thế, không gì qúi hơn là chúng ta mau mắn liên lạc với linh mục chánh xứ để sắp xếp lễ an táng cho người thân yêu, bạn hữu của mình, để tiễn biệt họ ra đi.

                      Tại một số địa danh, có nhiều tổ chức chuyên cầu nguyện cho người qúa cố, đặc biệt là cho những người đã bị quên lãng từ lâu, những người là nạn nhân bệnh AID và những chiến binh bỏ mình trên chiến trường. Ngoài ra, cũng có vài ba tổ chức khác chuyên lo ’’chôn xác kẻ chết’’ với một niềm tin vững vàng vào Lời Chúa đã hứa là sẽ ban Sự Sống Đời Sau cho con người.

                      Nếu có cơ hội, chúng ta nên vận động cho nhiều người tham gia các tổ chức liên hệ, vì lợi ích thiêng liêng của nhiều linh hồn.  Khi đến với Phép Thánh Thể, chúng ta thực sự gần gũi người tín hữu đã ra đi hơn bao giờ hết.  Sau cùng, dù ở trong luyện tội hoặc trên thiên đàng, họ lại càng gần sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Đấng duy nhất luôn ở sát cạnh chúng ta tại trần gian này trong Bí Tích Thánh Thể.   

                      ’’Rước Thánh Thể’’ là ở với Đức Kitô, là cùng kết hợp trên cùng một con đường huyền nhiệm ’’Hiệp Thông với Các Thánh’’ khi còn ở trần gian cũng như trong cuộc đời mai hậu.  Vì thế, chúng ta có thể Rước Thánh Thể mỗi khi cầu nguyện cho những người thân yêu đã ra đi, và đề nghị các anh chị em tín hữu khác cũng làm như vậy.

                      Ở điểm này, sau khi thông qua tất cả phần ’’thương xác bảy mối’’, nhiều đọc giả sẽ nghĩ, ’’dường như đây chỉ là những lời tạo cảm hứng, chứ thực tế, thì làm sao tôi có thể thực hiện được? Riêng tôi đã có sẵn những trách nhiệm và nhiều gánh nặng đè trên vai rồi; tôi không còn khả năng đón nhận thêm bất cứ gánh nặng nào khác nữa.  Tôi không có thể làm được những điều bất cứ ai đề nghị đâu!’’  Dĩ nhiên bạn không thể, và không ai ép bạn phải thực hiện tất cả mọi điều.  Chỉ cần bạn làm hai hoặc ba điều, nếu bạn có cơ hội.

                      Tuy nhiên, để có thể tự minh chứng mình là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu Kitô, tức là tự biến mình thành khí cụ thương xót, mỗi khi Chúa kêu gọi chúng ta làm bất cứ điều gì cho Người.  Điều ấy có thể là chúng ta sẵn sàng mở to đôi mắt, trái tim để phục vụ các con cái Người.  Đó là bổn phận của chúng ta!  Ngay cả đối với những ai, vì hoàn cảnh, không thực hiện được các điều mình mong muốn, họ vẫn có thể cầu nguyện cho những người đang dấn thân thi hành các tác vụ bày tỏ lòng thương xót.

                      Bất cứ dưới hình thức nào: Lời nói hoặc việc làm cụ thể hay cầu nguyện đều là những hành động cơ bản biểu lộ lòng thương xót.

Những Câu Hỏi Để Thảo Luận
1.-  Bạn có phương cách nào mới để thực hiện một trong những tác vụ tỏ lòng thương xót liên quan đến đời sống vật chất trên bình diện cá nhân không?
2.-  Bạn có phương cách nào mới để thực hiện một trong số những tác vụ tỏ lòng thương xót liên quan đến đời sống vật chất trên bình diện xã hội hoặc chính trị rộng lớn hơn không?
3.-  Người ta thường nói làm việc tỏ lòng thương xót liên quan tới đời sống vật chất thật đáng tưởng thưởng.  Bạn nghĩ sao về lời nói của những người này?


Cầu Nguyện Để Có Lòng Thương Xót Đối Với Tha Nhân
(trích nhật ký, câu đoạn 163, của thánh nữ Faustina Kowalska):

                      Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh!  Bao lần con thở, bao lần tim con đập, bao lần máu trong thân xác con vận chuyển, thì vạn ngàn lần con muốn tôn vinh lòng thương xót của Chúa.
                      Lạy Chúa, con muốn được hoàn toàn tan hòa vào lòng thương xót của Chúa và trở nên vật thể phản ánh sống động của Chúa.  Xin cho tất cả những biểu tượng lòng thương xót vĩ đại nhất nơi Chúa thông qua tâm hồn và trí khôn con để từ đó tuôn chảy đến người thân cận của con.
                      Lạy Chúa, xin giúp cho đôi mắt con biết thương xót, hầu con đừng bao giờ nghi ngờ hoặc phán xét qua những nét bề ngoài, nhưng tìm kiếm vẻ đẹp nơi tâm hồn tha nhân và đến giải cứu họ.
                      Lạy Chúa, xin giúp cho tai con biết thương xót, hầu con sẵn sàng lắng nghe các nhu cầu của tha nhân và không thờ ơ trước những nỗi đau và nghẹn ngào của họ.
                      Lạy Chúa, xin cho lưỡi con biết thương xót, để đừng bao giờ nói lời tiêu cực về người thân cận, nhưng dùng lời an ủi và tha thứ trong tất cả mọi tình huống.

                      Lạy Chúa, xin cho con đôi tay biết thương xót và cầm giữ các điều tốt lành, hầu con chỉ thực thi những gì hữu ích cho tha nhân, nhưng tự đảm nhận các trách vụ khó khăn và nặng nhọc hơn.
                      Lạy Chúa, xin ban cho con đôi chân biết thương xót, để con mau mắn chạy tới trợ giúp người thân cận của con, khắc phục mọi nhọc nhằn và mệt mỏi cho riêng mình.  Sự nghỉ ngơi đích thực của con chính là phục vụ người thân cận của con.
                      Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim biết thương xót, để con tự chịu đựng mọi nỗi đau khổ của người thân cận của con.  Trái tim con  không từ khước bất cứ một ai, và sẽ hết lòng đối xử tử tế, thậm chí với cả những kẻ lợi dụng lòng tốt của con.
                      Và con sẽ khóa chặt đời con trong Trái Tim đầy lòng Thương Xót của Đức Giêsu.  Con sẽ chịu đau khổ của riêng mình trong thinh lặng. Lạy Chúa, xin lòng thương xót của Chúa ngự trong con.
                      Lạy Chúa, xin dạy con quyết chí hoàn tất ba đặc điểm bày tỏ lòng thương xót:  thứ nhất: việc làm tỏ lòng thương xót, không kể đó là việc gì. thứ hai: lời nói tỏ lòng thương xót - nếu con không thực hiện được một việc làm tỏ lòng thương xót, con sẽ dùng lời nói để hỗ trợ và cổ võ.  Thứ ba:  cầu nguyện - nếu con không thể tỏ lòng thương xót bằng hành động cũng như lời nói, thì con có thể sẽ luôn thay thế bằng cầu nguyện.  Lời cầu nguyện của con trải dài, thậm chí cả đến nơi mà con không thể tự có mặt ở đó.
                      Ôi! Lạy Chúa Giêsu, xin biến dạng con trong Chúa, để con có thể làm được tất cả mọi sự.