THÁNH NỮ
MARIA FAUSTINA KOWALSKA
Nhân
Chúa Nhật thứ hai sau Chúa Nhật Phục Sinh
Kính
Lòng Thương Xót của Chúa
* Chữ nghiêng là trích từ nhật ký của nữ tu Faustina
Chữ nghiêng đậm là lời Chúa nói với Faustina
Số trong ngoặc (...) ghi trong nhật ký của Faustina
- theo bản dịch tiếng Anh -
* Chữ nghiêng là trích từ nhật ký của nữ tu Faustina
Chữ nghiêng đậm là lời Chúa nói với Faustina
Số trong ngoặc (...) ghi trong nhật ký của Faustina
- theo bản dịch tiếng Anh -
***********
Nhật Ký của Nữ Tu Faustina
Nhật ký của nữ tu Faustina với chủ đề ’’Lòng Thương Xót của Chúa trong Linh Hồn tôi’’
(Divine Mercy in my Soul) * đang nằm trước mặt tôi. Cuốn nhật ký thực sự đã đeo đẳng tôi từ nhiều
năm qua và cũng là tác phẩm khiến tôi đọc để trau dồi đời sống tâm linh. Dường như rất ít người Việt Nam biết Nữ Tu
Faustina, và chẳng mấy người đã đọc toàn bộ nhật ký của Nữ Tu, mặc dù Nhật Ký đã
được dịch ra trên 11 thứ tiếng khác nhau, mà hầu hết là các ngôn ngữ chính tại
Âu Châu, nhưng cũng có cả tiếng Ả Rập và tiếng Nga. Nhật ký đa phần chỉ viết
theo thứ tự thời gian, chứ không phải mọi chỗ Faustina đều ghi rõ ngày tháng.
Nhật ký chủ yếu là một cuộc đàm đạo giữa Faustina và Đức
Giêsu, nhưng cũng với cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người ta cho rằng chị
đang trải nghiệm một cuộc sống đầy cảm hứng giữa đức tin và thế giới thần
linh. Chị đã có một cuộc sống thần bí trong và với Thiên Chúa. Nhưng Đức
Giêsu cũng đã kêu gọi chị trở nên một sứ giả loan báo lòng thương xót vô tận của
Thiên Chúa, để mọi người có thể tìm được chỗ ẩn náu nơi lòng thương xót này
trong bất cứ trường hợp và đặc biệt nhất là vào ngày lễ kính Lòng Thương Xót diễn
ra vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục Sinh.
Một tiêu chuẩn quan trọng là khi phải thẩm định về một điều
gì đến từ Thiên Chúa, hoặc ngược lại, chúng ta có thể cảm nhận được rằng chính
Thiên Chúa - qua lời văn của Faustina - đích thân nói với trái tim kẻ là chủ thể
điều ấy. Ngược lại, việc đánh giá kia sẽ
luôn chỉ với tính cách cá nhân và chủ quan. Về phía tôi, tôi không thể để nhật ký này xa rời
tôi, bởi vì nó nói cho tôi biết một cái điều rất hệ trọng trong mọi thời điểm.
Thật tình, tôi cảm thấy không đủ khả
năng để truyền đạt điều ấy dưới hình thức một bài viết. Vì vậy tôi chỉ muốn giới thiệu với đọc giả Việt
Nam một nhân vật có đời sống tâm linh khác thường trong thời đại của chúng ta.
Đời Sống Nữ Tu Faustina
Faustina Kowalska là ai?
Chỉ đọc đến cái tên người ta đã có thể biết tông tích của chị là người
Ba Lan. Chị sinh ngày 25 tháng 8 năm
1905 tại miền quê nghèo nàn Glogowiec, nhưng cha mẹ đạo đức, là thứ ba trong
gia đình gồm 10 người con. Khi chịu phép Rửa tội chị được đặt tên là
Helen. Khi Rước Thánh Thể lần đầu tiên là
lúc chị lên 9 tuổi (lần đầu tiên bước lên bàn thờ), và đã cảm nhận được sự hiện
diện của Đức Kitô trong linh hồn của mình. Ngay từ khi còn nhỏ chị đã biết cầu
nguyện, làm việc và vâng lời, cũng như đồng cảm với người nghèo khổ. Một cuộc sống
tâm linh như vậy ở tuổi thơ ngây cũng đã từng xuất hiện nơi một số nhà thần bí
khác, mà qua những cuộc nghiên cứu đặc biệt, nhất là ở những người có đời sống
thực sự khó khăn, thường là những cá nhân có tương quan mật thiết với Thiên
Chúa rất sóm? Người ta cho rằng đời sống
gia đình ảnh hưởng rất lớn đối với việc này, nhưng như thế chưa đủ, mặc dù đó
là điều quan trọng. Nếu đời sống đức tin
của một em bé mang đặc thù và cụ thể, thì đời sống đức tin ấy là một ân sủng đặc
biệt đến từ Thiên Chúa, một thách đố mà con người không thể giải thích được,
nhưng là một mầu nhiệm riêng của cá nhân được sống trong Thiên Chúa.
Helen chỉ được cắp sách đến trường trong ba năm. Sau khi đã tròn 16 tuổi, chị rời nhà trẻ và đến
cư ngụ tại nhiều nơi khác nhau để tự lo cho mình và giúp đỡ song thân. Lúc còn
là một cô gái trẻ, chị ước ao gia nhập tu hội, nhưng cha mẹ không cho
phép. Tuy nhiên, sau một thị kiến đã
nhìn thấy Đức Kitô chịu thương khó, ngày 1 tháng 8 năm 1925 chị xin gia nhập
Dòng Các Nữ Tu Đức Trinh Nữ Rất Thánh, Mẹ của Lòng Thương Xót, lúc 20 tuổi, và lấy
tên là nữ tu Maria Faustina. Chị sống 13
năm trong tụ hội này, nhưng được di chuyển tới nhiều cộng đoàn khác nhau tại
Krakow, Plock và Vilnius. Chị đảm nhận các
tác vụ như nhân viên nhà bếp, coi vườn và gác cổng. Chị không tách biệt ra khỏi các sinh hoạt của
các chị em đồng tu. Cuộc sống bên ngoài của chị chẳng có gì là đặc biệt,
nhưng nội tâm chị rất phong phú, bằng một sự kết hợp khác thường với Thiên
Chúa, như đã tiết lộ cho chúng ta biết trong Nhật Ký của chị.
Nữ tu Faustina
bị bệnh lao phổi ở tuổi còn trẻ. Chị cực
kỳ sợ hãi, nhưng chấp nhận đau khổ để hiệp thông với sự thương khó của Đức
Giêsu như một sự tự nguyện hy sinh để cầu xin cho các tội nhân trở về. Chị tạ thế ngày 5 tháng 10 năm 1939 tại
Krakow, 33 tuổi.
Màu nhiệm bất
thường này cũng là một loại cổ điển theo truyền thống công giáo và cần được
Faustina giãi bày thêm bằng chính ngôn từ của mình. Cuộc sống riêng của chị, bệnh tật và sự chết
là cách thể hiện chính xác đời sống tinh thần của chị vậy. Đời sống của chị thăng hoa là nhờ những ân sủng
tuyệt vời: Ơn mặc khải, dấu thánh ân, đồng
chịu đau khổ với Đức Kitô, cùng lúc có mặt ở hai nơi, hiểu biết sâu xa linh hồn
con người – ơn hiểu biết, ơn nói tiên tri, và nhất là ơn bí nhiệm trong sự kết
hợp chặt chẽ với Đức Kitô như một người phối ngẫu thiêng liêng. Thiên Chúa, Trinh Nữ Maria, các thiên thần và
các thánh cũng như những kẻ đã chết hiện đang ở trong Luyện Ngục là những thực
thể có thể tiếp cận và am hiểu chị như ở trần gian.
Liên quan tới lãnh vực này, nữ tu Faustina đã viết trong
Nhật Ký của mình như sau: ‘’Hôm nay, trong suy niệm, Thiên Chúa cho
tôi một sự soi dẫn nội tâm và một sự hiểu biết, thế nào là sự thánh thiện, và
trong đó chứa đựng những gì. Mặc dù, tôi
đã nhiều lần nghe thuyết giảng về các điều này, nhưng khi tìm hiểu chúng dưới
ánh sáng soi dẫn của Thiên Chúa, thì linh hồn lại hiểu theo một đường hướng
khác. Các ân sủng, các mặc khải hay các cuộc xuất thần đã ban xuống cho linh hồn
cũng không làm cho linh hồn nên toàn thiện, nhưng điều duy nhất là linh hồn phải
kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Các ân huệ này chỉ là những vật trang trí cho
linh hồn, nhưng không tạo thành bản thể cũng như sự toàn thiện cho linh hồn. Sự thánh thiện và toàn hảo nơi tôi là do sự kết
hợp chặt chẽ giữa ý tôi và ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ vi phạm ý chí tự do của chúng ta. Chúng ta hoàn
toàn được tự do đón nhận ân huệ của Thiên Chúa hay không. Chúng ta hoàn toàn được tự do muốn hợp tác
hay dẹp bỏ ân huệ.’’ (1107). Một người
có thể nói được như vậy là do cảm nhận tinh thần của mình, nhưng cũng nhờ sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần. Đoạn văn
trên biểu hiện sự thật và sự khôn ngoan sâu sắc, không xuất phát từ một người hoàn
toàn trần tục. Faustina tự mô tả sự khác biệt giữa kiến thức do bản tính nhân
loại và sự hiểu biết do Thiên Chúa ban xuống. Chị còn phân định cách đơn giản và rõ rệt
giữa điều mà chúng ta gọi là cuộc sống ‘’bởi ơn trời’’, nghĩa là một cuộc sống
mà các ân sủng thần thiêng trở nên có hiệu năng, và cuộc sống huyền bí, nghĩa
là có sự tương quan tình yêu sâu đậm với Thiên Chúa. Tất cả đều gắn kết với nhau, nhưng không trở
thành duy nhất. Ở đây, chúng ta đang tọa lạc trên mảnh đất cổ điển nơi truyền
thống tâm linh của Giáo Hội.
Nữ Tu Faustina và Các Vị Linh Hướng Của Chị
Nữ tu Faustina cảm thấy thật sự bất an vì tất cả những gì
đang diễn ra trong linh hồn mình. Mỗi
khi kể cho các cha giải tội khác nhau nghe về vấn đề ấy, thì chị đều cảm thấy
lúng túng vì không được hiểu rõ, nên muốn chạy trốn tất cả mọi thứ. Chị viết trong nhật ký của mình rằng: ‘’Mỗi
khi tôi cố ý chạy trốn khỏi những linh cảm nội tâm thì Thiên Chúa lại nói với
tôi rằng, vào ngày phán xét, Người sẽ đòi hỏi nơi một số lớn các linh hồn thuộc phần vụ của tôi’’ (52). Nghĩa
là, nếu chị không đón nhận lời mà Thiên Chúa đã kêu gọi chị, thì chị trở thành
người mang trách nhiệm đối với ơn cứu rỗi của những người khác. Từ đó có thể
suy ra rằng mọi người cần suy nghĩ kỹ về lời cảnh giác mà Thiên Chúa đã truyền
cho ngôn sứ Êdêkiel (33,1-9).
Chị quyết định tìm gặp cha Andrasz, Dòng Tên, trước khi
tham dự lễ khấn trọn đời, và xin ngài loại trừ cho chị tất cả mọi linh ứng nội
tâm. Chị viết: ‘’Sau
khi nghe tôi xưng tội xong, cha Andrasz trả lời tôi rằng: ‘Thưa nữ tu, tôi
không muốn loại trừ nơi chị bất cứ điều gì; nếu chị quay mặt đi trước tất cả
các nguồn cảm hứng nội tại thì không đúng, nhưng chị phải nhất quyết – tôi nói nhất
quyết – kể cho cha giải tội của chị biết tất cả những sự kiện này; nếu không chị
sẽ lạc hướng, mặc dù chị có những ân huệ to lớn mà chị nhận được từ Thiên
Chúa. Bây giờ chị đến với tôi để xưng tội,
nhưng chị nên hiểu rằng, chị cần phải có một cha giải tội cố định, tức là một vị
linh hướng’’ (52.53). Lời hướng dẫn rõ ràng này, như một huấn lệnh, khiến
Faustina quýnh lên, chị tự viết ra (53).
Chị chẳng có một cha giải tội cố định, để có thể giãi bầy những điều
liên quan tới đời sống tâm linh của mình, ‘’và
điều này làm cho tôi khổ tâm không kể sao cho xiết. Vì thế, tôi đã kêu cầu Đức
Giêsu ban những ân sủng cho một vị khác, bởi vì tôi không biết tôi phải sử dụng
các ngài ra sao, trái lại có thể chỉ làm phiền các ngài mà thôi… Nhưng Đức
Giêsu là Đấng luôn nhân từ; Người hứa với tôi là Người sẽ giúp tôi một việc cụ
thể trên trái đất này, và chẳng bao lâu sau tôi đã có được một nhân vật tại
Vilnius, từ cá nhân cha Sopockos. Tôi đã
biết cha qua một thị kiến nội tâm, trước khi cha đến Vilnius. Một ngày kia, tôi
nhìn thấy cha (trong một thị kiến) tại nhà nguyện của chúng tôi, giữa bàn thờ
và tòa cáo giải, và bỗng dưng, tôi nghe một tiếng từ trong trái tim tôi nói: ‘Đây là một việc giúp đỡ con cách cụ thể và
hữu hình trên trái đất này. Ngài sẽ giúp
con thể hiện ý Ta tại trần gian’ (53).
Một ngày kia, chị than phiền với Đức Giêsu là cấp trên của
chị nói rằng, tất cả những gì chị cảm nhận được trong lãnh vực tâm linh chỉ là
tưởng tượng và hão huyền ảo. Là một linh mục
Dòng Tên tốt lành, Cha Andrasz cho chị ba lời khuyên, gồm các quy tắc có thể thẩm
định điều thuộc về vấn đề tâm linh: 1.)
Đừng loại bỏ các linh ứng nội tâm, nhưng đem trình bày với cha giải tội của
mình. Nếu các điều linh ứng tạo điều tốt
cho linh hồn cá nhân liên hệ hoặc các linh hồn khác, thì nên lưu tâm thật kỹ
trong mọi trường hợp, nhưng luôn luôn phải tham khảo ý kiến với cha giải tội của
cá nhân liên hệ. 2.) Nếu các điều linh ứng không phù hợp với đức
tin và tinh thần của Giáo Hội, thì cần loại trừ ngay, vì chúng đến từ ác thần. 3.) Nếu
các điều linh ứng, thường không liên hệ tới các linh hồn hoặc không tạo lợi ích
cho các linh hồn, thì đừng qúa quan tâm tới chúng, hay thậm chí là hãy phớt lờ
chúng đi. Nhưng để tránh sai lầm, đừng
bao giờ đơn phương quyết định việc ấy, nhưng cần có lòng khiêm nhường, khiêm
nhường và thực sự khiêm nhường, vì với chỉ cá nhân mình, chúng ta chẳng làm được
gì; tất cả là do hồng ân Thiên Chúa.
Để kết thúc, ngài nói với chị rằng:
‘’Những điều ấy nói cho tôi biết,
Thiên Chúa đòi các linh hồn phải có lòng tin vững mạnh; rất tốt, chị hãy là người
đầu tiên bày tỏ một lòng tin như vậy. Và
thêm một lời nữa – là hãy chấp nhận tất cả những điều này với một tâm hồn thanh
thản. (55). Hai vị linh mục nêu ở
đây đã đến và đóng một vai trò quyết định lớn trong đời sống tu đức của nữ tu
Faustina, bởi vì các ngài hiểu rõ tâm linh của chị. Chị viết:
‘’Có một điều lạ là các cha giải tội
không hiểu tôi cũng như không cho tôi sự an lòng trong những vấn đề này (các
cảm nghiệm về tâm linh), trước khi tôi gặp
được Cha Andrasz và sau này nữa là Cha Sopocko’’ (111).
Faustina có một kinh nghiệm đơn giản và rõ ràng (thường
là những kinh nghiệm tiêu cực) với các cha giải tội. Thành phần đầu tiên là những cha giải tội hiểu
biết qúa ít về các sụ kiện liên quan tới đời sống tâm linh. Những linh mục này gây nhiều đau khổ và xáo
trộn cho một linh hồn: ‘’Một vấn đề rất quan trọng mà tôi đã từng trải
nghiệm. Tôi bắt đầu tự cảm thấy giao động;
mặc dù là những đặc ân đến từ Thiên Chúa, và mặc dù Thiên Chúa tự ban cho tôi sự
bảo đảm, nhưng tôi vẫn luôn muốn được Giáo Hội thừa nhận’’ (112). Nhận xét cuối cùng cũng rất đặc trưng đối với
một đời sống tâm linh lành mạnh: là đừng
bao giờ tin vào phán đoán riêng của mình.
Vấn đề ở đây có liên hệ tới nhu cầu tâm linh sâu sắc và đích thực của nữ
tu Faustina qua những nhận xét khách quan.
Nói chung, vị linh hướng giữ một vai trò chính trong đời sống của các
nhà thần bí.
Thành phần thứ
hai là những cha giải tôi không tạo cơ hội cho các hối nhân của mình cởi mở bày
tỏ tâm hồn, lại còn tỏ ra thiếu kiên nhẫn.
Các ngài bịt miệng các hối nhân.
Faustina ví một cha giải tội như một vị lương y, sẵn sàng lắng nghe lời
bệnh nhân nói để có thể chữa trị cách thật chính xác. Loại cha giải tội như vậy
có thể gây thiệt hại cho hối nhân bằng những lời khuyên bảo sai lầm.
Thành phần thứ
ba là những cha giải tội bỏ qua những vấn đề nhỏ nhặt. ‘’Chẳng có gì gọi là nhỏ nhặt trong đời sống tâm linh. Đôi khi một vấn đề dường như không đáng kể thế
mà khi mở ra thì những hậu qủa lại lớn, khiến cha giải tội cảm thấy như được
soi sáng, giúp ngài hiểu linh hồn ấy. Nhiều việc làm liên quan tới đời sống tâm linh
bị những vấn đề nhỏ mọn che phủ. Một tòa nhà tráng lệ không bao giờ đứng vững,
nếu chúng ta loại ra những viên gạch
không đáng kể.’’ Tôi muốn trích dẫn
phần còn lại trong văn bản của chị để chứng minh về sự khôn ngoan khác thường
nơi một nữ tu qúa non trẻ này: ‘’Thiên Chúa đòi hỏi sự trinh trắng tuyệt vời
nơi các linh hồn nào đó, và vì thế Người ban cho họ một sự khôn ngoan sâu sắc
hơn để nhận biết về sự yếu mềm của mình.
Sự soi dẫn từ trời cao có thể giúp linh hồn biết rõ, điều gì làm đẹp
lòng Thiên Chúa, và điều gì không nên làm.
Tội lỗi tùy thuộc vào mức độ hiểu biết và ánh sáng soi dẫn trong tâm hồn.’’
Faustina trình bày rõ ràng và chính
xác về một nguyên tắc quan trọng liên hệ tới các sai lầm mang tính cách chủ
quan. Nhờ thế chúng ta biết điều gì gọi là tội, và nhờ thế chúng ta biết được
khi nào chúng ta phạm tôi, nếu chúng ta làm điều ấy. Faustina viết tiếp: ‘’Lại
cũng liên hệ tới điều được coi là không hoàn hảo. Mặc dù linh hồn biết là chỉ kẻ
phạm tội mới hiểu rõ ý nghĩa đích thực trong lời thú tội của mình nơi tòa cáo
giải, như thế rõ ràng là những điều nhỏ nhặt mang một ý nghĩa trọng đại đối với
một linh hồn cố gắng trở nên thánh thiện, do đó cha giải tội không nên coi nhẹ
mọi chi tiết. Sự nhẫn nại và lòng nhân từ của cha giải tội mở ra một con đường
cho những bí ẩn thật sự sâu kín của linh hồn.
Linh hồn bộc lộ, mặc dù có thể là vô thức, không sao đo dò được, hoặc
như thế sẽ cảm thấy dũng mãnh và bền bỉ hơn, có dồi dào khả năng chiến đấu và tận
lực làm cho mọi việc trở nên tốt hơn, vì linh hồn biết rằng sẽ phải trả lẽ về
những sự kiện này.’’ (112).
Nữ tu Faustinà
hướng tới linh hồn cố gắng trở nên thánh thiện và muốn hưởng ơn Sám Hối. Lời khuyên của chị được tóm lược trong ba điều
sau: 1.) tuyệt đối trung thực và cởi mở,
2.) khiêm nhường và 3.) vâng lời. Chị nói một cách thẳng thắn rằng: ‘’Một
linh hồn không vâng lời chẳng chiếm tìm được sự khắc phục, mặc dù chính Đức Giêsu
hiện diện trong cá nhân lắng nghe lời thú tội.’’ (113). Các suy tư ấy phát
sinh từ kinh nghiệm khó kiếm và đau đớn của riêng chị, nhưng cũng là nhận xét của
một người được Thiên Chúa ban ơn giáng phúc trong đời sống tâm linh. Mỗi cha giải
tội hoặc vị linh hướng sẽ tìm được lợi
ích lớn lao nhờ chú ý nghe lời của Faustina.
Linh Hồn Gắn Kết Với Thiên Chúa
Ở đây, tôi muốn nêu lên vài thí dụ điển hình việc nữ tu
Faustina nói về trải nghiệm tâm linh của mình với Thiên Chúa.
Ngày 5 tháng 8 năm 1935, nhân ngày lễ kính Đức Trinh Nữ Mẹ
của Lòng Thương Xót, một lễ đặc biệt đối với Dòng của chị, Đức Trinh Nữ Maria đã
hiện ra với chị, giữ chị bên mình và nói:
‘’Ta là mẹ của các con do lòng
thương xót khôn dò của Thiên Chúa. Linh hồn làm đẹp lòng Ta nhất chính là linh
hồn thể hiện ý Thiên Chúa.’’ Faustina
hiểu, với những lời kia, Đức Maria có ý cho chị biết rằng chị đã trung thành thể
hiện ý Chúa, đó là tiếng mời gọi đặc biệt, chị đã đón nhận từ Người. Đức Trinh Nữ Maria nói tiếp: ‘’Dũng cảm
lên. Đừng sợ những cản trở, nhưng hãy
chiêm ngắm cuộc khổ hình của Con Ta, và nhờ thế con sẽ chiến thắng.’’ (449). Faustina thực sự gặp nhiều chống đối về việc
mà Thiên Chúa đã yêu cầu chị làm, đó là việc thực thi loan báo Sứ Điệp Lòng
Thương Xót của Chúa cho toàn thể Giáo Hội và thế giới. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.
Vào một ngày kia, sau khi tiến lên bàn thờ, Faustina viết: ‘’Tôi
nghe thấy những lời này: Con là nơi cư ngụ của Chúng Ta. Cùng lúc, tôi cảm thấy sự hiện diện của Ba
Ngôi Rất Thánh trong linh hồn tôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tôi cảm thấy rằng tôi là đền thờ của Thiên
Chúa. Tôi cảm thấy rằng tôi là con của
Chúa Cha. Tôi không thể mô tả đầy đủ ở
đây được, nhưng hồn tôi hiểu biết tất cả.
Ôi, lòng nhân ái vô biên đã uốn mình nhìn sâu xuống loài thụ tạo nhỏ bé
của Người.’’ (451).
Ngày 4 tháng 4 năm 1937, Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục
Sinh, nghĩa là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa (thời điểm chưa được Giáo
Hội chính thức thừa nhận), Fasutina viết:
‘’Sáng nay sau khi rước Thánh Thể,
linh hồn tôi chìm ngập trong Ơn Thánh.
Tôi được kết hợp với ba ngôi vị thánh dưới một hình thức như thế này,
khi tôi liên hợp với Đức Giêsu, thì cùng lúc tôi liên hợp với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần. Linh hồn tôi được tràn ngập niềm
vui, vượt lên trên tất cả mọi hiểu biết, và Chúa đã cho tôi trải nghiệm đại
dương lòng thương xót khôn dò của Người. Ôi! chỉ các linh hồn mới hiểu biết được
Chúa yêu thương họ dường bao! … Khi tôi
kết hợp với Chúa thì tôi có thể nhận biết là có bao nhiêu linh hồn dâng lời tôn
vinh lòng thương xót của Thiên Chúa’’ (10739).
Cùng ngày, trong lúc chầu trước Thánh Thể, Đức Giêsu nói
với chị: ‘’Hỡi con, hãy nói với toàn dân rằng, chính Ta là Tình Yêu và Lòng
Thương Xót. Khi một linh hồn đến gần Ta
với lòng tin cậy, thì Ta sẽ ban cho linh hồn ấy được tràn đầy ân sủng, nhưng
không chỉ giữ lại trong linh hồn ấy, mà còn lan tỏa đến các linh hồn khác nữa.’’
(1074).
Vị Trí Xáo Trộn Trong Cuộc Sống Nữ Tu Faustina
Nữ tu Faustina mô tả theo thể cách cụ thể và thực tế mà
linh hồn phải chiến đấu với bóng tối hãi hùng và Satan. Sau đây là vài ba đoạn do chính chị trình
bày. Chị đề cập tới ba giai đoạn thử
thách tiếp nối nhau diễn ra: 1.) Trải nghiệm sự thánh thiện, sự công chính và sự
tốt lành mà Thiên Chúa tuôn đổ xuống, đến nỗi linh hồn không thể chịu đựng nổi.
2.) Thiên Chúa cố tình ẩn dấu mình trước
linh hồn, để linh hồn không có khả năng nhận biết tội lỗi và sự thiếu hoàn hảo
của mình; như thế, linh hồn không còn cầu nguyện như trước nữa. 3.) Bóng tối
tuyệt vọng:
‘’Linh hồn chìm ngập
trong một đêm kinh hoàng. Linh hồn chỉ
còn thấy tội lỗi nơi mình. Linh hồn cảm
thấy rất sợ hãi. Linh hồn nhận biết mình
đã bị Thiên Chúa bỏ rơi. Linh hồn cảm thấy
như một đối tượng hận thù của Thiên Chúa. Đó chỉ là một bước không xa với tuyệt
vọng. Linh hồn hết sức cố gắng để tự bảo vệ mình; linh hồn cố gắng bày tỏ niềm
tin; nhưng cầu nguyện thậm chí còn là một nỗi dày vò lớn lao hơn đối với linh hồn,
bởi vì lời cầu nguyện này có thể làm cho Thiên Chúa càng nổi giận thêm… Linh hồn hướng chiều về Thiên Chúa, nhưng lại
tự cảm thấy như bị từ khước. Tất cả những
đau khổ và tủi nhục trên thế gian này không sao so sánh được với cảm nghĩ linh
hồn đã rơi vào tình trạng bị Thiên Chúa từ chối… Linh hồn rơi xuống sâu hơn và sâu hơn, từ vực
thẳm này tới vực thẳm khác, đến nỗi linh hồn có cảm tưởng là mình đã mất hẳn một
Thiên Chúa, mà mình đã từng yêu mến từ trong đáy lòng. Suy nghĩ này là một tra
tấn, mà không sao tả cho trọn nghĩa. Nhưng linh hồn không tán thành, mà cố gắng
ngước nhìn lên trời, nhưng vô ích! Và sự
kiện ấy càng làm cho việc tra tấn thậm chí trở nên mạnh mẽ hơn. Nếu Thiên Chúa muốn giữ linh hồn trong bóng tối
như thế, thì chẳng ai có thể cho linh hồn sự sáng được… Giữa tất cả những sự kiện
này thần dữ càng làm cho linh hồn thêm đau khổ bằng cách chế nhạo linh hồn rằng:
‘bạn sẽ kiên trì trong sự thành tín của mình chứ? Đó là lương bởng của bạn; bạn
đang ở trong quyền lực của chúng ta! Nhưng Satan chỉ có một chút ảnh hưởng trên
linh hồn, mà Thiên Chúa ban cho hắn, và Thiên Chúa biết chúng ta có thể chịu đựng
được bao nhiêu. Satan nói: ‘Bạn đã học được gì nơi các ma qủi của bạn, và học
được gì khi không trung thành với những quy tắc đã ấn định? Bạn tạo được gì qua
tất cả các nỗ lực này? Bạn đã bị Thiên Chúa chối bỏ! Từ ngữ bị chối bỏ trở thành một ngọn lửa,
xuyên vào từng não trạng thấu tới xương tủy, và toàn bộ con người chị (linh hồn). Ngọn lửa thử thách đạt đến đỉnh cao. Linh hồn không còn trông cậy vào sự trợ giúp
nào nữa; xem ra linh hồn đã chấp nhận sự tra tấn này. Đó là giây phút mà tôi không có lời để diễn tả;
đó là nỗi vật lộn của linh hồn (98)…
Như thế là sức mạnh thể lý của tôi
bắt đầu sút giảm và tôi không còn thi hành các nhiệm vụ, hoặc không còn che dấu
nổi những đau khổ của mình được nữa. (100)… toàn thể linh hồn cá nhân - bị bỏ rơi - ở trong bàn tay công chính của
Ba Ngôi Thiên Chúa! Khi linh hồn bắt đầu
rơi vào tình cảnh bị bỏ rơi, tôi cảm thấy, tận thế đã gần kề. Nhưng tôi nắm lấy tượng chịu nạn nhỏ bé của
mình và ôm chặt trong tay. Tôi cảm thấy linh hồn đã lìa ra khỏi xác… Tôi thốt ra những lời cuối cùng của mình: ’Con tin
vào lòng thương xót của Ngài!’ – và tôi nghĩ rằng tôi đã khơi thêm
sự tức giận nơi Thiên Chúa. Bỗng dưng,
tôi tự thấy Chúa ở trong tôi, và Người nói với tôi: ‘Hỡi con gái của Ta, đừng sợ, Ta ở cùng con’. Cùng lúc, tất cả mọi
bóng đen và đau khổ đều tan biến cả, các giác quan của tôi thấm nhuần niềm vui
khôn xiết, và mọi năng lực nơi linh hồn tôi đều rực sáng.’’ (103).
Điều nữ tu Faustina trải nghiệm không gì khác hơn là
Thiên Đàng và hỏa ngục. Trước tiên, sự
vĩ đại vô tận của Thiên Chúa, rồi tới tội lỗi của chính chị, sự thiếu vắng
Thiên Chúa, và cuối cùng là một trạng huống mà Ma Qủy cùng những kẻ bị hư mất
trải nghiệm tại hỏa ngục. Cơn thử thách
của chị không phải là một trạng thái không minh bạch về vấn đề đạo giáo như trường
hợp của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, nhưng trong sự cám dỗ liên quan tới cảnh
tuyệt vọng về lòng thương xót Chúa, điều mà chị được bổ nhiệm trong vai trò là
tông đồ. Trạng thái của hỏa ngục là tuyệt
vọng hay vô vọng, khiến không ai có thể yêu mến Thiên Chúa được. Đằng sau sự diễn tả của Faustina người ta có
cảm giác hơi nghịch lý: Tình yêu chị
dành cho Thiên Chúa không đến được cùng Người, trái lại chị cảm thấy Người từ
chối tình yêu ấy. Đó là lý do khiến chị tuyệt vọng. Têrêsa thành Lisieurx nói trong trạng thái
không minh bạch về vấn đề đạo giáo như sau: ‘’Tôi không biết, nếu tôi tin vào
Thiên Chúa thì sao, nhưng tôi yêu mến Người.’’ Faustina có thể nói:
‘’Tôi không có thể đặt hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, nhưng tôi
yêu mến Người’’. Trong cả hai trường hợp
đều liên quan tới những cám dỗ về đức tin và đức cậy, là sự sống siêu nhiên và
thánh thiện trong linh hồn. Ân sủng
trong cuộc sống bao gồm đức tin, đức cậy và đức mến. Như vậy Faustina cũng trải qua cuộc tấn kích
của Satan, như thể hắn đã đặt quyền lực của mình trên chị, theo cái nhìn tâm
linh. Một từng trải như vậy không phải
là không biết tới đối với khoa thần bí Kitô giáo.
Trải nghiệm khủng khiếp này dẫn Faustina tới Thiên Chúa bằng
mối quan hệ hoàn toàn mới. Chị cảm thấy như
mình không còn thuộc về thế giới tạo vật này nữa. ‘’Ôi lạy
Thiên Chúa, con biết, con không thuộc về trái đất này; Lạy Chúa, Đấng đã tuôn đổ
nhận thức này vào linh hồn con. Sự hiệp
thông của con với nước trời nhiều hơn với thế tục, mặc dù con vẫn gắn kết với
các nhiệm vụ của mình’’ (107).
Điều đáng ghi nhận là nhờ vâng lời bề trên của mình trong
mọi sự mà nữ tu Faustina được giải thoát khỏi hỏa ngục. Vâng lời trong đời sống tâm linh đóng một vai
trò nền tảng trong các nguyên nhân căn bản, khiến Ma qủi chính là tên không
vâng lời. Đức Giêsu nói rằng Người không
tự làm bất cứ điều gì, nhưng làm theo ý Đấng đã sai mình (theo Gioan
8,38). Đau khổ cách khủng khiếp về lãnh
vực tâm linh như vậy chỉ với một mục đích duy nhất là tẩy sạch mọi tội lỗi và sự
bất toàn, để chị có thể kết hợp với Thiên Chúa.
Mãi sau này, đề cập tới việc đồng chia sẻ với khổ nạn của Đức Giêsu,
Faustina viết: ‘’Hôm nay, trong thánh lễ,
tôi thấy Đức Giêsu chịu khổ nạn, như thể Người chết trên thập giá. Người nói với tôi: ‘Hỡi con gái, hãy thường xuyên suy niệm về những
khổ đau mà Ta đã phải chịu vì tội lỗi con, và nhờ đó con sẽ nhận ra rằng tất cả
những khổ đau con chịu, không vượt qúa sức của con đâu. Điều con làm Ta hài lòng nhất, là con suy niệm
về sự buồn sầu và đau khổ của Ta. Hãy đan kết những đau khổ nhỏ bé của con lại
với sự buồn sầu và đau khổ của Ta, và nhờ đó chúng có thể trở thành vô giá đối
với vẻ uy nghi của Ta’’ (1512).
Faustina càng bệnh thì chị lại càng nhận thức được rằng
những đau khổ phần xác cũng như phần hồn của chị càng giúp chị có thêm nhiều sức
mạnh để cứu rỗi các linh hồn, nếu chị kết hợp với sự đau khổ của Đức Giêsu. Đó là cách thế lập lại ý định của Phaolô bổ
khuyết trong thân xác mình những gì còn thiếu nơi những quẫn bách Đức
Kitô phải chịu, vì thân thể của Người là Giáo Hội (theo Côlôxê 1,24).
Tác Vụ Ngôn Sứ của Nữ Tu Faustina
Ngày 22 tháng 2 năm 1931, khi hiện ra với Faustina, Đức
Giêsu trao cho chị một tác vụ rất cụ thể, đó là việc loan truyền sứ điệp Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa. ‘’Tôi nhìn thấy
Chúa Giêsu mặc một chiếc áo trắng; một tay giơ lên như thể ban phép lành, còn một
tay khác thì rờ chiếc áo ở chỗ ngực. Từ nơi ngực Chúa, tỏa ra hai luồng sáng lớn,
một đỏ và một tái nhợt. Tôi giữ thinh lặng
và đăm đăm nhìn vào Chúa; linh hồn tôi hoảng sợ, nhưng với một niềm vui khôn tả.
Một lát sau Đức Giêsu nói với tôi: ‘Hãy
vẽ một tấm ảnh giống như hình mẫu mà con nhìn thấy, với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Ta muốn
ảnh này phải được tôn kính, trước tiên ở trong nhà nguyện của các con và sau đó
trên toàn thế giới (47). Ta hứa, linh hồn tôn kính ảnh này sẽ không bị
hư mất. Ta cũng hứa là sẽ giúp linh hồn ấy
chiến thắng các kẻ thù của mình ngay tại thế gian này, đặc biệt là trong giờ lâm
tử. Ta sẽ bảo vệ linh hồn ấy như của
riêng Ta vậy’ (48).
Đồng thời, Đức Giêsu bày tỏ ý định của Người là cử hành lễ
kính Lòng Thương Xót:… ‘’Ta
muốn mọi người cử hành một lễ kính Lòng Thương Xót. Ta muốn tấm hình mà con vẽ bằng một cái bút
lông, phải được long trọng làm phép vào chúa nhật đầu tiên sau chúa nhật phục
sinh; chúa nhật này phải là chúa nhật kính Lòng Thương Xót. (49) Ta muốn
rằng, các linh mục phải loan báo cho các tội nhân Lòng Thương Xót của Ta. Các tội nhân đừng sợ đến cùng Ta…’’ (59).
Sau này (năm 1934), Đức Giêsu giải thích cho Faustina biết,
do yêu cầu của cha giải tội, về ý nghĩa hai luồng sáng. ‘’Đang
khi cầu nguyện, tôi nghe ở trong tôi những lời sau đây: ‘Hai luồng sáng biểu thị máu và nước. Luồng sáng tái nhạt ám chỉ nước,
giúp các linh hồn trở nên công chính. Luồng
sáng đỏ ám chỉ máu, là sự sống của các linh hồn… Hai luồng sáng này phát xuất từ
chốn thâm sâu lòng thương xót đầy yêu mến của Ta, khi Trái Tim đau khổ của Ta bị
lưỡi đòng đâm làm mở toang ra trên thập giá… (299)… Nhân loại sẽ không được bình an, trước khi quay về, với niềm tin vào
Lòng Thương Xót của Ta… (300).
Hãy loan báo rằng, Lòng Thương Xót tượng
trưng tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa’ (301).
Khi nữ tu Faustina nhìn thấy tấm ảnh do nghệ nhân Eugene
Kazimierowski thực hiện theo sự hướng dẫn của chị, thì chị rất buồn vì tấm ảnh
không đẹp như Đức Giêsu mà chị đã thấy, nhưng chị giấu sự thất vọng trong thâm tâm
mình, và lúc ở nhà, chị nói với Đức Giêsu rằng:
‘’Ai sẽ vẽ Ngài đẹp như con thấy Ngài đây?
Thế rồi tôi nghe những lời này: ‘Sự vĩ đại của tấm ảnh này không phải là do
vẻ đẹp của màu sắc hay chiếc bút lông, nhưng là do ân sủng của Ta’ (313).
Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa và Chuỗi Hạt Lòng Thương Xót
Ngày 13 tháng 9 năm 1935, với một thị kiến đang lúc ở
trong phòng của mình, Faustina thấy một thiên thần như thể phải thực hiện cơn
dothịnh nộ của Thiên Chúa. Thiên thần chuẩn
bị để cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên trần gian và ở một nơi đặc
biệt, mà chị không muốn nêu tên, thế rồi chị bắt đầu xin thiên thần dừng lại một
vài khoảnh khẳng để nhân loại có thể thống hối ăn năn. Nhưng, lời cầu xin của chị cũng không làm
nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Và ‘’chính lúc ấy, tôi nhìn thấy Ba Ngôi Thiên
Chúa…đồng thời, từ trong linh hồn, tôi cảm
thấy được sức mạnh nhờ ân sủng của Đức Giêsu… Tôi nhận ra mình đang tranh biện
với Thiên Chúa cho thế gian bằng lời, mà tôi nghe thấy tiếng nói từ trong tôi.
Khi cầu nguyện theo thể cách tấy, tôi nhận ra sự bất lực của thiên thần: thiên
thần không thể giáng hình phạt thích đáng xuống các tội nhân. Từ trước tới nay, đây là lần đầu tiên, tôi dồn
nỗ lực vào việc cầu nguyện như thế. (474).
Những lời cầu xin tôi dâng lên Thiên
Chúa như sau: Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha, Mình và Máu, Linh Hồn và Thần
Tính của Con Rất Yêu Dấu Cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi
chúng con và toàn thế giới; vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin
Cha thương xót chúng con (475).
Hôm sau, Đức Giêsu dạy chị Lần Chuỗi Lòng Thương Xót, buộc chị phải cầu
nguyện trong 9 ngày để làm giảm cơn giận của Đức Kitô do tội lỗi trong thế
gian. Lần chuỗi Lòng Thương Xót giống
như lần hạt theo mẫu kinh mân côi truyền thống, với một số lời cầu nguyện khác
biệt.
Sứ điệp nơi Faustina là lời tiên tri cổ điển: Nhân loại xứng đáng chịu hình phạt của Thiên
Chúa, nhưng trước hết, Thiên Chúa tỏ lòng thương xót và khuyên dạy họ làm cách
nào để có thể thoát khỏi hình phạt ấy.
Nói cách khác, loài người có thể chọn lựa giữa việc chịu hình phạt xứng
đáng về tội lỗi của mình và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đổi lại, nhân loại phải xin Chúa dủ lòng
thương xót, chứ không tự nhiên mà có. Điều
này hoàn toàn tương ứng với lời nguyện xin Đức Giêsu trong Chính Thống
Giáo: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót
chúng con. Kyrie eleison.
Đức Giêsu nói với Faustina: ‘’Hãy viết điều này: Trước khi Ta đến như một
vị thẩm phán công chính, trước tiên, Ta đến như một quân vương của Lòng Thương
Xót. Trước ngày công chính diễn ra, nhân
loại sẽ nhìn thấy dấu chỉ như thế này: Tất
cả mọi ánh sáng trên các tầng trời sẽ thành u tối, và một bóng tối to lớn bao
trùm trái đất. Bầu trời sẽ xuất hiện một
dấu thánh giá, và từ các lỗ đinh đóng chân và tay Đấng Cứu Chuộc sẽ tỏa ra những
tia sáng to lớn, soi chiếu thế gian trong một khoảng thời gian. Sự kiện này diễn ra trước ngày tận thế’’ (83).
Vào một dịp sau, Đức Giêsu nói với Faustina cũng theo thể
cách này: ‘’Hôm nay, tôi nghe thấy những lời như sau: ‘Trong thời Cựu Ước, Ta sai các ngôn sứ, sử dụng sấm sét để chống lại
dân Ta. Ngày nay, Ta sai con cùng với
lòng thương xót của Ta đến toàn thể nhân loại. Ta không muốn trừng phạt nhân loại
đau khổ này, nhưng Ta mong ước chữa lành họ bằng cách nhận chìm họ vào trái tim
đầy lòng thương xót của Ta. Ta sử dụng
hình phạt, khi họ ép buộc Ta làm như vậy.
Bàn tay ta không muốn nhúng vào thanh kiếm công lý. Trước ngày công lý là
ngày lòng thương xót’ (1588).
Nữ Tu Faustina Thư Ký Của Thiên Chúa
Chính các cha giải tội yêu cầu Faustina ghi chép tất cả
những gì liên quan tới đời sống tâm linh của chị. Nhưng Đức Giêsu cũng bảo chị viết các sứ điệp
của Người xuống và gọi chị là thư ký lòng thương xót: ‘’Ghi tất cả những gì đến với con, liên quan
tới lòng nhân từ của Ta…’’ Faustina
đáp lại: ‘’Ôi Chúa Giêsu của con, xin
Chúa hãy đặt lời Ngài vào miệng con, để con có thể ca ngợi Chúa cách xứng
đáng.’’ Đức Giêsu trả lời: ‘’Hỡi con gái của Ta, cứ yên tâm, hãy làm điều
Ta yêu cầu con. Các suy nghĩ của con
trùng hợp với các suy nghĩ của Ta, vậy hãy viết, bất cứ những gì đến với
con. Con là thư ký lòng thương xót của
Ta. Ta đã chọn con vào tác vụ này trong
cuộc sống trần thế cũng như mai hậu. Điều
ta muốn là con đừng ngại về những chống đối sẽ đến với con. Con nên hiểu rằng sự chọn lựa của Ta sẽ không
có sự thay đổi’’ (1605).
Tình Yêu Của Đức Giêsu Đối Với Các Linh Hồn
Như là một mảnh
kết thúc nhận xét ngắn gọn về đời sống tâm linh phong phú của nữ tu Faustina,
tôi xin trích dẫn những lời sau đây của Đức Kitô nói với chị vào giai đoạn cuối
đời chị:
‘’Ta
ước ao cứu rỗi các linh hồn biết bao! Hỡi
thư ký thương mến của Ta, hãy viết rằng, Ta muốn tuôn đổ đời sống thần linh của
Ta vào linh hồn nhân loại và thánh hóa họ, nếu họ sẵn lòng đón nhận ân sủng của
Ta. Các linh hồn tội lỗi nhất sẽ được ơn thánh lớn lao nhất, nếu họ hoàn toàn
tín thác vào lòng thương xót của Ta. Trong sâu thẳm trái tim Ta tràn đầy lòng
thương xót sẽ tuôn trào đến khắp các tạo vật do Ta dựng nên. Niềm vui của Ta sẽ hoạt động trong từng linh
hồn nhân loại và ban cho linh hồn ấy lòng thương xót của Ta và công chính hóa
linh hồn ấy. Vương quốc của Ta tại trần
gian là đời sống của Ta trong linh hồn nhân loại. Hỡi thư ký của Ta, hãy viết rằng, chính Ta là
vị linh hướng của các linh hồn – và gián tiếp dẫn đưa họ tới các linh mục và hướng
dẫn từng cá nhân họ tới sự thánh thiện theo một đường lối mà chỉ mình Ta biết
mà thôi’’ (1784).
Việc Phong Thánh Cho Nữ
Tu Faustina
Ngày 21 tháng 10 năm 1965 Đức Tổng
Giám Mục Karol Wojtylas chính thức ban lệnh điều tra tại Krakow, liên hệ tới việc
phong thánh cho nữ tu Faustina. Hồ sơ sau đó được gửi về Rôma, và tiến trình
phong á thánh cho chị khởi sự vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Ngày 18 tháng 4 năm
1993, Đức Tổng Giám Mục tiền nhiệm Krakow, nay là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
phong á thánh cho nữ tu Faustina vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, tại công trường
thánh Phêrô ở Rôma, rồi cũng vị giáo hoàng này đã phong hiển thánh cho chị; và
trong bài giảng Người nói:
‘’Việc
phong thánh cho nữ tu Faustina mang một ý nghĩa đặc biệt: Qua sự kiện diễn ra ngày hôm nay, tôi muốn gửi
tiếp sứ điệp (Lòng Thương Xót của Chúa) tới tân thiên niên kỷ. Tôi gửi tiếp sứ điệp ấy tới toàn thể nhân loại,
hầu ai nấy có thể tìm hiểu dung nhan của Thiên Chúa và gương mặt thật của các
anh chị em mình’’.
Theo quyết định ngày 5 tháng 5 năm
2000 của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Lòng Thương Xót của Chúa được trở
thành một ngày lễ kính vào Chúa Nhật sau lễ phục sinh, đúng với ý muốn như vậy
của Đức Kitô, qua Faustina. Lễ kính này đã
được cử hành lần đầu tiên trong Niên Lịch Giáo Hội vào năm kế tiếp.
Sứ điệp của nữ tu Faustina đã từng tạo cảm
hứng mạnh mẽ nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong suốt giáo triều của Người. Ngày 30 tháng 11 năm 1980, vào năm thứ ba triều
đại của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã phổ biến tông thư thứ hai mang tựa đề Giầu Lòng Thương Xót. Tông
Thư này bao gồm tất cả mọi chủ đề chính, do nữ tu Faustina đã từng triệt để ủng
hộ. Ở đoạn chót, Người viết: Tất cả
những gì tôi đã đề cập tới trong tài liệu này được kể là khẩn thiết, không ngừng
biến đổi thành một lời nguyện cầu nhiệt thành, một tiếng kêu xin lòng thương
xót, mà con người trong thế giới hiện đại cần tới (15). Ai là người không thể không nghe sứ điệp của
Đức Kitô vang vọng trong thế gian qua Faustina?
Cùng vị giáo hoàng này, sau khi được chọn vào ngôi vị của mình, đã xuất
hiện tại bao lơn đền thờ thánh Phêrô để chào Giáo Hội và thế giới bằng lời của
Đức Giêsu: ‘’Đừng sợ’’. Phải chăng, lý do khiến chúng ta chẳng sợ hãi
gì là vì chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót vô tận của Thiên Chúa? Năm 1994, khi cho xuất bản cuốn sách riêng của
mình, mang tựa đề Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng,
Đức Giáo Hoàng đã, bằng văn bản, trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên, với một
đề nghị là cuốn sách nên mang tựa đề với chữ ‘’hy vọng’’.
Ngày 2 tháng 4 năm 2005, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II qua đời tại tư dinh của Người trong điện Vatican, vào ngay
buổi chiều Chúa Nhật cử hành nghi lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chẳng phải là một ý nghĩa thâm sâu đối với
một vị giáo hoàng suốt triều đại của mình đã hằng theo đuổi sứ vụ này sao? Đức
Kitô đã thực sự trao cho thánh nữ Faustina nhiệm vụ dẫn đưa nhân loại đến với
Lòng Thương Xót của Chúa.