ĐỨC
MẸ LỘ ĐỨC
SỨ
ĐIỆP VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
NGÀY 25.03.1858
Các
Địa Điểm Liên Quan Đặc Biệt Tới
Những
Lần Đức Mẹ Hiện Ra Ở Lộ Đức
Cùng với đoàn hành hương địa
phương, trải qua một không trình dài 1.820 km, chúng tôi đáp xuống phi trường
quốc tế Tarbès – cách Lộ Đức (Lourdes) 18 km, vào một ngày trong tháng 10.
Buổi chiều cùng ngày, chúng tôi theo dòng người tấp nập như
thác lũ, đứng theo hàng lối, từng đoàn thể và mang theo cờ xí, huy hiệu, thứ tự
tuốn về một hướng, theo lời chỉ dẫn của ban tổ chức… dần dần và mãi tới đôi ngày
sau, tôi mới có thể định rõ vị thế của mình với tư cách là người hành hương
tới Lộ Đức.
 |
Que soy era Immacualte Counceptiou |
|
|
|
|
|
Được biết, mỗi năm có tới 6 triệu khách hành hương đặt chân
tới Lộ Đức, trong đó gồm chừng bảy mươi nghìn bệnh nhân thể lý, cùng với con số
trợ tá tương tự, từ trên một trăm năm mươi quốc gia khác nhau trên thế giới… Chuyện gì đã xảy ra đối với môt địa danh nhỏ
bé và hẻo lánh như Lộ Đức, mà có thể thu hút một số du khách đông đảo như vậy,
suốt hơn một trăm sáu mươi năm qua?
Câu trả lời rất giản dị:
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ toàn
thể nhân loại đã hiện ra với một cô gái 14 tuổi, tên là Barnatette Soubirous, nơi
hang đá hình qủa trám Massabielle, thuộc thị xã Lourdes (Lộ Đức), với mục đích
nhắn bảo chúng ta các điều bí ẩn, đem lại hạnh phúc cho con người.
Lộ Đức là một thị xã nhỏ, nằm dưới chân dãy Pyrénees, bị chế
ngự bởi một lâu đài cổ kính, gồm 4.135 cư dân, vào năm 1958. Dân số Lộ Đức hiện nay tăng lên trên dưới
20.000 người, mang một bộ mặt thương mại phồn thịnh mỹ lệ, giống như các thị trấn
khác thuộc miền Tây Nam nước Pháp; đặc biệt, đời sống Kitô giáo quanh năm, luôn
sầm uất như những ngày hội hoa đăng. Để
giải quyết nhu cầu dịch vụ cho số lượng khách hành hương đông đảo hằng năm, Lộ
Đức có rất nhiều quán ăn, giải trí lành mạnh, vô số tiệm bán các tặng vật tôn
giáo, nằm ở hai bên đường, trên các dãy phố.
Lộ Đức được kể là thị xã quan trọng thứ hai về ngành khách sạn tại nước
Pháp, gồm trên 360 khách sạn. Ngoài ra còn
có 20 địa điểm lều trại. Mỗi năm có khoảng
7 triệu thư tín và bưu thiếp gửi từ Lộ Đức đi các nơi trên toàn cầu.
Bernadette Soubirous sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844 tại nhà máy
xay bột - Boly Mill – thân phụ là chủ
nhà máy; Bernadette là chị cả trong gia đình, chết 4, sống 5 – Bernadette, Antoinette, Jean-Maria, Justin và
Pierre. Thân phụ của Bernadette tên
là Francois Soubirous, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1807 tại Lộ Đức; và thân mẫu tên
là Louise Casterot, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1825, cũng tại Lộ Đức: Hai ông bà kết hôn ngày 9 tháng 1 năm
1843. Ông qua đời ngày 4 tháng 3 năm
1871, và bà qua đời ngày 8 tháng 12 năm 1866.
Bà là người đàn bà rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái.
Khi Bernadette được 10 tháng, thì thân mẫu bị một tai nạn bất
ngờ không còn sữa cho con bú nữa, khiến Bernadette phải đến ở với một người bạn
của mẹ, là bà Marie Lagues tại Batrès, cách Lộ Đức 4 km. Lên 2 tuổi – tháng 4 năm 1846, Bernadette trở
lại Lộ Đức sống chung với cha mẹ.
 |
Bernadette Soubirous |
Cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 19 giúp một thiểu số trở
nên giàu có, nhưng lại đưa hàng ngàn người rơi vào cảnh sa sút, trong đó gia đình
Soubirous mang chung số phận hẩm hiu, đến nỗi phải bán nhà máy xay bột cho người
khác. Gia đình Soubirous đi dần xuống vực
thẳm của nghèo túng, từ lao động từng giờ đến tình trạng thất nghệp, nhưng vì lòng
quảng đại, họ vẫn giúp đỡ những người khổ cực, túng nghèo hơn, đến nỗi chuốc lấy
nợ nần, không trả được tiền mướn nhà cho chủ mới, nên ngày 24 tháng 6 năm 1854,
gia đình đã bị trục xuất. Francois phải
cậy nhờ người cậu can thiệp để có thể vào ở tại ‘’Cachot’’, một nơi hết sức cùng cực; vì đó là một nhà tù nổi
tiếng trước kia của thị xã. Tuy túng thiếu,
nhưng gia đình Soubirous luôn sống thuận hòa, vui vẻ, không bao giờ to tiếng với
nhau.
Mùa thu năm 1855, dịch thương hàn hoành hành trong vùng Lộ
Đức, cũng không quên thăm viếng Bernadette; dù thoát chết, nhưng Bernadette chịu
bệnh siễn kinh niên, đến nỗi mãi năm 14 tuổi Bernadette vẫn chưa có thể cắp sách
đến trường học, cũng như tham dự các lớp giáo lý vỡ lòng. Bernadette sống 10 năm yên vui và hạnh phúc bên
cha mẹ tại nhà máy xay bột. Tháng 11 năm
1856, ông bà Soubirous lại phải gửi Bernadette đến giúp việc nhà và chăn cừu
cho gia đình vú nuôi Maria Lagues tại Batrès.
Ngày 21 tháng 1 năm 1858, Bernadette trở về sống cuộc đời nghèo khổ với
cha mẹ ở‘’Cachot’’.
Từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858, Đức Trinh
Nữ Đồng Trinh Maria đã hiện ra với Bernadette tất cả 18 lần. Ngày 15 tháng 7 năm
1858, do cơn siễn tái hoành hành dữ dội, Bernadette được nhận vào Viện Tế Bần ở
Lộ Đức, dưới quyền quản trị của các Nữ Tu Dòng Bác Ái thành Nervers. Ngày 4 tháng 7 năm 1866, Bernadette rời Viện
Tế Bần, và vào Tập Viện Nữ Tu Bác Ái thành Nervers. Bernadette khấn trọn đời ngày 30 tháng 10 năm
1867, và tiếp tục sống đời hãm mình, ăn chay, cầu nguyện trong tu viện suốt 12
năm.
Bệnh siễn đã kết liễu
cuộc đời của Bernadette vào ngày 16 tháng 4 năm 1879, lúc 35 tuổi; xác được ướp
khô trong quan tài kính, đặt tại nguyện đường Tu Viện Bác Ái thánh Gilgard ở
Nervers, cách Lộ Đức 800 km, dân chúng có thể đến kính viếng. Đức Giáo Hoàng Piô 11 đã phong Bernadette lên
bậc hiển thánh ngày 8 tháng 12 năm 1933.
Các sứ điệp của Đức
Maria trao cho Bernadette trong 18 lần thân hiện gồm 4 điều cơ bản, phản ánh Lời
Chúa, ghi trong Kinh Thánh:
Sống Nghèo Khó (Mátthêu 5,3-12).-
Sứ điệp này thích ứng với thời đại chúng ta đang sống, giữa
một xã hội tiêu thụ, bất công, hao phí rất nhiều tài nguyên thiên nhiên. Đức Mẹ kêu gọi thành phần giầu có, của cải dư
thừa hãy sống giản dị, hầu tạo cơ hội chia sẻ cho những kẻ túng nghèo, khổ cực,
bệnh tật và tham gia đấu tranh cho công lý và hoà bình. ‘’Những
gì thế gian cho là yếu kém, là nhỏ mọn thì Thiên Chúa đã chọn’’ (1 Corintô
1,27); ‘’Chúa Giêsu Kitô vốn giầu sang
phú qúi, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó…’’(2 Corintô 8,9). Hành hương Lộ Đức là đem theo cuộc sống yếu hèn
và đau khổ của mình dâng cho Đức Maria, và đặt hy vọng vào lòng nhân từ bao la
của Thiên Chúa, hầu được tha thứ và đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Cầu Nguyện.-
Cầu nguyện là chúng ta tạo dịp gặp gỡ và đối thoại với Chúa, để nhận ra sự nghèo khó
của mình. Cầu nguyện, chúng ta mới thực
sự thấy rõ mình và tha nhân. Lối cầu
nguyện truyền thống của người công giáo là lần hạt Mân Côi, đồng thời suy ngẫm
sâu xa các mầu nhiệm qua phương cách ‘’trái
tim trực diện với trái tim’’; cầu nguyện trong thầm lặng và đối thoại với
Chúa. Đức Giêsu nói: ‘’Khi
cầu nguyện, đừng lải nhải như dân ngoại’’(Mátthêu 6,7).
Hãm Mình.-
Hiện ra với Bernadette, Đức Mẹ nói: ‘’Con
hãy hãm mình, hãm mình, hãm mình để cầu nguyện cho các tội nhân’’. Đó là một trong các sứ điệp then chốt tại Lộ
Đức. Đức thánh cha Gioan Phaolô II nói: ‘’Chúng
ta được dẫn tới mầu nhiệm ơn cứu chuộc, mà phẩm cách và sự hư hỏng do tội lỗi,
chỉ có thể nhận ra được, dưới ánh sáng soi dẫn của thập giá mà thôi’’. Dựa
vao lời hướng dẫn của Đức Mẹ hiện ra lần thứ 9, ngày 25 tháng 2 năm 1858,
Bernadette đã phát hiện được một mạch nước tuôn chảy từ lòng đất và các khe đá: ‘’Con
hãy qùi gối, cúi xuống hôn đất, ngắt cỏ mà ăn, và cầu nguyện cho các tội
nhân. Lấy nước đó mà uống và rửa ráy.’’ Hãm mình, không chỉ là áp dụng hành vi ép xác,
nhưng chính là bày tỏ sự kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Chiên Thiên Chúa ‘’nếm mùi cỏ đắng’’ để gánh ‘’tội thiên hạ’’.
Giáo Hội.-
Hiện ra lần thứ 13, Đức Maria bảo Bernadette, một cô gái
tầm thường, nghèo hèn: ‘’Con hãy đi nói với các linh mục xây một
nguyện đường ở đây để dân chúng tới hành hương’’. Một kiến trúc mà Đức Maria thực sự muốn là
Giáo Hội của dân Chúa. Chúng ta được mời
gọi để trở nên ‘’những viên đá sống
động’’ của Giáo Hội (1 Phêrô 2,5). Mỗi
người Kitô hữu đều có chung một trọng trách đối với gia đình, làng xóm, giáo xứ,
xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống.
Đức Mẹ Maria hiện ra với Bernadette:
* Lần thứ
nhất, ngày 11 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không nói gì, chỉ đọc chung với
Bernadette 1 chục kinh Mân Côi. Cùng với
em gái là Antoinette và một người bạn tên Jeanne Abbadie, Bernadette đi kiếm củi. Bernadette kể rằng: ‘’Đang
lúc ngồi trước hang đá Massabielle cởi giầy để lội qua bờ bên kia sông Gave như
hai bạn đồng hành khác, bất chợt tôi nghe tiếng gió thổi mạnh. Đưa mắt nhìn cây cối xung quanh, thấy cành lá
không lay động, tôi tiếp tục cởi giầy.
Lại nghe tiếng gió thổi như vậy, tôi ngước mắt về phía hang đá, thấy một
Bà mặc áo trắng, trùm khăn mầu xanh da trời, và trên mỗi mu bàn chân có một hoa
hồng mầu vàng, cùng mầu với cỗ tràng hạt ở tay Bà …’’
* Lần thứ
hai, ngày 14 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không nói gì, ngoài việc lần hạt
Mân Côi. Bernadette kể rằng: ‘’Được
phép cha mẹ, tôi cùng với em gái và người bạn gái đi tới hang đá: Lần này, chúng tôi đem Nước Phép theo. Đọc 10 kinh kính mừng đầu tiên xong, tôi thấy Bà hiện
ra. Lập tức, tôi rẩy Nước Phép về phiá Bà
và nói: nếu Bà là người thay mặt Chúa đến thì ở lại, bằng không thì lui
đi. Bà cười và cúi đầu chào. Càng rẩy
Nước Phép, Bà càng cười thêm và cúi đầu chào.
Lần hết một tràng hạt, thì Bà biến mất’’.
* Lần thứ
ba, ngày 18 tháng 2 năm 1858 - Lần đầu tiên Đức Maria nói. Bernadette kể: ‘’Một
số người khả kính cùng đi với tôi đến hang đá.
Họ đề nghị tôi đem theo giấy bút và xin Bà viết những lời Bà nói xuống
giấy. Tôi làm theo ý họ, nhưng Bà cười
và nói: Bà chẳng có điều gì để nói, nên
không cần viết xuống giấy. Bà yêu cầu
tôi đến đây mỗi ngày, trong 14 ngày liên tiếp.
Tôi nhận lời. Đoạn Bà thêm rằng, Bà
không hứa là sẽ làm cho tôi được sung sướng ở trần gian này, nhưng ở thế giới
bên kia. Tôi trở lại hang đá các ngày
trong tuần. Bà hiện ra với tôi mỗi ngày,
ngoại trừ một ngày thứ hai và một ngày thứ sáu’’.
* Lần thứ
tư, ngày 19 tháng 2 năm 1858 - Lần hiện ra này kéo dài hơn 15 phút. Đức Maria không nói gì. Khi đọc hết Kinh Kính Mừng thứ ba thì
Bernadette ở vào tình trạng hôn mê (siêu
thoát), vẻ mặt đổi sắc thành nhợt nhạt.
Đây là lần thứ nhất và kéo dài đến lần hiện ra thứ 14, vào ngày 3 tháng
3, mỗi khi đến hang đá, Bernadette đều mang một cây Nến Phép thắp sáng trong
tay. Kể từ ngày ấy về sau, việc đốt nến tại hang đá Lộ Đức trở thành một truyền
thống.
* Lần thứ
năm, ngày 20 tháng 2 năm 1858 - Khoảng
30 người cùng có mặt và lần hạt Mân Côi, trong khi Đức Maria hiện ra với
Bernadette. Bernadette ở trạng thái siêu
thoát. Không ai biết nội dung cuộc đàm đạo. Khi cuộc hiện ra kết thúc, vẻ mặt của
Bernadette rất buồn. Một số người đoán rằng,
Đức Maria dậy Bernadette cầu nguyện cho riêng mình.
* Lần thứ
sáu, ngày 21 tháng 2 năm 1858 – Hàng trăm người tham dự lần hạt Mân Côi như
thường lệ. Bernadette lại ở trong tình
trạng siêu thoát. Cuộc hiện ra chấm dứt
và gương mặt Bernadette như vừa trải qua một cơn mê. Và cũng là lần đầu tiên Bernadette bị viên cảnh
sát trưởng Jacomet thẩm vấn dài dòng.
* Lần thứ
bảy, ngày 23 tháng 2 năm 1858 - Mặc dù bị cha mẹ phản đối, nhưng với sức mạnh
nội tâm, ngày thứ hai, 22 tháng 2, Bernadette đã đến hang đá và có đám đông dân
chúng tháp tùng, nhưng Đức Maria không hiện ra, khiến mọi người thất vọng chờ đợi. Bernadette thầm nghĩ, mình đã làm điều gì sai
quấy, khiến ‘’Bà mặc áo trắng’’ không
hài lòng chăng!
Được phép cha mẹ, ngày 23 tháng 2, Bernadette đến hang đá,
trong khi có hàng trăm người đã trực chờ sẵn, gồm cả các viên chức quan trọng
trong thị xã. Bernadette ở vào trạng thái
siêu thoát khoảng một tiếng đồng hồ. Sau
đó, Bernadette tiết lộ, vì chỉ một mình cô nghe được các điều diễn ra trong cuộc
hiện ra mà thôi. Nhân danh khoa học, bác
sĩ vô thần Dozous đã theo dõi rất kỹ từng cử chỉ của Bernadette, và xác định rằng,
các động mạch và nhịp thở của Bernadette hoàn toàn bình thường trong suốt thời
gian Đức Mẹ hiện ra với cô. Khi ông nâng
tay Bernadette lên, thì cô bước lại gần hang đá hơn, bất chợt mặt cô trở nên buồn
rầu, hai giọt lệ lớn lăn trên gò má, khiến cảm nhận của ông thay đổi. Ông tin chắc Bernadette đang tiếp xúc với Đấng
vô hình nào đó.
*Lần thứ tám, ngày 24 tháng 2 năm 1858 –
Bernadette ở trong tình trạng siêu thoát trước sự hiện diện của hơn 300 người. Gương mặt Bernadette buồn nhiều hơn vui. Cô qùi gối xuống, gật rồi lắc đầu, hôn đất. Sứ điệp của Đức Maria được kể là quan trọng và
cấp thiết: ‘’Hãy sám hối! Hãy sám hối! Hãy sám hối!
Hãy cầu nguyện cùng Chúa, thay cho các tội nhân! Con hãy hôn đất và cầu nguyện cho các tội
nhân!’’
* Lần thứ
chín, ngày 25 tháng 2 năm 1858 - Mặc
dù mưa to, gió lớn, tiết trời lạnh giá, 300 người đã có mặt ở địa điểm hiện
ra. Đức Maria bảo Bernadette tìm đến mạch
nước mà uống. Theo lời chỉ dẫn của Đức
Maria, và qua bốn lần lấy tay bới, vén đất, Bernadette đã thấy nguồn nước Sau lần hiện ra này, tổng trấn Dutour dọa là
sẽ đưa Bernadette vào nhà tù, nếu cô vẫn tiếp tục đến hang đá.
* Lần thứ
mười, ngày 27 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không hiện ra vào ngày 26 tháng
2, Bernadette lần hạt Mân Côi, hôn đất, mắt nhìn lên đỉnh hang đá, nhưng vô vọng. Đức Maria không hiện ra, mặc dù 600 người có
mặt. Bernadette cảm thấy áy náy và lo âu.
Nhưng ngày 27 tháng
2, Đức Maria lại hiện ra với Bernadette.
Hôm nay có khoảng 800 người tham dự.
Bernadette ở trong trạng thái siêu thoát, khuôn mặt nhợt nhạt, biến sắc
như mấy lần trước; lúc tỏ lộ sự vui mừng, như lọt vào tiên cảnh, khi lại buồn rầu
ảm đạm. Bernadette uống nước, ăn cỏ, làm
vài tác động hãm mình như thường lệ.
* Lần thứ
mười một, ngày 28 tháng 2 năm 1858 - Khoảng 7 giờ sáng thứ bảy, Đức Maria
hiện ra. Hơn 1.000 người có mặt. Bernadette cầu nguyện, hôn đất, đi chuyển bằng
đầu gối, một hình thức hãm mình. Một quân
nhân sắc phục cấp cao, chỉ huy trưởng Renault, đồn binh ở Tarbès, cũng có mặt
trong ngày hôm nay, để theo dõi ‘’biến cố
lạ lùng’’ diễn ra tại Lộ Đức, nhưng điều làm Bernadette ngạc nhiên và khó chịu
là khi thánh lễ đại trào Chúa Nhật thứ hai mùa chay kết thúc, cô bị đưa về văn
phòng tổng trấn Dutour, để viên dự thẩm Ribes chất vấn. Dù bị đe dọa bỏ tù, Bernadette luôn luôn trả
lời lưu loát các câu hỏi với thái độ thật tự nhiên và bình tĩnh.
* Lần thứ
mười hai, ngày 1 tháng 3 năm 1858 – Hơn 1.500 người có mặt tại nơi hiện ra,
kể cả cha mẹ của Bernadette. Lần đầu tiên,
một linh mục đến và chứng kiến việc Bernadette siêu thoát. Đức Maria không ban một sứ điệp nào!
* Lần thứ
mười ba, ngày 2 tháng 3 năm 1858 – Hôm nay là ngày quan trọng nhất lịch sử
Lộ Đức. Khoảng 1.600 người tham dự,
trong đó có hai người dì của Bernadette nữa.
Đức Maria bảo Bernadette đi và nói với các linh mục xây một nguyện đường
ở đây để có nơi cho các tín hữu đến hành hương.
Bernadette kể: ‘’Khi tôi đến trao sứ điệp của Đức Maria cho
cha xứ, ngài trố mắt nhìn tôi giây lát, đoạn nói với tôi bằng một giọng điệu và
thái độ hằn học: tên Bà ấy là gì? Tôi trả lời:
Con không biết. Ngài bảo tôi phải
hỏi Bà ấy. Hôm sau, tôi làm như vậy,
nhưng Bà ấy chỉ cười… Cha Peyamale không những chỉ muốn biết tên Bà ấy, mà còn
muốn có một bằng chứng cụ thể khác là được nhìn thấy bụi hồng ở chân hang đá nở
hoa - giữa mùa đông!’’
* Lần thứ
mười bốn, ngày 3 tháng 3 năm 1858 – Theo ước tính của cảnh sát trưởng
Jacomet, khoảng hơn 3.000 người đã đến hang đá trực chờ Bernadette. Như thường lệ, Bernadette lần hạt Mân Côi, nhưng
không thấy Đức Maria hiện ra. Trên đường
về nhà, Bernadette tỏ vể rất buồn khổ. Dân
chúng cảm thấy khó chịu vì thất vọng chờ đợi.
Sau giờ học, Bernadette cảm nhận được ‘’sự mời gọi bí mật’’ của Đức Maria, nên đã cùng với một người chú
trở lại hang đá, và thấy Đức Maria đang chờ đợi… Khi lần hạt Mân Côi xong, Bernadette hỏi tên,
nhưng Đức Maria chỉ nở nụ cười âu yếm!
* Lần thứ
mười lăm, ngày 4 tháng 3 năm 1858 – Hơn 8.000 người tuốn đến hang đá chờ mong
một phép lạ đặc biệt xảy ra, nhưng mọi diễn tiến vẫn không thay đổi. Bernadette hỏi tên, thì Đức Maria chỉ cười, và
một mực muốn xây nguyện đường. Cha xứ nhấn
mạnh: ‘’Nếu Bà ấy muốn có một nguyện đường thì phải nói tên mình và cho tiền
thì mới xây cất được chứ!’’ Bernadette
không đến hang đá suốt 20 ngày, từ 5 đến 24 tháng 3 năm 1858. Cô muốn dồn tâm trí vào việc học giáo lý chuẩn
bị rước lễ lần đầu. Và ngày 18 tháng 3,
Bernadette lại bị viên tổng trấn Lộ Đức : Jacques Vital Dutour cùng với cảnh sát
trưởng Jacomet thẩm vấn.
* Lần thứ
mười sáu, ngày 25 tháng 3 năm 1858 - Thứ năm, 25 tháng 3, lễ Truyền Tin và
là ngày trọng đại, có tính cách lịch sử tại Lộ Đức, vì Đức Maria tiết lộ danh tính. Bernadette kể rằng: ‘’Ba
lần tôi hỏi tên Bà. Bà chỉ cười. Tôi tiếp tục hỏi thêm một lần nữa. Lúc ấy Bà ngước mắt lên Trời, chắp hai bàn
tay lại và cầu nguyện, đoạn nói bằng tiếng bản xứ: Que
soy Era Immaculade Councepciou – Ta Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội -. Đó là lời cuối cùng Bà nói với tôi. Đôi mắt Bà mầu xanh da trời. Suốt hơn hai tuần lễ, Bà đã trao cho tôi ba
điều bí mật, mà cho đến nay, tôi vẫn còn giữ kín, theo như đã hứa’’.
Bernadette kể tiếp: ‘’Tôi đến nói cho cha Peyamale biết, tên Bà
là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cha
hỏi: Tên Bà chắc chắn như vậy chứ? Tôi trả lời là tôi không thể quên một chữ, vì
tôi đã nhẩm kỹ suốt đoạn đường.’’
Cha Peyamale cảm thấy thật bối rối trước tên của ‘’Bà Hiện Ra’’, và cấp tốc viết thư trình Đức Giám Mục Tarbès về sự
kiện nêu trên. Với tấm lòng đơn sơ và
khiêm tốn, Bernadette luôn xác tín điều mình tiết lộ với cha xứ là sự thật. Một chi tiết đánh động lương tâm cha xứ nhất là khi nhắc lại nhiều lần
tước hiệu ‘’Ta Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội’’,
mặc dù Bernadette nói, nhưng không hiểu ý nghĩa câu đó là gì! Chỉ một mình Đức Trinh Nữ Maria mới có thẩm
quyền xưng mình như thế, và đó chính là lý do đầy đủ để có thể tin lời cô gái,
dù khóm hồng không nở hoa, như ước muốn của cha xứ. Sau này, cha Peyamale đã có lần nói: ‘’Bụi
hồng không nở hoa, nhưng mạch nước đã tuôn trào bất tận’’.
* Lần thứ
mười bảy, ngày 7 tháng 4 năm 1858 - Buổi
hiện ra hôm nay có sự chứng kiến của một nhân vật đặc biệt, đó là bác sĩ
Dozous, một khoa học gia vô thần, đã từng có mặt vào lần thứ bảy khi Đức Maria
hiện ra. Ông may mắn mục kích ‘’phép lạ cây nến đang cháy’’, nên đã nhận
được ơn Chúa.
Trong lúc siêu thoát, trước sự chứng kiến của đám đông dân
chúng, tay phải Bernadette cầm cây nến to, tay trái che trên ngọn nến đang bốc
lửa, mà không để lại thương tích. Bác sĩ
Dozous quan sát diễn tiến này, và ghi nhận hiện tượng kia kéo dài khoảng 15 phút.
* Lần
thứ mười tám, ngày 16 tháng 7 năm 1858 – Bernadette rước Thánh Thể vào lúc
14 tuổi rưỡi. Mong ước đón nhận Đức Kitô
Giêsu của cô đã thành hiện thực. Hôm
nay, còn là ngày lễ kính Đức Mẹ Carmêlô.
Sức mạnh siêu nhiên dường như thúc giục Bernadette tới hang đá. Cô không biết phải giải quyết thế nào, vì lối
vào hang đá bị rào cấm. Bấy giờ dì của
Bernadette là Lucie, phát hiện một con đường mòn khác có thể tới hang đá được. Xế chiều, cùng với dì và hai người nữa,
Bernadette tiến theo chiều dọc, phía bên phải bờ sông Gave, rồi dừng lại nơi cách
hàng rào chắn ngang hang đá chừng 140 mét. Đây là lần cuối cùng Bernadette gặp ‘’Bà’’. ‘’Bà’’
hiện ra, ngay khi Bernadette bắt đầu lần hạt Kinh Mân Côi. Bernadette rơi vào tình trạng siêu thoát chừng
15 phút, và‘’Bà mặc áo trắng’’ nói lời
từ biệt Bernadette. Các bạn của
Bernadette hỏi: ‘’Làm cách nào bạn có thể nhìn thấy Bà trong khoảng cách xa như vậy,
nhất là hang đá đã bị rào cản?’’
Bernadette trả lời: ‘’Tôi có cảm tưởng như đang đứng trước hang
đá, gẫn gũi như các lần trước. Tôi nhìn
thấy Đức Trinh Nữ đẹp hơn mọi lần!’’
Trong suốt thời gian hành hương Lộ Đức, cùng với các nhóm
khác từ khắp nơi trên thế giới, chúng tôi đã tham dự các buổi rước Mình Thánh vào
lúc 16 giờ 45 phút hằng ngày, kiệu Đức Mẹ Lộ Đức, và rước nến, lần hạt Mân Côi
(truyền thống này bắt đầu từ ngày 27 tháng 8 năm 1887, khởi hành từ hang đá nơi
Đức Maria hiện ra), mỗi tối, vào lúc 21 giờ.
Hôm nay, chúng tôi tham dự thánh lễ do một hồng y, đại diện
đức thánh cha chủ sự, vào lúc 9 giờ sáng mỗi chúa nhật và thứ tư, tại đền thánh
Piô 10, được thiết dựng ở dưới lòng đất.
Thánh lễ mỗi ngày, bằng ngôn ngữ riêng, nhóm chúng tôi được phép sử dụng
một trong các nguyện đường nhỏ tại khuôn viên hành hương, do sự sắp xếp của Ban
Điều Hành Hỗn Hợp Quốc Tế.
Ngoài các buổi sinh hoạt chung, khách hành hương còn có nhiều
thì giờ để cầu nguyện riêng trước hang đá, nơi Đức Maria đã hiện ra, hoặc tự thăm
viếng các địa điểm liên hệ khác. Viếng đàng thánh giá và tắm Nước Mạch Lộ Đức cũng
là điểm cốt yếu trong chương trình. Có
hai đàng thánh giá: một dành cho bệnh nhân - đường bằng, và một dành cho những người có
đầy đủ sức khỏe: đường thoải dốc cao. Tất cả các địa điểm cử hành nghi thức tôn giáo
đều tập trung trong khuôn viên rộng lớn, thơ mộng.
Có bảy lối ra vào hang đá - nơi Đức Mẹ Hiện ra. Tuy nhiên,
hai lối ra vào chính được đại đa số sử dụng nhiều nhất, vì thế mà số lượng
người thường bị dồn đọng, mỗi lần rước Mình Thánh hoặc kiệu Đức Mẹ vừa kết thúc,
đó là ‘’Port St. Michael’’ - mỗi bên
cổng có một bức tượng thánh thiên thần Michael, và cổng ‘’St. Joseph’’ – thánh Giuse.
Có thể nói, cổng thánh thiên thần Michael là lối ra vào chính, vì, nếu đứng
từ cổng này, khách hành hương có thể quan sát toàn diện khuôn viên đền thánh và
công trường.
Từ cổng St. Micael nhìn thẳng vào phía công trường Lộ Đức,
khách hành hương thấy rõ đồi Calvariô, cao 12 mét; tượng Đức Giêsu chịu nạn trên
thập giá cao 2 mét; bốn tượng khác ở bốn góc là: Đức
Maria, thánh Gioan tông đồ, thánh Longin và thánh nữ Maria Madalene.
 |
Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm |
Đức Mẹ Maria với hai bàn tay chắp lại, đầu đội vương miện,
đứng ngay chính giữa công trường Lộ Đức, mặt hướng về phía đền thánh Mân Côi, là‘’điểm hẹn dễ nhận’’của các đoàn thể, và
các cá nhân. Lễ thánh hiến tượng Đức Mẹ
Maria và vương miện diễn ra ngày 3 tháng 7 năm 1876.
Ba đền thánh mang tên:
Upper Basilica ‘’Đền Thánh Đỉnh Cao’’
và còn gọi là‘’Đền Thánh Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội’’, ‘’Đền Thánh Mân
Côi và Đền Thánh Piô 10’’.
‘’Đền Thánh Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội’’ (Upper Basilica) được khởi công xây cất năm 1862, và mở cửa
cho dân chúng đến tham dự các nghi thức tôn giáo ngày 15 tháng 8 năm 1874. Năm 1874, đức thánh cha Piô 9, vị giáo hoàng
ban bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, đã nâng thánh đường này lên bậc
vương cung thánh đường. Bên trong đền thánh
được trang trí lộng lẫy, hoa mỹ, trông rất đẹp, sức chứa vào khoảng 1.000 người. Đức hồng y tổng giám mục Paris, Guibert chủ sự
lễ thánh hiến đền thánh ngày 2 tháng 7 năm 1876.
Crypt ‘’hầm mộ’’
- Lối kiến trúc giống như một ngôi mộ dài, bề ngang 3 mét 20, gồm nhiều hang góc,
tọa lạc chính giữa Upper Basilica và Rosary Bacilica (đền thánh Mân Côi). Nơi đây
‘’Đức Giêsu Kitô ẩn mình’’ trong Nhà
Tạm, hằng đón mời mọi người đến thăm viếng và an ủi - mỗi ngày, từ sáng sớm tới đêm khuya. Cryt là nguyện đường được xây
cất và hoàn tất đầu tiên ở Lộ Đức (năm 1863-1866), ngay trên hang đá
Massabielle, nơi Đức Maria hiện ra. Phía
trên cửa vào nguyện đường, người ta thấy bức ảnh đức thánh cha Piô 11, vị giáo
hoàng đã ban sắc lệnh kêu gọi giáo dân năng rước Mình Thánh Chúa. Trước khi lên đường gia nhập tập viện,
Bernadette đã đến tham dự lễ thánh hiến nguyện đường, được tổ chức vào ngày 19
tháng 5 năm 1866.
Rosary Basilica ‘’Đền
Thánh Mân Côi’’ được khởi công xây cất năm 1883, khánh thành năm 1889, và
thánh hiến năm 1901. Đức giáo hoàng Piô
11 đã nâng thánh đường này lên bậc đền thánh vào năm 1929. Đền thánh này không thiết kế lối vào cho bệnh
nhân tàn phế, nằm hoặc ngồi trên xe lăn.
Ngay trên lối vào, người ta thấy trưng bày tượng Đức Nữ Đồng Trinh
Maria ẵm Chúa Hài Đồng, đang trao cỗ tràng hạt cho thánh Đa Minh, mô tả việc
truyền bá Kinh Mân Côi. Diện tích đền thánh
là 52 mét và 48 mét, sức chứa là 2.500 người.
Bên trong đền thánh chúng tôi ghi nhận có 15 bàn thờ đặt dưới 15 bức
tranh khảm cẩn, diễn tả 15 mầu nhiệm Kinh Mân Côi, trông rất thích thú, khơi động
lòng đạo đức của khách thưởng lãm cách mãnh liệt!
Từ công trường nhìn lên phía đền thánh, người ta khó có thể
nhận ra đó là ba ngôi thánh đường, kiến
trúc khác biệt, và vào các thời điểm khác nhau, dưới một ngọn tháp chung cao 70
mét.
Điểm đáng ghi nhận thứ nhất là, vào mỗi buổi chiều, sau khi
rước, kiệu Mình Thánh Chúa đều chúc lành cho các bệnh nhân tề tựu tại công trường,
trước đền thánh.
Điểm đáng ghi nhận thứ hai là, các tấm bảng tạ ơn, hầu như đã
phủ kín các bức tường hai đền thánh – Basilica, và Crypt nêu trên.
Đền Thánh Piô 10,
toạ lạc ở phía tay phải, nếu từ Đền Thánh Mân Côi đi về hướng cổng St. Michael. Đền Thánh Piô 10 gồm 6 lối ra vào, dễ dàng di
chuyển các bệnh nhân, nằm hoặc ngồi trên xe lăn. Diện tích Đền Thánh này gồm 210 mét chiều dài
và 81 mét chiều rộng, sức chứa là 27.000 người.
Thánh lễ 9 giờ sáng các Chúa Nhật và thứ tư, cũng như các nghi thức phụng
vụ vào buổi chiều những ngày mưa, đều cử hành trong Đền Thờ thánh Piô 10. Bàn thờ đặt ngay chính giữa Đền Thánh. Kiến trúc Đền Thánh tựa như hình chiếc tầu
thuỷ lật ngược lên trời.
Thánh đường St. Bernadette xây cất đúng vị trí Bernadette đứng
- ở phiá bên kia sông Gave, đối diện hang đá – khi Đức Maria hiện ra lần cuối cùng
và nói lời từ biệt mọi người hiện diện, vào ngày 16 tháng 7 năm 1858. Thánh đường được thánh hiến nhân dịp lễ Truyền
Tin, 25 tháng 3 năm 1988. Thánh đường này
rộng 100 mét x 80 mét; sức chứa là 5.000 người.
Theo lời chỉ bảo của Đức
Maria, khách hành hương thường đến lấy nước từ các vòi cung cấp đặt tại hang đá
để uống, và sau đó chứa vào bình, đem về nhà sử dụng khi gia đình có người lâm
bệnh, hoặc làm qùa cho những người thân quen, chưa có dịp hành hương Lộ Đức. Ý nghĩ việc uống và tắm nước mạch Lộ Đức:
- Dấu chỉ tình yêu vô biên của Đức Giêsu; Đấng đã hy sinh mạng sống mình
cho ‘’các tội nhân’’.
- Dấu chỉ Bí Tích Rửa tội giúp chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
- Dấu chỉ Bí Tích Giải tội mà Chúa ban ơn tha thứ, thanh luyện tâm hồn,
giúp chúng ta hòa giải với Chúa và với tha nhân.
Uống nước này, nhắc chúng ta
nhớ lời Đức Giêsu nói: ‘’Ai khát hãy đến cùng Ta mà uống’’, ‘’Và nước Tôi cho giúp người uống trở nên
một mạch vọt lên, đem lại sự sống đời đời’’(Gioan 4,7-4,14). Với những lời kia, Đức Giêsu ám chỉ Thánh Thần
sẽ ngự đến với những ai tin vào danh thánh Người. Trong dịp hành hương Lộ Đức,
đức thánh cha Gioan Phaolô II đã uống một ly nước từ mạch này.
Tắm Nước Mạch Lộ Đức.
Tắm nước mạch Lộ Đức là dấu chỉ bề ngoài, phản ánh Lời Chúa
kêu gọi mỗi người, hãy thực sự tắm rửa tâm hồn mình trong giếng tình yêu của Người. Trước khi tham dự việc
tắm thân xác trong nước mạch Lộ Đức, chúng tôi đã dành một buổi sáng dò xét lương
tâm để giao hòa với Chúa, qua bí tích giải tội, cũng là để thực hiện lòng tôn
sùng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, nhân ngày thứ bảy đầu tháng.
Tất cả có 16 bồn tắm,
thiết lập từ năm 1955 – 8 gian dành cho phái nữ, 8 gian dành cho phái nam – đặt
cách hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chừng 30 mét, theo chiều xuôi dòng nước chảy. Mỗi ngày có hàng trăm người được dìm mình xuống
tắm (hai tiếng buổi sáng và hai tiếng buổi chiều). Bệnh nhân được ưu tiên, nên các gian dành cho phụ nữ, các bà thường phải đợi
nhiều giờ, có khi vài ngày, vì trong số khách hành hương, phụ nữ thường chiếm
đa số. Phái nữ tật bệnh nằm hoặc ngồi trên
xe lăn cũng nhiều hơn phái nam! Bác sĩ
khuyên những người mắc bệnh tim không nên tắm nước mạch Lộ Đức, vì nhiệt độ nước
rất thấp, chỉ khoảng 15 độ C. Khi thân mình
đã ở trong trạng thái trần trụi, thì phải choàng một chiếc khăn lớn, theo lời
viên hướng dẫn, ‘’tắm viên’’ lội xuống
bồn nước, thầm thĩ cầu nguyện với Đức Maria và thánh nữ Bernadette, qua nước mạch
Lộ Đức, rửa sạch tội lỗi cũng như bệnh tật thể lý và tinh thần của các cá nhân liên hệ; đoạn hai viên phục dịch lực
lưỡng, nhã nhặn dìm ngửa ‘’tắm viên’’
xuống nước lạnh, trong thời gian từ 3 đến 5 phút. Nước trong bồn tắm mỗi ngày được thay hai lần. Cho đến nay, chưa ai bị nhiễm độc do tắm
chung trong một bồn nước với thể tích giới hạn như vậy. Nước cung cấp cho các bồn tắm cũng như trên
hai mươi vòi nước uống từ mạch do Đức Maria hướng dẫn Bernadette
bới đất, khi hiện ra ngày 25 tháng 02 năm 1856, có thể cho ra 122.400 lít nước
mỗi ngày (85 lít mỗi phút hoặc 5.000 lít mỗi giờ). Nguồn nước dẫn tới một bể chứa với dung tích
450.000 lít đặt tại phía bắc đền thánh Mân Côi, cung ứng cho số lượng khách
hành hương vào thời điểm đông đảo nhất.
Đây là nước thiên nhiên, giống như các mạch khác xuất phát từ một khe đá
do nguồn nước tuôn xuống từ các đỉnh núi cao.
Lạ lùng ở chỗ là tự Bernadette (loài người) không thể tìm được, nếu
không có bàn tay chỉ dẫn của Đức Mẹ.
Đàng Thánh Giá
15 chặng đàng Thánh Giá đặt trên triền núi Espelugues, nằm
ở bên kia đường, phía trái đền thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Upper Bacilica)
gọi là đồi Calvariô. Các chặng đàng
Thánh Giá đã được thánh hiến ngày 05 tháng 10 năm 1901, và khánh thành vào ngày
14 tháng 09 năm 1912. Các tượng tại đàng
Thánh Giá đúc như người thật, cao 2 mét, giúp những người đi dàng Thánh Giá dễ
nâng tâm hồn lên với Đấng đã chịu thương khó và chịu chết vì tội lỗi thế
nhân. Tôi vô cùng xúc động khi chiêm
ngắm tượng Đức Mẹ ôm xác Đức Giêsu vào lòng, sau khi Người được hạ xuống từ
trên cây thập giá. Không cảnh nào thương
tâm và đau đớn bằng giây phút ấy, nhưng lại diễn đạt trọn vẹn một tình yêu vô
bờ bến đối với nhân loại tội lỗi. Để
thực thi các hành động hãm mình, khách hành hương được mời gọi đi theo dấu chân
của Đức Giêsu Cứu Thế qua những chặng đàng Thánh Giá từ dinh tổng trấn Philatô,
tại nơi thấp nhất của cổ thành Giêrusalem lên đến đồi Calvariô, còn gọi là
Golgôta hoặc Núi Sọ. Đàng Thánh Giá là
con đường Tình Yêu giúp chúng ta vượt thắng mọi đau khổ và sự chết, vì tin
tưởng vào Thiên Chúa, Vị Chủ Tế Đời Sống.
Phép Lạ
Nói đến Lộ Đức là người ta
liên tưởng tới Phép Lạ và Bệnh Nhân.
Các đặc tính nêu trên gắn kết với nhau thành lịch sử nối dài của
biến cố Đức Mẹ Mặc Khải các Sứ Điệp ở Lộ Đức.
Một phép lạ đầu tiên xảy ra tại Lộ Đức ngày 01 tháng 03 năm 1858: Sau khi
cầu nguyện, Catherine Latapie nhúng cánh tay phải bất toại xuống vũng nước mạch
ở hang đá Massabielle, tức thì tật bệnh liền biến mất. Kể từ đó, Hội Đồng Y Khoa (gồm các bác sĩ
và chuyên viên thuộc nhiều tín ngưỡng, kể cả thành phần vô thần, ghi nhận là có
hàng ngàn chứng bệnh khác nhau đã được chữa lành. Theo dư luận quần chúng: cứ 100 bệnh nhân đến
Lộ Đức cầu nguyện, xin ơn, thì có 5 người được khỏi bệnh. Tuy nhiên, vì tính cách thận trọng về vấn đề ‘’phép lạ’’ nên Giáo Hội chỉ mới chính
thức công bố có 65 vụ được chữa lành mà thôi.
Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, phép lạ không phải là
một sự việc kỳ diệu đơn thuần, nhưng chính vì lòng yêu mến, Thiên Chúa muốn
nhắc chúng ta là hãy đặt niềm tin vào Người, thì Người sẽ cứu chúng ta thoát
khỏi mọi sự dữ và không phải chết.
Chúng tôi đến thăm tất cả các địa điểm liên quan tới đời
sống thuở thiếu thời của Bernadette như:
* Batrès
(nơi Bernadetta trú ngụ lúc mới được 10 tháng tuổi, rồi trở lại chăn cừu và
giúp việc nhà cho gia đình người vú nuôi Maria Lagues vào lúc 14 tuổi);
* Bolly Mill (nơi Bernadette sinh ra và sống
10 năm hồn nhiên, hạnh phúc bên cha mẹ và các em tại nhà máy xay bột);
* Cachot (diện tích 16 mét vuông - trước kia là một nhà tù, nơi gia đình
Bernadette trú ngụ –, sau khi bị chủ mới nhà máy xay bột Boly Mill trục xuất vì
không đủ trả tiền ở trọ);
* Nhà thờ giáo xứ (nơi Bernadette chịu phép
Rửa tội vào ngày 09 tháng 01 năm 1844, dưới hầm nhà thờ là mồ chôn xác cha Abbé
Peyramale, chính xứ vào thời điểm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức);
* Nhà thương Lộ Đức (trước kia là Viện Tế
Bần của các Nữ tu Dòng Bác Ái, nơi Bernadette học giáo lý và xưng tội lần đầu
vào ngày 03 tháng 06 năm 1858, đồng thời cũng là nơi các Nữ Tu bác Ái dạy
Bernadette học suốt 6 năm trước khi trở thành tập Sinh tại Nevers;
* Cuối cùng là Nghĩa Trang Lộ Đức (gần cầu Vieux, nơi
chôn hài cốt ba đời gia đình Soubirous).
Tại mỗi địa điểm thăm viếng,
tôi đều dừng lại trước tượng Đức Mẹ Lộ Đức hoặc thánh Bernadette, dâng lên Đức
Maria 10 kinh kính mừng, cầu nguyện cho chính mình, và những người thân yêu,
nhất là các bệnh nhân đau khổ đang có mặt ở Lộ Đức.
So với thời kỳ Đức Mẹ hiện ra
cùng Bernadette thì thị xã Lộ Đức hiện nay đã hoàn toàn đổi da thay thịt: đời sống dân địa phương mỗi ngày càng trở nên
phong phú, nhờ khách hành hương; các cơ sở thuộc trung tâm Lộ Đức không ngừng
đổi mới, đường xá sạch sẽ, thứ tự, ngăn nắp với đầy đủ tiện nghi vật chất cần thiết, sắp
đặt qui mô, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hành hương từ khắp năm châu đổ
về. Các bệnh nhân thì được biệt
đãi. Hiện nay có năm sáu khu dành tiếp
đón và chăm sóc bệnh nhân thập phương.
Trung tâm Lộ Đức còn kêu gọi khách hành hương đóng góp để xây cất thêm
một bệnh viện gồm 904 giường dành cho bệnh nhân.
Giữa bầu khí nhộn nhịp gần như
hỗn tạp tại khuôn viên Lộ Đức gồm đủ mọi tầng lớp xã hội, người không quen đời sống chiêm niệm sẽ dễ dàng bị cuốn hút vào ‘’nhịp thở mạnh’’ của thành phần thích gây ồn ào náo nhiệt! Nhiều người trong các nhóm hành hương chỉ
ngược xuôi lo việc quay phim, chụp hình kỷ niệm, gây phiền hà cho những buổi
cầu nguyện chung, hoặc ngồi trong các quán nhậu tán gẫu, cười đùa, gây náo động
trong lúc rước kiệu Đức Mẹ hay Mình Thánh Chúa.
Thăm dò quan niệm của họ, chúng tôi được biết, phần đông trong số những
người này đã từng đến Lộ Đức nhiều lần chỉ để ‘’mua vui’’ hoặc hy vọng và trông chờ một phép lạ sẽ xảy ra cho các
bệnh nhân, chứ dường như không chuẩn bị kỹ lưỡng tâm hồn để lắng nghe lời nhắn
bảo của Đức Mẹ và thực thi ý Chúa. Ngày
xưa, dân Do Thái ước ao được chứng kiến việc Đức Giêsu làm các dấu lạ, nhưng họ
thất vọng… vì thiếu lòng tin!!!
Trong thời gian lưu trú tại Lộ
Đức, tôi mong được nhập một đoàn hành hương người Việt để sinh hoạt chung với
họ, nhưng chỉ thấy vài ba cá nhân đi riêng lẻ.
Ba ngày sau cùng, trước khi rời Lộ Đức, bất chợt chúng tôi gặp phái đoàn
hành hương từ Hoa Kỳ vừa rời Rôma và Fatima (mỗi
nơi 2 ngày) – ghé thăm Lộ Đức.
Cuộc hành hương Lộ Đức của tôi
thật đầy đủ, trọn vẹn tình nghĩa Mẹ-Con
gặp gỡ nhau. Không được hân hạnh Đức Mẹ
thân hiện, nhưng với lòng chân thành bộc lộ và cầu xin, tôi cảm thấy nội tâm
thực sự có nhiều thay đổi… Trước một giờ đồng hồ rời khỏi Lộ Đức, chấm dứt
những ngày tại đất thánh Lộ Đức, tôi đến trước hang đá, nhìn lên tượng Đức Mẹ
và thầm thĩ đọc những lời đã ghi chép sẵn trên giấy: ‘’Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội rất kính yêu, hôm
nay con lên đường trở về với đời sống thường ngày. Trước tượng thánh Mẹ, con xin nói lời
tạm biệt Mẹ, xin Mẹ chúc lành và ban bình an cho cá nhân con và những người cùng
chuyến hành hương Lộ Đức với con. Con hết
lòng cảm tạ Mẹ, vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ, con đã tìm gặp được chính mình, để
hiệp nhất trong Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, nhất là trong thời gian ở tại Lộ Đức. Con xin giữ lại trong tâm hồn hình ảnh đẹp đẽ
này - suốt đời con. Con xin phó thác và
tin cậy vào lòng nhân từ bao la của Mẹ…
Bên cạnh hàng ngàn bệnh nhân: bất toại, mắt lòa, tai điếc, và muôn vàn
chứng nan y khác…, đang than van, kêu khóc, rên xiết vì đau đớn, con thấy mình
tội lỗi, mà vẫn được Chúa ban cho thân xác lành lặn. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho con biết dùng tài trí
nhỏ mọn và sức khỏe mỏng dòn này, để tạo cơ hội loan truyền việc tôn sùng Trái
Tim Vẹn Sạch Mẹ và Trái Tim Con Cực Thánh Mẹ…
Con xin tạm biệt Mẹ yêu dấu!’’