Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016

THIÊN ĐÀNG (NƯỚC TRỜI) – NIỀM HY VỌNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU



THIÊN ĐÀNG – 
NIỀM HY VỌNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU



            Lễ Đức Giêsu lên Trời hay Lễ Thăng Thiên nhắc người Kitô hữu điều gì?  Phải chăng, đó là dịp’’xin cho được ái mộ những sự trên trời?’’ được thể hiện. Vậy Trời đối với người Kitô hữu là gì?  Trời có phải là nơi Thiên Chúa cư ngụ không? (Nước) Trời hay Thiên Đàng và Địa Đàng cũng là một chăng?  Và Thiên Thần có phải là các vật thể để trang trí trong mùa giáng sinh chăng?  

Thiên Đàng - Nơi Thiên Chúa Ngự Trị

1.  Nước Trời hay Thiên Đàng Là Nơi Thiên Chúa Ngự Trị
          Thiên Đàng hoàn toàn trái ngược với trái đất, nơi ghi đậm những bất hạnh, đau khổ, chết chóc và hủy diệt.  Còn Thiên Đáng thì sạch sẽ và không hư nát; đó là nơi được hiểu là ngoài tầm tay với của con người.  Tuy nhiên Thiên Đàng là nơi giữ một địa vị quan trọng đối với cuộc sống ở trần gian, bởi vì chúng ta thường coi đó là nơi Thiên Chúa ngự trị.
          Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, có thể hiểu một cách rất rõ ràng qua trình thuật Tháp Baben (Sáng Thế 11,1-9): Thiên Chúa rời bỏ Thiên Đàng trong một khoảng thời gian thật ngắn để xuống trái đất xem thành và tháp do loài người đang xây, rồi Người làm cho tiếng nói của họ trở nên xáo trộn, đồng thời phân tán họ ra khắp mọi nơi.  Thiên Đàng thường được diễn giải là nơi Thiên Chúa cư ngụ với một ý nghĩa tượng trưng hơn – như một biểu hiệu về tính siêu việt của Thiên Chúa và trạng thái tôn cao tổng quát liên quan tới Trái Đất và công trình sáng tạo.

2.-  Thiên Thần  - Cư Dân Của Thiên Đàng
          Vào mùa giáng sinh, nhiều gia đình trên mặt đất trang trí nơi nhà mình những thiên thần – trên cây giáng sinh, ở cửa sổ và trong các gian phòng.  Dù sao thì đó cũng là hình thức xác minh rằng các thiên thần đang cư ngụ cùng Thiên Chúa ở trong Thiên Đàng.  Từ ngữ thiên thần xuất phát từ tiếng hy lạp ’’ángelos’’, nghĩa chính xác là các sứ giả, và trong Kitô giáo thì các thiên thần cũng thường được coi là cánh tay nối dài của Thiên Chúa.   Trong Kinh Thánh, rất nhiều thí dụ nói tới các tin tức từ Thiên Chúa đã được chuyển đạt do các tạo vật có cánh.     
          Trường hợp điển hình là có một thiên thần đã truyền tin cho Đức Maria là bà sẽ sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu (Luca 1,26-38), và cũng một thiên thần đã truyền tin cho Abraham là bà Sara sẽ sinh hạ một con trai và đặt tên là Isaac (Sáng Thế 18,9-15).  Thiên thần không chỉ là những sứ giả mà còn đóng vai những người can thiệp nữa; thậm chí là có một thiên thần, sau này đã ngăn cản việc Abraham giết con trai mình là Isaac (Sáng Thế 29,9-14).

Địa Đàng-Nơi Ađam và Eva Trú Ngục

3.-  Có Sự Khác Biệt Giữa Thiên Đàng và Địa Đàng Không?
          Trong Kitô giáo, khái niệm về Thiên Đàng và Địa Đàng có những tương quan chặt chẽ với nhau.  Từ  nguyên thủy, Ađam và Eva đã sống trong an bình và hòa hợp bên nhau trong vườn Địa Đàng cho đến ngày sa ngã, vì ông bà đã bị con rắn dụ dỗ ăn loại trái cây biết lành biết dữ (Sáng Thế 3,1-7). Trong các bản văn thuộc loại sách khải huyền của người Do Thái thời cận đại, chúng ta tìm thấy những điều đáng kỳ vọng là, Địa Đàng nguyên thủy sẽ tái xuất hiện vào thời sau hết, và như thế quá khứ và tương lai liên kết với nhau.
          Những điều kỳ vọng này được Kitô giáo tiếp nhận, nhưng Địa Đàng trong tương lai này thường được gọi là Nước Thiên Chúa, nơi tất cả những kẻ được cứu độ và các linh hồn công chính gặp gỡ nhau. Trong bài giảng của mình, Đức Giêsu cho biết Nước Thiên Chúa đã đến gần, và lúc đó sẽ có những dấu chỉ nhất định, đồng thời Người cũng cảnh báo rằng, Nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện vào thời sau hết.  Điều này đã được trình bày rõ ràng tại chương 1, câu 15, trong Tin Mừng của thánh Máccô, một đoạn văn nền tảng buộc chúng ta cần am tường bài giảng và sứ điệp khẩn thiết của Đức Giêsu: Thời kỳ đã mãn, Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.  Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!                  

4.  Ai Được Vào Thiên Đàng
          Một điều gần như bất khả thi quyết định là ai sẽ lên thiên đàng và ai không; tuy nhiên đại đa số đều nghĩ rằng thiên đàng chắc chắn không có chỗ cho những kẻ như Hitler và Stalin, nhưng phải chăng tấm vé vào thiên đàng đã được ban phát sẵn cách nhưng không hay chỉ dành cho những người xứng đáng do những việc họ làm khi còn ở trần gian.
          Martin Luther (nhà cải cách Kitô giáo) cho rằng, con người không thể tự cứu rỗi được mình. Việc ấy là do ân sủng của Thiên Chúa và lòng tin nơi mỗi người.  Trái lại, người tín hữu công giáo xác tín rằng những việc làm tốt lành giữ một vị trí quan trọng đối với ơn cứu độ.  Nói chung, chúng ta phải thừa nhận rằng, việc ai được lên thiên đàng và tại sao, có lẽ vẫn là vấn đề còn nằm trong bóng tối.

5.  Thiên Đàng Trong Nghệ Thuật
          Quan niệm của chúng ta về Thiên Đàng là do các xu hướng tốt lành bắt nguồn từ Kinh Thánh, mà dường như nghệ thuật có ảnh hưởng lớn trong những suy nghĩ của chúng ta về Thiên Đàng và Địa Đàng.  Một trong các tác phẩm có ảnh hưởng nhất cần kể tới là ’’The Divine Comedy- Kịch Thánh’’ do ngh nhân người Ý Dante Alighieri viết vào đầu thập niên 1300, và tác phẩm này đã đóng một vai trò quan trọng giúp con người hiểu biết về cuộc sống mai hậu và một khái niệm về Thiên Đáng và Hỏa Ngục.  Ngoài ra, tác phẩm này còn là nguồn cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ khác, và chính thế mà kể từ đó đã nảy sinh thêm biết bao bức tranh phác họa về Thiên Đàng và Địa Đàng.
          Bức tranh trang trí trên trần nhà nguyện Sixtine (tại điện Vatican) của Michelangelos diễn tả việc tạo dựng Ađam, được kể là một trong những tác phẩm nổi tiếng và đáng mến nhất.  Tác phẩm nghệ thuật này chứng minh rõ Nước Trời là nơi Thiên Chúa cư ngụ, từ nơi đó Người cai quản lịch sử nhân loại vận hành tại trần thế, mà hằng năm có hàng nhiều triệu người tỏ lòng ngưỡng mộ khi đặt chân tới Vatican.  Một tác phẩm ít quen biết hơn, nhưng cũng không kém phần được yêu thích, đó là bài hát mang tên ’’Heaven’s dog - Con Chó Nước Trời’’ của Teddy Edelmanns, khiến nhiều cá nhân, đặc biệt nhất là những người bạn của thú vật thường thắc mắc:  như vậy người ta cũng được đem chó vào trong Thiên Đàng sao?
          Câu trả lời:  Ai mà biết được?  Nhưng cũng rất có thể.
             

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016

ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC - SỨ ĐIỆP VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI



ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
SỨ ĐIỆP VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

 NGÀY 25.03.1858

Các Địa Điểm Liên Quan Đặc Biệt Tới

Những Lần Đức Mẹ Hiện Ra Ở Lộ Đức





          Cùng với đoàn hành hương địa phương, trải qua một không trình dài 1.820 km, chúng tôi đáp xuống phi trường quốc tế Tarbès – cách Lộ Đức (Lourdes) 18 km, vào một ngày trong tháng 10.

          Buổi chiều cùng ngày, chúng tôi theo dòng người tấp nập như thác lũ, đứng theo hàng lối, từng đoàn thể và mang theo cờ xí, huy hiệu, thứ tự tuốn về một hướng, theo lời chỉ dẫn của ban tổ chức… dần dần và mãi tới đôi ngày sau, tôi mới có thể định rõ vị thế của mình với tư cách là người hành hương tới Lộ Đức.

Que soy era Immacualte Counceptiou




 

          Được biết, mỗi năm có tới 6 triệu khách hành hương đặt chân tới Lộ Đức, trong đó gồm chừng bảy mươi nghìn bệnh nhân thể lý, cùng với con số trợ tá tương tự, từ trên một trăm năm mươi quốc gia khác nhau trên thế giới…  Chuyện gì đã xảy ra đối với môt địa danh nhỏ bé và hẻo lánh như Lộ Đức, mà có thể thu hút một số du khách đông đảo như vậy, suốt hơn một trăm sáu mươi năm qua?

          Câu trả lời rất giản dị:  Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ toàn thể nhân loại đã hiện ra với một cô gái 14 tuổi, tên là Barnatette Soubirous, nơi hang đá hình qủa trám Massabielle, thuộc thị xã Lourdes (Lộ Đức), với mục đích nhắn bảo chúng ta các điều bí ẩn, đem lại hạnh phúc cho con người.

          Lộ Đức là một thị xã nhỏ, nằm dưới chân dãy Pyrénees, bị chế ngự bởi một lâu đài cổ kính, gồm 4.135 cư dân, vào năm 1958.  Dân số Lộ Đức hiện nay tăng lên trên dưới 20.000 người, mang một bộ mặt thương mại phồn thịnh mỹ lệ, giống như các thị trấn khác thuộc miền Tây Nam nước Pháp; đặc biệt, đời sống Kitô giáo quanh năm, luôn sầm uất như những ngày hội hoa đăng.  Để giải quyết nhu cầu dịch vụ cho số lượng khách hành hương đông đảo hằng năm, Lộ Đức có rất nhiều quán ăn, giải trí lành mạnh, vô số tiệm bán các tặng vật tôn giáo, nằm ở hai bên đường, trên các dãy phố.  Lộ Đức được kể là thị xã quan trọng thứ hai về ngành khách sạn tại nước Pháp, gồm trên 360 khách sạn.  Ngoài ra còn có 20 địa điểm lều trại.  Mỗi năm có khoảng 7 triệu thư tín và bưu thiếp gửi từ Lộ Đức đi các nơi trên toàn cầu.

          Bernadette Soubirous sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844 tại nhà máy xay bột - Boly Mill – thân phụ là chủ nhà máy; Bernadette là chị cả trong gia đình, chết 4, sống 5 – Bernadette, Antoinette, Jean-Maria, Justin và Pierre.  Thân phụ của Bernadette tên là Francois Soubirous, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1807 tại Lộ Đức; và thân mẫu tên là Louise Casterot, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1825, cũng tại Lộ Đức:  Hai ông bà kết hôn ngày 9 tháng 1 năm 1843.  Ông qua đời ngày 4 tháng 3 năm 1871, và bà qua đời ngày 8 tháng 12 năm 1866.  Bà là người đàn bà rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái.

          Khi Bernadette được 10 tháng, thì thân mẫu bị một tai nạn bất ngờ không còn sữa cho con bú nữa, khiến Bernadette phải đến ở với một người bạn của mẹ, là bà Marie Lagues tại Batrès, cách Lộ Đức 4 km.  Lên 2 tuổi – tháng 4 năm 1846, Bernadette trở lại Lộ Đức sống chung với cha mẹ.

Bernadette Soubirous

          Cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 19 giúp một thiểu số trở nên giàu có, nhưng lại đưa hàng ngàn người rơi vào cảnh sa sút, trong đó gia đình Soubirous mang chung số phận hẩm hiu, đến nỗi phải bán nhà máy xay bột cho người khác.  Gia đình Soubirous đi dần xuống vực thẳm của nghèo túng, từ lao động từng giờ đến tình trạng thất nghệp, nhưng vì lòng quảng đại, họ vẫn giúp đỡ những người khổ cực, túng nghèo hơn, đến nỗi chuốc lấy nợ nần, không trả được tiền mướn nhà cho chủ mới, nên ngày 24 tháng 6 năm 1854, gia đình đã bị trục xuất.  Francois phải cậy nhờ người cậu can thiệp để có thể vào ở tại ‘’Cachot’’, một nơi hết sức cùng cực; vì đó là một nhà tù nổi tiếng trước kia của thị xã.  Tuy túng thiếu, nhưng gia đình Soubirous luôn sống thuận hòa, vui vẻ, không bao giờ to tiếng với nhau.

          Mùa thu năm 1855, dịch thương hàn hoành hành trong vùng Lộ Đức, cũng không quên thăm viếng Bernadette; dù thoát chết, nhưng Bernadette chịu bệnh siễn kinh niên, đến nỗi mãi năm 14 tuổi Bernadette vẫn chưa có thể cắp sách đến trường học, cũng như tham dự các lớp giáo lý vỡ lòng.  Bernadette sống 10 năm yên vui và hạnh phúc bên cha mẹ tại nhà máy xay bột.  Tháng 11 năm 1856, ông bà Soubirous lại phải gửi Bernadette đến giúp việc nhà và chăn cừu cho gia đình vú nuôi Maria Lagues tại Batrès.  Ngày 21 tháng 1 năm 1858, Bernadette trở về sống cuộc đời nghèo khổ với cha mẹ ở‘’Cachot’’.

          Từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858, Đức Trinh Nữ Đồng Trinh Maria đã hiện ra với Bernadette tất cả 18 lần. Ngày 15 tháng 7 năm 1858, do cơn siễn tái hoành hành dữ dội, Bernadette được nhận vào Viện Tế Bần ở Lộ Đức, dưới quyền quản trị của các Nữ Tu Dòng Bác Ái thành Nervers.  Ngày 4 tháng 7 năm 1866, Bernadette rời Viện Tế Bần, và vào Tập Viện Nữ Tu Bác Ái thành Nervers.  Bernadette khấn trọn đời ngày 30 tháng 10 năm 1867, và tiếp tục sống đời hãm mình, ăn chay, cầu nguyện trong tu viện suốt 12 năm. 

Bệnh siễn đã kết liễu cuộc đời của Bernadette vào ngày 16 tháng 4 năm 1879, lúc 35 tuổi; xác được ướp khô trong quan tài kính, đặt tại nguyện đường Tu Viện Bác Ái thánh Gilgard ở Nervers, cách Lộ Đức 800 km, dân chúng có thể đến kính viếng.  Đức Giáo Hoàng Piô 11 đã phong Bernadette lên bậc hiển thánh ngày 8 tháng 12 năm 1933.

Các sứ điệp của Đức Maria trao cho Bernadette trong 18 lần thân hiện gồm 4 điều cơ bản, phản ánh Lời Chúa, ghi trong Kinh Thánh:



Sống Nghèo Khó (Mátthêu 5,3-12).-

          Sứ điệp này thích ứng với thời đại chúng ta đang sống, giữa một xã hội tiêu thụ, bất công, hao phí rất nhiều tài nguyên thiên nhiên.  Đức Mẹ kêu gọi thành phần giầu có, của cải dư thừa hãy sống giản dị, hầu tạo cơ hội chia sẻ cho những kẻ túng nghèo, khổ cực, bệnh tật và tham gia đấu tranh cho công lý và hoà bình.  ‘’Những gì thế gian cho là yếu kém, là nhỏ mọn thì Thiên Chúa đã chọn’’ (1 Corintô 1,27); ‘’Chúa Giêsu Kitô vốn giầu sang phú qúi, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó…’’(2 Corintô 8,9).  Hành hương Lộ Đức là đem theo cuộc sống yếu hèn và đau khổ của mình dâng cho Đức Maria, và đặt hy vọng vào lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa, hầu được tha thứ và đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô.



Cầu Nguyện.-

          Cầu nguyện là chúng ta tạo dịp gặp gỡ  và đối thoại với Chúa, để nhận ra sự nghèo khó của mình.  Cầu nguyện, chúng ta mới thực sự thấy rõ mình và tha nhân.  Lối cầu nguyện truyền thống của người công giáo là lần hạt Mân Côi, đồng thời suy ngẫm sâu xa các mầu nhiệm qua phương cách ‘’trái tim trực diện với trái tim’’; cầu nguyện trong thầm lặng và đối thoại với Chúa.  Đức Giêsu nói:  ‘’Khi cầu nguyện, đừng lải nhải như dân ngoại’’(Mátthêu 6,7).



Hãm Mình.-

          Hiện ra với Bernadette, Đức Mẹ nói:  ‘’Con hãy hãm mình, hãm mình, hãm mình để cầu nguyện cho các tội nhân’’.  Đó là một trong các sứ điệp then chốt tại Lộ Đức.  Đức thánh cha Gioan Phaolô II nói:  ‘’Chúng ta được dẫn tới mầu nhiệm ơn cứu chuộc, mà phẩm cách và sự hư hỏng do tội lỗi, chỉ có thể nhận ra được, dưới ánh sáng soi dẫn của thập giá mà thôi’’. Dựa vao lời hướng dẫn của Đức Mẹ hiện ra lần thứ 9, ngày 25 tháng 2 năm 1858, Bernadette đã phát hiện được một mạch nước tuôn chảy từ lòng đất và các khe đá:  ‘’Con hãy qùi gối, cúi xuống hôn đất, ngắt cỏ mà ăn, và cầu nguyện cho các tội nhân.  Lấy nước đó mà uống và rửa ráy.’’  Hãm mình, không chỉ là áp dụng hành vi ép xác, nhưng chính là bày tỏ sự kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Chiên Thiên Chúa ‘’nếm mùi cỏ đắng’’ để gánh ‘’tội thiên hạ’’.



Giáo Hội.-

          Hiện ra lần thứ 13, Đức Maria bảo Bernadette, một cô gái tầm thường, nghèo hèn:  ‘’Con hãy đi nói với các linh mục xây một nguyện đường ở đây để dân chúng tới hành hương’’.  Một kiến trúc mà Đức Maria thực sự muốn là Giáo Hội của dân Chúa.  Chúng ta được mời gọi để trở nên ‘’những viên đá sống động’’ của Giáo Hội (1 Phêrô 2,5).  Mỗi người Kitô hữu đều có chung một trọng trách đối với gia đình, làng xóm, giáo xứ, xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống.


Đức Mẹ Maria hiện ra với Bernadette:
Lần thứ nhất, ngày 11 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không nói gì, chỉ đọc chung với Bernadette 1 chục kinh Mân Côi.  Cùng với em gái là Antoinette và một người bạn tên Jeanne Abbadie, Bernadette đi kiếm củi.  Bernadette kể rằng:  ‘’Đang lúc ngồi trước hang đá Massabielle cởi giầy để lội qua bờ bên kia sông Gave như hai bạn đồng hành khác, bất chợt tôi nghe tiếng gió thổi mạnh.  Đưa mắt nhìn cây cối xung quanh, thấy cành lá không lay động, tôi tiếp tục cởi giầy.  Lại nghe tiếng gió thổi như vậy, tôi ngước mắt về phía hang đá, thấy một Bà mặc áo trắng, trùm khăn mầu xanh da trời, và trên mỗi mu bàn chân có một hoa hồng mầu vàng, cùng mầu với cỗ tràng hạt ở tay Bà …’’

Lần thứ hai, ngày 14 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không nói gì, ngoài việc lần hạt Mân Côi.  Bernadette kể rằng:  ‘’Được phép cha mẹ, tôi cùng với em gái và người bạn gái đi tới hang đá:  Lần này, chúng tôi đem Nước Phép theo.  Đọc 10 kinh kính mừng đầu tiên xong, tôi thấy Bà hiện ra.  Lập tức, tôi rẩy Nước Phép về phiá Bà và nói: nếu Bà là người thay mặt Chúa đến thì ở lại, bằng không thì lui đi.  Bà cười và cúi đầu chào. Càng rẩy Nước Phép, Bà càng cười thêm và cúi đầu chào.  Lần hết một tràng hạt, thì Bà biến mất’’.

Lần thứ ba, ngày 18 tháng 2 năm 1858 - Lần đầu tiên Đức Maria nói. Bernadette kể:  ‘’Một số người khả kính cùng đi với tôi đến hang đá.  Họ đề nghị tôi đem theo giấy bút và xin Bà viết những lời Bà nói xuống giấy.  Tôi làm theo ý họ, nhưng Bà cười và nói: Bà chẳng có điều gì để nói, nên không cần viết xuống giấy.  Bà yêu cầu tôi đến đây mỗi ngày, trong 14 ngày liên tiếp.  Tôi nhận lời. Đoạn Bà thêm rằng, Bà không hứa là sẽ làm cho tôi được sung sướng ở trần gian này, nhưng ở thế giới bên kia.  Tôi trở lại hang đá các ngày trong tuần.  Bà hiện ra với tôi mỗi ngày, ngoại trừ một ngày thứ hai và một ngày thứ sáu’’.

Lần thứ tư, ngày 19 tháng 2 năm 1858 - Lần hiện ra này kéo dài hơn 15 phút.  Đức Maria không nói gì.  Khi đọc hết Kinh Kính Mừng thứ ba thì Bernadette ở vào tình trạng hôn mê (siêu thoát), vẻ mặt đổi sắc thành nhợt nhạt.  Đây là lần thứ nhất và kéo dài đến lần hiện ra thứ 14, vào ngày 3 tháng 3, mỗi khi đến hang đá, Bernadette đều mang một cây Nến Phép thắp sáng trong tay. Kể từ ngày ấy về sau, việc đốt nến tại hang đá Lộ Đức trở thành một truyền thống.

Lần thứ năm, ngày 20 tháng 2 năm 1858 -  Khoảng 30 người cùng có mặt và lần hạt Mân Côi, trong khi Đức Maria hiện ra với Bernadette.  Bernadette ở trạng thái siêu thoát.  Không ai biết nội dung cuộc đàm đạo.  Khi cuộc hiện ra kết thúc, vẻ mặt của Bernadette rất buồn.  Một số người đoán rằng, Đức Maria dậy Bernadette cầu nguyện cho riêng mình.

Lần thứ sáu, ngày 21 tháng 2 năm 1858 – Hàng trăm người tham dự lần hạt Mân Côi như thường lệ.  Bernadette lại ở trong tình trạng siêu thoát.  Cuộc hiện ra chấm dứt và gương mặt Bernadette như vừa trải qua một cơn mê.  Và cũng là lần đầu tiên Bernadette bị viên cảnh sát trưởng Jacomet thẩm vấn dài dòng.

Lần thứ bảy, ngày 23 tháng 2 năm 1858 - Mặc dù bị cha mẹ phản đối, nhưng với sức mạnh nội tâm, ngày thứ hai, 22 tháng 2, Bernadette đã đến hang đá và có đám đông dân chúng tháp tùng, nhưng Đức Maria không hiện ra, khiến mọi người thất vọng chờ đợi.  Bernadette thầm nghĩ, mình đã làm điều gì sai quấy, khiến ‘’Bà mặc áo trắng’’ không hài lòng chăng! 

Được phép cha mẹ, ngày 23 tháng 2, Bernadette đến hang đá, trong khi có hàng trăm người đã trực chờ sẵn, gồm cả các viên chức quan trọng trong thị xã.  Bernadette ở vào trạng thái siêu thoát khoảng một tiếng đồng hồ.  Sau đó, Bernadette tiết lộ, vì chỉ một mình cô nghe được các điều diễn ra trong cuộc hiện ra mà thôi.  Nhân danh khoa học, bác sĩ vô thần Dozous đã theo dõi rất kỹ từng cử chỉ của Bernadette, và xác định rằng, các động mạch và nhịp thở của Bernadette hoàn toàn bình thường trong suốt thời gian Đức Mẹ hiện ra với cô.  Khi ông nâng tay Bernadette lên, thì cô bước lại gần hang đá hơn, bất chợt mặt cô trở nên buồn rầu, hai giọt lệ lớn lăn trên gò má, khiến cảm nhận của ông thay đổi.  Ông tin chắc Bernadette đang tiếp xúc với Đấng vô hình nào đó.
*Lần thứ tám, ngày 24 tháng 2 năm 1858 – Bernadette ở trong tình trạng siêu thoát trước sự hiện diện của hơn 300 người.  Gương mặt Bernadette buồn nhiều hơn vui.  Cô qùi gối xuống, gật rồi lắc đầu, hôn đất.  Sứ điệp của Đức Maria được kể là quan trọng và cấp thiết:  ‘’Hãy sám hối!  Hãy sám hối!  Hãy sám hối!  Hãy cầu nguyện cùng Chúa, thay cho các tội nhân!  Con hãy hôn đất và cầu nguyện cho các tội nhân!’’
Lần thứ chín, ngày 25 tháng 2 năm 1858 -  Mặc dù mưa to, gió lớn, tiết trời lạnh giá, 300 người đã có mặt ở địa điểm hiện ra.  Đức Maria bảo Bernadette tìm đến mạch nước mà uống.  Theo lời chỉ dẫn của Đức Maria, và qua bốn lần lấy tay bới, vén đất, Bernadette đã thấy nguồn nước  Sau lần hiện ra này, tổng trấn Dutour dọa là sẽ đưa Bernadette vào nhà tù, nếu cô vẫn tiếp tục đến hang đá.
Lần thứ mười, ngày 27 tháng 2 năm 1858 - Đức Maria không hiện ra vào ngày 26 tháng 2, Bernadette lần hạt Mân Côi, hôn đất, mắt nhìn lên đỉnh hang đá, nhưng vô vọng.  Đức Maria không hiện ra, mặc dù 600 người có mặt.  Bernadette cảm thấy áy náy và lo âu. 
Nhưng ngày 27 tháng 2, Đức Maria lại hiện ra với Bernadette.  Hôm nay có khoảng 800 người tham dự.  Bernadette ở trong trạng thái siêu thoát, khuôn mặt nhợt nhạt, biến sắc như mấy lần trước; lúc tỏ lộ sự vui mừng, như lọt vào tiên cảnh, khi lại buồn rầu ảm đạm.  Bernadette uống nước, ăn cỏ, làm vài tác động hãm mình như thường lệ.
Lần thứ mười một, ngày 28 tháng 2 năm 1858 - Khoảng 7 giờ sáng thứ bảy, Đức Maria hiện ra.  Hơn 1.000 người có mặt. Bernadette cầu nguyện, hôn đất, đi chuyển bằng đầu gối, một hình thức hãm mình.  Một quân nhân sắc phục cấp cao, chỉ huy trưởng Renault, đồn binh ở Tarbès, cũng có mặt trong ngày hôm nay, để theo dõi ‘’biến cố lạ lùng’’ diễn ra tại Lộ Đức, nhưng điều làm Bernadette ngạc nhiên và khó chịu là khi thánh lễ đại trào Chúa Nhật thứ hai mùa chay kết thúc, cô bị đưa về văn phòng tổng trấn Dutour, để viên dự thẩm Ribes chất vấn.  Dù bị đe dọa bỏ tù, Bernadette luôn luôn trả lời lưu loát các câu hỏi với thái độ thật tự nhiên và bình tĩnh.
Lần thứ mười hai, ngày 1 tháng 3 năm 1858 – Hơn 1.500 người có mặt tại nơi hiện ra, kể cả cha mẹ của Bernadette.  Lần đầu tiên, một linh mục đến và chứng kiến việc Bernadette siêu thoát.  Đức Maria không ban một sứ điệp nào!
Lần thứ mười ba, ngày 2 tháng 3 năm 1858 – Hôm nay là ngày quan trọng nhất lịch sử Lộ Đức.  Khoảng 1.600 người tham dự, trong đó có hai người dì của Bernadette nữa.  Đức Maria bảo Bernadette đi và nói với các linh mục xây một nguyện đường ở đây để có nơi cho các tín hữu đến hành hương.  Bernadette kể:  ‘’Khi tôi đến trao sứ điệp của Đức Maria cho cha xứ, ngài trố mắt nhìn tôi giây lát, đoạn nói với tôi bằng một giọng điệu và thái độ hằn học:  tên Bà ấy là gì?  Tôi trả lời:  Con không biết.  Ngài bảo tôi phải hỏi Bà ấy.  Hôm sau, tôi làm như vậy, nhưng Bà ấy chỉ cười… Cha Peyamale không những chỉ muốn biết tên Bà ấy, mà còn muốn có một bằng chứng cụ thể khác là được nhìn thấy bụi hồng ở chân hang đá nở hoa - giữa mùa đông!’’  
Lần thứ mười bốn, ngày 3 tháng 3 năm 1858 – Theo ước tính của cảnh sát trưởng Jacomet, khoảng hơn 3.000 người đã đến hang đá trực chờ Bernadette.  Như thường lệ, Bernadette lần hạt Mân Côi, nhưng không thấy Đức Maria hiện ra.  Trên đường về nhà, Bernadette tỏ vể rất buồn khổ.  Dân chúng cảm thấy khó chịu vì thất vọng chờ đợi. 

          Sau giờ học, Bernadette cảm nhận được ‘’sự mời gọi bí mật’’ của Đức Maria, nên đã cùng với một người chú trở lại hang đá, và thấy Đức Maria đang chờ đợi…  Khi lần hạt Mân Côi xong, Bernadette hỏi tên, nhưng Đức Maria chỉ nở nụ cười âu yếm!
Lần thứ mười lăm, ngày 4 tháng 3 năm 1858 – Hơn 8.000 người tuốn đến hang đá chờ mong một phép lạ đặc biệt xảy ra, nhưng mọi diễn tiến vẫn không thay đổi.  Bernadette hỏi tên, thì Đức Maria chỉ cười, và một mực muốn xây nguyện đường.  Cha xứ nhấn mạnh:  ‘’Nếu Bà ấy muốn có một nguyện đường thì phải nói tên mình và cho tiền thì mới xây cất được chứ!’’  Bernadette không đến hang đá suốt 20 ngày, từ 5 đến 24 tháng 3 năm 1858.  Cô muốn dồn tâm trí vào việc học giáo lý chuẩn bị rước lễ lần đầu.  Và ngày 18 tháng 3, Bernadette lại bị viên tổng trấn Lộ Đức : Jacques Vital Dutour cùng với cảnh sát trưởng Jacomet thẩm vấn.  
Lần thứ mười sáu, ngày 25 tháng 3 năm 1858 - Thứ năm, 25 tháng 3, lễ Truyền Tin và là ngày trọng đại, có tính cách lịch sử tại Lộ Đức, vì Đức Maria tiết lộ danh tính.  Bernadette kể rằng:  ‘’Ba lần tôi hỏi tên Bà.  Bà chỉ cười.  Tôi tiếp tục hỏi thêm một lần nữa.  Lúc ấy Bà ngước mắt lên Trời, chắp hai bàn tay lại và cầu nguyện, đoạn nói bằng tiếng bản xứ:  Que soy Era Immaculade Councepciou – Ta Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội -.  Đó là lời cuối cùng Bà nói với tôi.  Đôi mắt Bà mầu xanh da trời.  Suốt hơn hai tuần lễ, Bà đã trao cho tôi ba điều bí mật, mà cho đến nay, tôi vẫn còn giữ kín, theo như đã hứa’’. Bernadette kể tiếp:  ‘’Tôi đến nói cho cha Peyamale biết, tên Bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Cha hỏi:  Tên Bà chắc chắn như vậy chứ?  Tôi trả lời là tôi không thể quên một chữ, vì tôi đã nhẩm kỹ suốt đoạn đường.’’  Cha Peyamale cảm thấy thật bối rối trước tên của ‘’Bà Hiện Ra’’, và cấp tốc viết thư trình Đức Giám Mục Tarbès về sự kiện nêu trên.  Với tấm lòng đơn sơ và khiêm tốn, Bernadette luôn xác tín điều mình tiết lộ với cha xứ là sự thật.  Một chi tiết đánh động  lương tâm cha xứ nhất là khi nhắc lại nhiều lần tước hiệu ‘’Ta Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội’’, mặc dù Bernadette nói, nhưng không hiểu ý nghĩa câu đó là gì!  Chỉ một mình Đức Trinh Nữ Maria mới có thẩm quyền xưng mình như thế, và đó chính là lý do đầy đủ để có thể tin lời cô gái, dù khóm hồng không nở hoa, như ước muốn của cha xứ.  Sau này, cha Peyamale đã có lần nói:  ‘’Bụi hồng không nở hoa, nhưng mạch nước đã tuôn trào bất tận’’.  
Lần thứ mười bảy, ngày 7 tháng 4 năm 1858 -  Buổi hiện ra hôm nay có sự chứng kiến của một nhân vật đặc biệt, đó là bác sĩ Dozous, một khoa học gia vô thần, đã từng có mặt vào lần thứ bảy khi Đức Maria hiện ra.  Ông may mắn mục kích ‘’phép lạ cây nến đang cháy’’, nên đã nhận được ơn Chúa.
          Trong lúc siêu thoát, trước sự chứng kiến của đám đông dân chúng, tay phải Bernadette cầm cây nến to, tay trái che trên ngọn nến đang bốc lửa, mà không để lại thương tích.  Bác sĩ Dozous quan sát diễn tiến này, và ghi nhận hiện tượng kia kéo dài khoảng 15 phút.   
*  Lần thứ mười tám, ngày 16 tháng 7 năm 1858 – Bernadette rước Thánh Thể vào lúc 14 tuổi rưỡi.  Mong ước đón nhận Đức Kitô Giêsu của cô đã thành hiện thực.  Hôm nay, còn là ngày lễ kính Đức Mẹ Carmêlô.  Sức mạnh siêu nhiên dường như thúc giục Bernadette tới hang đá.  Cô không biết phải giải quyết thế nào, vì lối vào hang đá bị rào cấm.  Bấy giờ dì của Bernadette là Lucie, phát hiện một con đường mòn khác có thể tới hang đá được.  Xế chiều, cùng với dì và hai người nữa, Bernadette tiến theo chiều dọc, phía bên phải bờ sông Gave, rồi dừng lại nơi cách hàng rào chắn ngang hang đá chừng 140 mét. Đây là lần cuối cùng Bernadette gặp ‘’Bà’’‘’Bà’’ hiện ra, ngay khi Bernadette bắt đầu lần hạt Kinh Mân Côi.  Bernadette rơi vào tình trạng siêu thoát chừng 15 phút, và‘’Bà mặc áo trắng’’ nói lời từ biệt Bernadette.  Các bạn của Bernadette hỏi:  ‘’Làm cách nào bạn có thể nhìn thấy Bà trong khoảng cách xa như vậy, nhất là hang đá đã bị rào cản?’’  Bernadette trả lời:  ‘’Tôi có cảm tưởng như đang đứng trước hang đá, gẫn gũi như các lần trước.  Tôi nhìn thấy Đức Trinh Nữ đẹp hơn mọi lần!’’
          Trong suốt thời gian hành hương Lộ Đức, cùng với các nhóm khác từ khắp nơi trên thế giới, chúng tôi đã tham dự các buổi rước Mình Thánh vào lúc 16 giờ 45 phút hằng ngày, kiệu Đức Mẹ Lộ Đức, và rước nến, lần hạt Mân Côi (truyền thống này bắt đầu từ ngày 27 tháng 8 năm 1887, khởi hành từ hang đá nơi Đức Maria hiện ra), mỗi tối, vào lúc 21 giờ.
          Hôm nay, chúng tôi tham dự thánh lễ do một hồng y, đại diện đức thánh cha chủ sự, vào lúc 9 giờ sáng mỗi chúa nhật và thứ tư, tại đền thánh Piô 10, được thiết dựng ở dưới lòng đất.  Thánh lễ mỗi ngày, bằng ngôn ngữ riêng, nhóm chúng tôi được phép sử dụng một trong các nguyện đường nhỏ tại khuôn viên hành hương, do sự sắp xếp của Ban Điều Hành Hỗn Hợp Quốc Tế. 
          Ngoài các buổi sinh hoạt chung, khách hành hương còn có nhiều thì giờ để cầu nguyện riêng trước hang đá, nơi Đức Maria đã hiện ra, hoặc tự thăm viếng các địa điểm liên hệ khác. Viếng đàng thánh giá và tắm Nước Mạch Lộ Đức cũng là điểm cốt yếu trong chương trình.  Có hai đàng thánh giá:  một dành cho bệnh nhân - đường bằng, và một dành cho những người có đầy đủ sức khỏe:  đường thoải dốc cao. Tất cả các địa điểm cử hành nghi thức tôn giáo đều tập trung trong khuôn viên rộng lớn, thơ mộng.
          Có bảy lối ra vào hang đá - nơi Đức Mẹ Hiện ra. Tuy nhiên, hai lối ra vào chính được đại đa số sử dụng nhiều nhất, vì thế mà số lượng người thường bị dồn đọng, mỗi lần rước Mình Thánh hoặc kiệu Đức Mẹ vừa kết thúc, đó là ‘’Port St. Michael’’ - mỗi bên cổng có một bức tượng thánh thiên thần Michael, và cổng ‘’St. Joseph’’ – thánh Giuse.  Có thể nói, cổng thánh thiên thần Michael là lối ra vào chính, vì, nếu đứng từ cổng này, khách hành hương có thể quan sát toàn diện khuôn viên đền thánh và công trường.
          Từ cổng St. Micael nhìn thẳng vào phía công trường Lộ Đức, khách hành hương thấy rõ đồi Calvariô, cao 12 mét; tượng Đức Giêsu chịu nạn trên thập giá cao 2 mét; bốn tượng khác ở bốn góc là:  Đức Maria, thánh Gioan tông đồ, thánh Longin và thánh nữ Maria Madalene.

Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm


          Đức Mẹ Maria với hai bàn tay chắp lại, đầu đội vương miện, đứng ngay chính giữa công trường Lộ Đức, mặt hướng về phía đền thánh Mân Côi, là‘’điểm hẹn dễ nhận’’của các đoàn thể, và các cá nhân.  Lễ thánh hiến tượng Đức Mẹ Maria và vương miện diễn ra ngày 3 tháng 7 năm 1876.

          Ba đền thánh mang tên:  Upper Basilica ‘’Đền Thánh Đỉnh Cao’’ và còn gọi là‘’Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội’’, ‘’Đền Thánh Mân Côi và Đền Thánh Piô 10’’.

          ‘’Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội’’ (Upper Basilica) được khởi công xây cất năm 1862, và mở cửa cho dân chúng đến tham dự các nghi thức tôn giáo ngày 15 tháng 8 năm 1874.  Năm 1874, đức thánh cha Piô 9, vị giáo hoàng ban bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, đã nâng thánh đường này lên bậc vương cung thánh đường.  Bên trong đền thánh được trang trí lộng lẫy, hoa mỹ, trông rất đẹp, sức chứa vào khoảng 1.000 người. Đức hồng y tổng giám mục Paris, Guibert chủ sự lễ thánh hiến đền thánh ngày 2 tháng 7 năm 1876.

          Crypt ‘’hầm mộ’’ - Lối kiến trúc giống như một ngôi mộ dài, bề ngang 3 mét 20, gồm nhiều hang góc, tọa lạc chính giữa Upper Basilica và Rosary Bacilica (đền thánh Mân Côi).  Nơi đây ‘’Đức Giêsu Kitô ẩn mình’’ trong Nhà Tạm, hằng đón mời mọi người đến thăm viếng và an ủi - mỗi ngày, từ sáng sớm tới đêm khuya. Cryt là nguyện đường được xây cất và hoàn tất đầu tiên ở Lộ Đức (năm 1863-1866), ngay trên hang đá Massabielle, nơi Đức Maria hiện ra.  Phía trên cửa vào nguyện đường, người ta thấy bức ảnh đức thánh cha Piô 11, vị giáo hoàng đã ban sắc lệnh kêu gọi giáo dân năng rước Mình Thánh Chúa.  Trước khi lên đường gia nhập tập viện, Bernadette đã đến tham dự lễ thánh hiến nguyện đường, được tổ chức vào ngày 19 tháng 5 năm 1866.

          Rosary Basilica ‘’Đền Thánh Mân Côi’’ được khởi công xây cất năm 1883, khánh thành năm 1889, và thánh hiến năm 1901.  Đức giáo hoàng Piô 11 đã nâng thánh đường này lên bậc đền thánh vào năm 1929.  Đền thánh này không thiết kế lối vào cho bệnh nhân tàn phế, nằm hoặc ngồi trên xe lăn.  Ngay trên lối vào, người ta thấy trưng bày tượng Đức Nữ Đồng Trinh Maria ẵm Chúa Hài Đồng, đang trao cỗ tràng hạt cho thánh Đa Minh, mô tả việc truyền bá Kinh Mân Côi.  Diện tích đền thánh là 52 mét và 48 mét, sức chứa là 2.500 người.  Bên trong đền thánh chúng tôi ghi nhận có 15 bàn thờ đặt dưới 15 bức tranh khảm cẩn, diễn tả 15 mầu nhiệm Kinh Mân Côi, trông rất thích thú, khơi động lòng đạo đức của khách thưởng lãm cách mãnh liệt!

          Từ công trường nhìn lên phía đền thánh, người ta khó có thể nhận ra đó là ba ngôi thánh đường, kiến trúc khác biệt, và vào các thời điểm khác nhau, dưới một ngọn tháp chung cao 70 mét.

          Điểm đáng ghi nhận thứ nhất là, vào mỗi buổi chiều, sau khi rước, kiệu Mình Thánh Chúa đều chúc lành cho các bệnh nhân tề tựu tại công trường, trước đền thánh.

          Điểm đáng ghi nhận thứ hai là, các tấm bảng tạ ơn, hầu như đã phủ kín các bức tường hai đền thánh – Basilica, và Crypt nêu trên.

          Đền Thánh Piô 10, toạ lạc ở phía tay phải, nếu từ Đền Thánh Mân Côi đi về hướng cổng St. Michael.  Đền Thánh Piô 10 gồm 6 lối ra vào, dễ dàng di chuyển các bệnh nhân, nằm hoặc ngồi trên xe lăn.  Diện tích Đền Thánh này gồm 210 mét chiều dài và 81 mét chiều rộng, sức chứa là 27.000 người.  Thánh lễ 9 giờ sáng các Chúa Nhật và thứ tư, cũng như các nghi thức phụng vụ vào buổi chiều những ngày mưa, đều cử hành trong Đền Thờ thánh Piô 10.  Bàn thờ đặt ngay chính giữa Đền Thánh.  Kiến trúc Đền Thánh tựa như hình chiếc tầu thuỷ lật ngược lên trời.

          Thánh đường St. Bernadette xây cất đúng vị trí Bernadette đứng - ở phiá bên kia sông Gave, đối diện hang đá – khi Đức Maria hiện ra lần cuối cùng và nói lời từ biệt mọi người hiện diện, vào ngày 16 tháng 7 năm 1858.  Thánh đường được thánh hiến nhân dịp lễ Truyền Tin, 25 tháng 3 năm 1988.  Thánh đường này rộng 100 mét x 80 mét; sức chứa là 5.000 người.

Theo lời chỉ bảo của Đức Maria, khách hành hương thường đến lấy nước từ các vòi cung cấp đặt tại hang đá để uống, và sau đó chứa vào bình, đem về nhà sử dụng khi gia đình có người lâm bệnh, hoặc làm qùa cho những người thân quen, chưa có dịp hành hương Lộ Đức.  Ý nghĩ việc uống và tắm nước mạch Lộ Đức:

  • Dấu chỉ tình yêu vô biên của Đức Giêsu; Đấng đã hy sinh mạng sống mình cho ‘’các tội nhân’’.
  • Dấu chỉ Bí Tích Rửa tội giúp chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
  • Dấu chỉ Bí Tích Giải tội mà Chúa ban ơn tha thứ, thanh luyện tâm hồn, giúp chúng ta hòa giải với Chúa và với tha nhân.

Uống nước này, nhắc chúng ta nhớ lời Đức Giêsu nói:  ‘’Ai khát hãy đến cùng Ta mà uống’’, ‘’Và nước Tôi cho giúp người uống trở nên một mạch vọt lên, đem lại sự sống đời đời’’(Gioan 4,7-4,14).  Với những lời kia, Đức Giêsu ám chỉ Thánh Thần sẽ ngự đến với những ai tin vào danh thánh Người. Trong dịp hành hương Lộ Đức, đức thánh cha Gioan Phaolô II đã uống một ly nước từ mạch này.



Tắm Nước Mạch Lộ Đức.

          Tắm nước mạch Lộ Đức là dấu chỉ bề ngoài, phản ánh Lời Chúa kêu gọi mỗi người, hãy thực sự tắm rửa tâm hồn mình trong giếng tình yêu của Người. Trước khi tham dự việc tắm thân xác trong nước mạch Lộ Đức, chúng tôi đã dành một buổi sáng dò xét lương tâm để giao hòa với Chúa, qua bí tích giải tội, cũng là để thực hiện lòng tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, nhân ngày thứ bảy đầu tháng.

Tất cả có 16 bồn tắm, thiết lập từ năm 1955 – 8 gian dành cho phái nữ, 8 gian dành cho phái nam – đặt cách hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chừng 30 mét, theo chiều xuôi dòng nước chảy.  Mỗi ngày có hàng trăm người được dìm mình xuống tắm (hai tiếng buổi sáng và hai tiếng buổi chiều).  Bệnh nhân được ưu tiên, nên các gian dành cho phụ nữ, các bà thường phải đợi nhiều giờ, có khi vài ngày, vì trong số khách hành hương, phụ nữ thường chiếm đa số. Phái nữ tật bệnh nằm hoặc ngồi trên xe lăn cũng nhiều hơn phái nam!  Bác sĩ khuyên những người mắc bệnh tim không nên tắm nước mạch Lộ Đức, vì nhiệt độ nước rất thấp, chỉ khoảng 15 độ C.  Khi thân mình đã ở trong trạng thái trần trụi, thì phải choàng một chiếc khăn lớn, theo lời viên hướng dẫn, ‘’tắm viên’’ lội xuống bồn nước, thầm thĩ cầu nguyện với Đức Maria và thánh nữ Bernadette, qua nước mạch Lộ Đức, rửa sạch tội lỗi cũng như bệnh tật thể lý và tinh thần của các cá nhân liên hệ; đoạn hai viên phục dịch lực lưỡng, nhã nhặn dìm ngửa ‘’tắm viên’’ xuống nước lạnh, trong thời gian từ 3 đến 5 phút.  Nước trong bồn tắm mỗi ngày được thay hai lần.  Cho đến nay, chưa ai bị nhiễm độc do tắm chung trong một bồn nước với thể tích giới hạn như vậy.  Nước cung cấp cho các bồn tắm cũng như trên hai mươi vòi nước uống từ mạch do Đức Maria hướng dẫn Bernadette bới đất, khi hiện ra ngày 25 tháng 02 năm 1856, có thể cho ra 122.400 lít nước mỗi ngày (85 lít mỗi phút hoặc 5.000 lít mỗi giờ).  Nguồn nước dẫn tới một bể chứa với dung tích 450.000 lít đặt tại phía bắc đền thánh Mân Côi, cung ứng cho số lượng khách hành hương vào thời điểm đông đảo nhất.  Đây là nước thiên nhiên, giống như các mạch khác xuất phát từ một khe đá do nguồn nước tuôn xuống từ các đỉnh núi cao.  Lạ lùng ở chỗ là tự Bernadette (loài người) không thể tìm được, nếu không có bàn tay chỉ dẫn của Đức Mẹ.



Đàng Thánh Giá

          15 chặng đàng Thánh Giá đặt trên triền núi Espelugues, nằm ở bên kia đường, phía trái đền thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Upper Bacilica) gọi là đồi Calvariô.  Các chặng đàng Thánh Giá đã được thánh hiến ngày 05 tháng 10 năm 1901, và khánh thành vào ngày 14 tháng 09 năm 1912.  Các tượng tại đàng Thánh Giá đúc như người thật, cao 2 mét, giúp những người đi dàng Thánh Giá dễ nâng tâm hồn lên với Đấng đã chịu thương khó và chịu chết vì tội lỗi thế nhân.  Tôi vô cùng xúc động khi chiêm ngắm tượng Đức Mẹ ôm xác Đức Giêsu vào lòng, sau khi Người được hạ xuống từ trên cây thập giá.  Không cảnh nào thương tâm và đau đớn bằng giây phút ấy, nhưng lại diễn đạt trọn vẹn một tình yêu vô bờ bến đối với nhân loại tội lỗi.  Để thực thi các hành động hãm mình, khách hành hương được mời gọi đi theo dấu chân của Đức Giêsu Cứu Thế qua những chặng đàng Thánh Giá từ dinh tổng trấn Philatô, tại nơi thấp nhất của cổ thành Giêrusalem lên đến đồi Calvariô, còn gọi là Golgôta hoặc Núi Sọ.  Đàng Thánh Giá là con đường Tình Yêu giúp chúng ta vượt thắng mọi đau khổ và sự chết, vì tin tưởng vào Thiên Chúa, Vị Chủ Tế Đời Sống.



Phép Lạ

          Nói đến Lộ Đức là người ta liên tưởng tới Phép LạBệnh Nhân.  Các đặc tính nêu trên gắn kết với nhau thành lịch sử nối dài của biến cố Đức Mẹ Mặc Khải các Sứ Điệp ở Lộ Đức.  Một phép lạ đầu tiên xảy ra tại Lộ Đức ngày 01 tháng 03 năm 1858:  Sau khi cầu nguyện, Catherine Latapie nhúng cánh tay phải bất toại xuống vũng nước mạch ở hang đá Massabielle, tức thì tật bệnh liền biến mất.  Kể từ đó, Hội Đồng Y Khoa (gồm các bác sĩ và chuyên viên thuộc nhiều tín ngưỡng, kể cả thành phần vô thần, ghi nhận là có hàng ngàn chứng bệnh khác nhau đã được chữa lành.  Theo dư luận quần chúng: cứ 100 bệnh nhân đến Lộ Đức cầu nguyện, xin ơn, thì có 5 người được khỏi bệnh.  Tuy nhiên, vì tính cách thận trọng về vấn đề ‘’phép lạ’’ nên Giáo Hội chỉ mới chính thức công bố có 65 vụ được chữa lành mà thôi.

          Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, phép lạ không phải là một sự việc kỳ diệu đơn thuần, nhưng chính vì lòng yêu mến, Thiên Chúa muốn nhắc chúng ta là hãy đặt niềm tin vào Người, thì Người sẽ cứu chúng ta thoát khỏi mọi sự dữ và không phải chết.

          Chúng tôi đến thăm tất cả các địa điểm liên quan tới đời sống thuở thiếu thời của Bernadette như: 

Batrès (nơi Bernadetta trú ngụ lúc mới được 10 tháng tuổi, rồi trở lại chăn cừu và giúp việc nhà cho gia đình người vú nuôi Maria Lagues vào lúc 14 tuổi);

Bolly Mill (nơi Bernadette sinh ra và sống 10 năm hồn nhiên, hạnh phúc bên cha mẹ và các em tại nhà máy xay bột);

Cachot (diện tích 16 mét vuông - trước kia là một nhà tù, nơi gia đình Bernadette trú ngụ –, sau khi bị chủ mới nhà máy xay bột Boly Mill trục xuất vì không đủ trả tiền ở trọ);

Nhà thờ giáo xứ (nơi Bernadette chịu phép Rửa tội vào ngày 09 tháng 01 năm 1844, dưới hầm nhà thờ là mồ chôn xác cha Abbé Peyramale, chính xứ vào thời điểm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức);

Nhà thương Lộ Đức (trước kia là Viện Tế Bần của các Nữ tu Dòng Bác Ái, nơi Bernadette học giáo lý và xưng tội lần đầu vào ngày 03 tháng 06 năm 1858, đồng thời cũng là nơi các Nữ Tu bác Ái dạy Bernadette học suốt 6 năm trước khi trở thành tập Sinh tại Nevers;

*  Cuối cùng là Nghĩa Trang Lộ Đức (gần cầu Vieux, nơi chôn hài cốt ba đời gia đình Soubirous).

Tại mỗi địa điểm thăm viếng, tôi đều dừng lại trước tượng Đức Mẹ Lộ Đức hoặc thánh Bernadette, dâng lên Đức Maria 10 kinh kính mừng, cầu nguyện cho chính mình, và những người thân yêu, nhất là các bệnh nhân đau khổ đang có mặt ở Lộ Đức.

So với thời kỳ Đức Mẹ hiện ra cùng Bernadette thì thị xã Lộ Đức hiện nay đã hoàn toàn đổi da thay thịt:  đời sống dân địa phương mỗi ngày càng trở nên phong phú, nhờ khách hành hương; các cơ sở thuộc trung tâm Lộ Đức không ngừng đổi mới, đường xá sạch sẽ, thứ tự, ngăn nắp với đầy đủ tiện nghi vật chất cần thiết, sắp đặt qui mô, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hành hương từ khắp năm châu đổ về.  Các bệnh nhân thì được biệt đãi.  Hiện nay có năm sáu khu dành tiếp đón và chăm sóc bệnh nhân thập phương.  Trung tâm Lộ Đức còn kêu gọi khách hành hương đóng góp để xây cất thêm một bệnh viện gồm 904 giường dành cho bệnh nhân.

Giữa bầu khí nhộn nhịp gần như hỗn tạp tại khuôn viên Lộ Đức gồm đủ mọi tầng lớp xã hội, người không quen đời sống chiêm niệm sẽ dễ dàng bị cuốn hút vào ‘’nhịp thở mạnh’’ của thành phần thích gây ồn ào náo nhiệt!  Nhiều người trong các nhóm hành hương chỉ ngược xuôi lo việc quay phim, chụp hình kỷ niệm, gây phiền hà cho những buổi cầu nguyện chung, hoặc ngồi trong các quán nhậu tán gẫu, cười đùa, gây náo động trong lúc rước kiệu Đức Mẹ hay Mình Thánh Chúa.  Thăm dò quan niệm của họ, chúng tôi được biết, phần đông trong số những người này đã từng đến Lộ Đức nhiều lần chỉ để ‘’mua vui’’ hoặc hy vọng và trông chờ một phép lạ sẽ xảy ra cho các bệnh nhân, chứ dường như không chuẩn bị kỹ lưỡng tâm hồn để lắng nghe lời nhắn bảo của Đức Mẹ và thực thi ý Chúa.  Ngày xưa, dân Do Thái ước ao được chứng kiến việc Đức Giêsu làm các dấu lạ, nhưng họ thất vọng… vì thiếu lòng tin!!!

Trong thời gian lưu trú tại Lộ Đức, tôi mong được nhập một đoàn hành hương người Việt để sinh hoạt chung với họ, nhưng chỉ thấy vài ba cá nhân đi riêng lẻ.  Ba ngày sau cùng, trước khi rời Lộ Đức, bất chợt chúng tôi gặp phái đoàn hành hương từ Hoa Kỳ vừa rời Rôma và Fatima (mỗi nơi 2 ngày) – ghé thăm Lộ Đức.

Cuộc hành hương Lộ Đức của tôi thật đầy đủ, trọn vẹn tình nghĩa Mẹ-Con gặp gỡ nhau.  Không được hân hạnh Đức Mẹ thân hiện, nhưng với lòng chân thành bộc lộ và cầu xin, tôi cảm thấy nội tâm thực sự có nhiều thay đổi… Trước một giờ đồng hồ rời khỏi Lộ Đức, chấm dứt những ngày tại đất thánh Lộ Đức, tôi đến trước hang đá, nhìn lên tượng Đức Mẹ và thầm thĩ đọc những lời đã ghi chép sẵn trên giấy:     ‘’Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội rất kính yêu, hôm nay con lên đường trở về với đời sống thường ngày. Trước tượng thánh Mẹ, con xin nói lời tạm biệt Mẹ, xin Mẹ chúc lành và ban bình an cho cá nhân con và những người cùng chuyến hành hương Lộ Đức với con.  Con hết lòng cảm tạ Mẹ, vì nhờ lời cầu bầu của Mẹ, con đã tìm gặp được chính mình, để hiệp nhất trong Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, nhất là trong thời gian ở tại Lộ Đức.  Con xin giữ lại trong tâm hồn hình ảnh đẹp đẽ này - suốt đời con.  Con xin phó thác và tin cậy vào lòng nhân từ bao la của Mẹ…  Bên cạnh hàng ngàn bệnh nhân: bất toại, mắt lòa, tai điếc, và muôn vàn chứng nan y khác…, đang than van, kêu khóc, rên xiết vì đau đớn, con thấy mình tội lỗi, mà vẫn được Chúa ban cho thân xác lành lặn.  Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho con biết dùng tài trí nhỏ mọn và sức khỏe mỏng dòn này, để tạo cơ hội loan truyền việc tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ và Trái Tim Con Cực Thánh Mẹ…

Con xin tạm biệt Mẹ yêu dấu!’’