MÙA XUÂN MỚI
Nhiều người cho rằng triều đại Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô được đánh dấu bằng việc
đón mừng Đại Năm Thánh 2000 và theo đuổi thánh kiến Công Đồng Vatican II.
Đức Giáo Hoàng coi Công Đồng Vatican II như một ân huệ Chúa ban cho Giáo Hội
để chào mừng Mùa Xuân Mới của Tân Thiên Niên Kỷ.
Các tông thư và diễn từ của ngài tạo vẻ lạc quan cho người tín hữu, nhờ thế họ tin tưởng
rằng những đau khổ và thử thách hiện nay là để chuẩn bị cho một tương lai
huy hoàng và rực rỡ. Từ viễn ảnh ấy, ta có thể cảm thấy hoa trái của Công Đồng Vatican II
đều nằm ở tương lai. Kết qủa thực tiễn nhất có thể thấy là công tác canh cải phụng vụ,
những cấu trúc mới trong các buổi nghị thảo và đối thoại,
thay đổi cách thức huấn luyện tại chủng viện, tự do trong việc nghiên cứu
môn Kinh Thánh và thần học, mở rộng cửa đón nhận các truyền thống khác thuộc Kitô giáo.
Các thay đổi cụ thể làm cho đời sống Giáo Hội có nhiều cơ hội phát triển.
Những hoán cải đích thực đòi hỏi ở thời gian - trước tiên là sự đổi mới tư duy nơi mỗi người.
Như thế, ta đã có được cái nhìn về tương lai của một Giáo Hội qua cuộc sống mới.
Những dấu hiệu này khiến ta cảm thấy lạc quan trông đợi ở ngàn năm mới,
vì Chúa vẫn tiếp tục canh tân Giáo Hội của Người.
Ân Huệ Tròn Đầy Nơi Người Kitô Hữu Giáo Dân.-
Suốt chiều dọc lịch sử thế kỷ XX, ta nhận thấy vai trò và tước vị của người Kitô hữu giáo dân mỗi ngày càng được nhắc tới. Công Đồng Vatican II cho biết, tước vị này phát sinh từ Bí Tích Rửa tội và thêm sức. Cụm từ ’’Phúc Âm Hóa’’ đến từ tông thư ’’Evangelii nuntiandi’’ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, và sau đó đem sử dụng trong ngôn ngữ học Công Giáo. Văn kiện do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết vào năm 1988 có đoạn nói về ’’tác vụ và vai trò của người Kitô hữu giáo dân’’ (đoạn 23).
Hiểu rõ vai trò của Chúa Thánh Thần, ta mới thấy tầm mức quan trọng của các ân huệ: ’’trong thời đại của chúng ta, không thiếu những ân huệ đã được nhìn thấy, biểu lộ nơi người người giáo dân, giới nam cũng như giới nữ.’’ (đoạn 24).
Nhiều phong trào tân lập xuất hiện trong Giáo Hội, mà thủ lãnh là giáo dân; họ đóng một vai trò đặc biệt trong việc giáo dục, thông tin, mục vụ, công bố Tin Mừng. Người Kitô hữu giáo dân là chứng nhân rõ nét nhất của Đức Kitô; họ có mặt giữa lòng thế giới với đủ mọi ngành nghề và trong nhiều môi trường hoạt động khác nhau, như chính trị, thương mại, văn hóa, kinh tế, công tư chức, nghệ thuật, truyền thông…
Công Đồng Vatican II minh xác, họ là thành phần rất có giá trị và tối hệ trọng. Vai trò chứng nhân của họ bằng lời nói và việc làm, nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, như lời nhắn bảo của thánh Phêrô tông đồ: ’’Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.’’ (1 Pet. 3,15).
Người Kitô hữu giáo dân đạo đức thời nay hiểu Kinh Thánh nhiều hơn những người Kitô hữu thuở xưa. Quan tâm nhiều tới Kinh Thánh, người công giáo sẽ được Lời Chúa nuôi dưỡng trong cuộc sống hằng ngày. Việc canh tân ấy biến giáo dân thành những người tín hữu năng động.
Sám Hối
Giáo Hội đã được Công Đồng Vatican II chuyển đổi từ một người mang tâm trạng đắc thắng và bảo thủ thành một nhân vật khiêm nhu và trong sáng. Ta có thể nhìn thấy hoa trái của sự chuyển hóa này qua lời mời trong tông thư Tiến Về Ngàn Năm Thứ Ba (Tertio milennio adveniente), vào năm 1994, và tông thư về Hiệp Nhất (Ut unum sint), vào năm 1995, của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Đức Thánh Cha nêu lên nhiều ý kiến mới trong các tài liệu liên quan tới sự Hiệp Nhất, lấy vấn đề đối thoại để trắc nghiệm lương tâm con người. ’’Sau các sai lầm đã vấp phạm, khiến chúng ta trở nên phân hóa trong suốt dòng lịch sử nhân loại, nhưng sự hiệp nhất Kitô giáo vẫn có thể trở lại như trước, miễn là chúng ta khiêm nhường nhìn nhận đã sai lầm, đã chống phản sự hiệp nhất, và vì thế cần sám hối. Không chỉ sai lầm cá nhân cần được tha thứ và quên lãng, nhưng sai lầm liên hệ tới xã hội đã đóng góp vào việc gia tăng phân hóa, cũng cần được tha thứ và quên lãng.’’ (Ut unum sint 34).
Suy xét lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ta có thể thấy rõ tác động và đặc tính của Chúa Thánh Thần là ’’chứng minh các sai lầm của con người.’’ (Gioan 16,7-11). Nhiều cuộc thảo luận ôn hòa đã diễn ra, chứ không chỉ dùng các văn kiện kêu gọi thống hối suông mà thôi. Trong lúc Giáo Hội công giáo đang chuẩn bị đáp trả lời kêu gọi thống hối và hoà giải của Đức Thánh Cha về những sai lầm đã qua, gây nên tình trạng phân hóa, có lẽ Chúa Thánh Thần đã thực hiện một việc kỳ diệu bất ngờ, là làm cho bức tường Bá Linh sụp đổ vào năm 1989.
Việc đối xử với dân Do Thái trong nhiều thế kỷ đang trở thành đề tài chính, buộc Giáo Hội Công Giáo phải tự kiểm điểm lại quyết định của mình. Lịch sử mang ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy Giáo Hội canh tân. Lầm lỗi chính là việc góp phần chống phản Israel, phủ nhận dân tộc Do Thái, vì cho rằng dân tộc này đã bị Thiên Chúa loại trừ. Hành động của Giáo Hội làm cho người Do Thái không trở lại, mà còn nâng cao đặc tính Do Thái giáo của họ. Kết qủa là dân Do Thái và Dân Ngoại không thể hòa giải với nhau được, hầu có thể trở thành ’’một người mới’’ (Eph. 2,15), trong sự hiệp nhất với thân mình Đức Kitô. Với lý do trên, nhiều học giả đặc trách về hiệp nhất xác định rằng, sự phân hóa đầu tiên xảy ra sau ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chỉ vì hai từ ngữ Đền Thờ (Synagogue) và Thánh Đường (Church). Việc làm này gây tổn hại lớn lao trong việc hiệp nhất Kitô giáo, vượt ra ngoài trí tưởng tượng của ta.
Một thách đố khác tương tự đòi hỏi Giáo Hội Công Giáo cũng như giáo phái Tin Lành phải đương đầu, đó là việc các tín hữu Tin Lành lấy tinh thần Phúc Âm làm ưu tiên số một. Đây là nguyên nhân tạo nên những căng thẳng to lớn tại các quốc gia mà ngưòi Kitô hữu công giáo và Chính Thống ồ ạt bỏ hàng ngũ để gia nhập Giáo Hội Tin Lành hoặc Giáo Hội Ngũ Tuần (Giáo Hội Phục Hưng Thần Ân). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, người Kitô hữu công giáo cũng như Tin Lành vẫn tìm hiểu và học hỏi những đặc điểm riêng của nhau, mặc dù bên này đổ lỗi cho bên kia là có xu hướng bảo vệ truyền thống và tôn trọng nền luân lý Kitô giáo qúa nghiêm ngặt, do đó họ không thể hợp tác được; trái lại, bên công giáo lại thú nhận là học được từ phiá Tin Lành và Nhóm Ngũ Tuần cách thức Phúc Âm Hóa cuộc sống; nhiều tín hữu bên Tin Lành thừa nhận là đã học được từ bên phía công giáo một ’’thế giới huyền bí’’ và vẻ tôn nghiêm trong lúc cử hành phụng vụ.
Người Nghèo và Kẻ Bị Đàn Áp.-
Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội công giáo chú trọng đặc biệt tới người nghèo. Các Đức Giáo Hoàng không ngừng nói đến trách nhiệm của ta đối với những người đau khổ và bị đàn áp. Thế giới mỗi ngày càng thêm bất ổn, cuộc sống luôn luôn bị đe doạ, do đó kẻ nghèo túng và khốn khổ tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên, một số tu hội, điển hình như Hội Nữ Tử Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta sáng lập, hoặc tổ chức Nữ Tử Bác Ái do thánh Vicent de Paul thành lập, đã và đang hiến dâng trọn cuộc đời cho đa số quần chúng sống cảnh đói nghèo. Nhờ hồng ân Năm Thánh và các đặc sủng của Chúa Thánh Thần, sẽ giúp cho việc tận hiến của các nữ tu đạt được nhiều thành qủa trong những năm kế tiếp.
Đức Maria Với Kỷ Nguyên Mới.-
Trái tim người Kitô hữu công giáo rất gần gũi với Đức Maria. Đó là một bằng chứng cụ thể cho thấy người đàn bà được mệnh danh là Đức Nữ Đồng Trinh, mà Thiên Chúa đã tuyển chọn như một khí cụ trong mầu nhiệm nhập thể, có một giá trị đặc biệt, đáng được tôn vinh và kính trọng. Một số biến cố xảy ra trong suốt thế kỷ XX liên quan tới vai trò của Đức Mẹ đã gây nên nhiều dằng co căng thẳng.
Một số người qủa quyết rằng thế kỷ XX là thế kỷ của Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội, ban hành năm 1950; một số người khác lại nghĩ rằng, thế kỷ XX là thế kỷ của những sắc lệnh thừa nhận các lần Đức Mẹ hiện ra, thí dụ như ở Fatima vào năm 1917. Một số người khác nữa chỉ muốn, thế kỷ XX là thế kỷ của Hiệp Nhất, khi Công Đồng Vatican II quyết định dùng giáo điều Thánh Mẫu học đặt trong văn kiện của Giáo Hội.
Tuy nhiên, các căng thẳng liên hệ đã sớm được giải quyết, và ta có thể tin chắc rằng Chúa Thánh Thần luôn luôn gìn giữ sự thánh thiện và lòng tôn kính của Giáo Hội đối với Đức Maria, đồng thời giúp người Kitô hữu hiểu biết thâm sâu về vai trò của Đức Mẹ đã được mô tả trong Kinh Thánh, để mọi người tôn vinh và kính trọng. Nhờ đó, ta sẽ có một cái nhìn rất rõ về vai trò của Đức Mẹ, người đã đáp lời mời của Thiên Chúa, thay thế dân tộc Do Thái, cưu mang và đem Đấng Messiah của Israel, và Đấng Cứu Độ nhân loại, vào trong thế gian. Và cũng nhờ đó, ta có thể cảm nhận được Đức Maria cùng với Giáo Hội, là những khí cụ thiết thực của Chúa, đã và đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Văn kiện của Công Đồng Vatican II đề cập tới Giáo Hội lữ hành chuẩn bị đón vương quốc sắp xuất hiện (chương VII) và về Đức Mẹ (chương VIII). Một Giáo Hội đã được Chúa Thánh Thần canh tân, mới có thể thốt lên lời ’’Maranathal - Lạy Chúa, xin hãy đến -. Chỉ người phụ nữ chất chứa niềm khát vọng Đấng Messiah của dân tộc Israel mới xứng đáng dành được chỗ đứng riêng biệt mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét