Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Các Thánh Nam Nữ - Ngày 1 Tháng 11

Các Thánh Nam Nữ   -   Ngày 1 Tháng 11
Các bài đọc trích sách: - Khải Huyền 7,2-4.9-14; - Thánh Vịnh 24,1-2.3-4a.5-6; 
- 1 Gioan 3,1-3; - Mátthêu 5,1-12 a

Các Tôi Tớ Chúa Sẽ Được Bảo Vệ

Các Thánh Chầu Chực Ca Ngợi Thiên Chúa

Một nhà triệu phú người Pháp tên là Count Alfred de Pierre-Court đã bỏ ra một số tiền chừng 2 triệu mỹ kim để đầu tư vào việc nghiên cứu gây giống người khổng lồ.  Được tòa án chấp thuận, các viên chức chính quyền ở Rouen, nước Pháp đã chu du khắp tứ phương thiên hạ để tìm những người đàn ông và đàn bà to lớn để ghép họ thành những cặp vợ chồng, rồi cho họ ở trong các căn nhà gần Rouen.  Nhưng chỉ vài năm sau, cuộc thí nghiệm này đã hoàn toàn thất bại.

Cách nay hơn 2.000 năm, cũng có một đại nhân, chẳng cần chu du khắp thế giới, nhưng đã để lại một bí quyết sản xuất được loại người khổng lồ, không thuộc lãnh vực thể xác, nhưng về phương diện tâm linh.  Chúng ta tìm thấy bí quyết đó trong bài Tin Mừng thánh lễ hôm nay.  Và bí quyết ấy giúp chúng ta khám phá được phương cách tạo thành những con người to lớn về mặt tinh thần.  Đó chính là Tám Mối Phúc hay còn gọi là Con Đường Dẫn tới Hạnh Phúc thật.

Trong ngày Lễ Các Thánh hôm nay, chúng ta mừng kính tất cả các thánh nam nữ và các thánh anh hài, tức là các thánh trẻ thơ thuộc mọi thời đại, ở khắp mọi nơi, đã từng theo bí quyết này mà trở nên những Siêu Nhân.  Danh tính và sự nghiệp của trên 40.000 Siêu Nhân đã chính thức được ghi trong sổ vàng của Giáo Hội Ðức Giêu Kitô.  Ngoài ra, còn rất nhiều Siêu Nhân khác, mặc dù không có tên trong sổ vàng của Giáo Hội, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ thực sự là những người khổng lồ về lãnh vực tinh thần.  Hôm nay, chúng ta mừng kính tất cả các thánh ở trên trời, trong đó, có nhiều người rất gần gũi hoặc là thân nhân của mỗi người chúng ta.
Mục Tiêu Của Mỗi Người Là Tìm Chúa - Ánh Sáng Thế Gian
Các thánh là những người như thế nào, mà được xếp vào loại khổng lồ tâm linh?  Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rằng:  những người được xếp vào loại khổng lồ là thành phần có tinh thần nghèo khó, coi nhẹ tiền của, vật chất ở đời này; là những người hiền lành, hòa dịu, hay tha thứ; là những người chịu đói khát, và sẵn lòng thực hiện các điều công chính; là những người biết xót thương kẻ khác; là những người có qủa tim trong sạch, sống thanh khiết, đẹp lòng Chúa, và giúp ích cho tha nhân; là những người tìm kiếm sự hòa thuận với chính bản thân, với mọi người, và với Thiên Chúa; là những người bị bách hại vì sự công chính, bị tù đầy, bị tra tấn, và bị chết vì tình yêu Thiên Chúa; là những người bị khinh chê, nhạo cười, bị nguyền rủa chỉ vì đã theo Chúa và thi hành những điều Chúa truyền dậy.


Mỗi khi chúng ta thực hiện một trong Tám Mối Phúc, chúng ta sẽ trở nên lớn dần, rồi thành khổng lồ trước mặt Thiên Chúa.  Để khuyến khích và nêu gương sáng cho chúng ta, Mẹ Giáo Hội đã dành mỗi ngày trong niên lịch phụng vụ để kính nhớ đích danh một vị thánh, và cứ vào đầu tháng 11 hằng năm, Giáo Hội lại cử hành một ngày lễ tôn kính chung tất cả các thánh, và xin các thánh cầu cùng Chúa ban ơn giúp sức, để chúng ta hoàn tất việc thánh hóa đời mình trong tình yêu sung mãn của Chúa, và đưa chúng ta từ bữa ăn lữ khách ở đời này tiến đến bàn tiệc nơi quê hương Thiên quốc.  Amen.   



     
     

     
      


Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Thánh Simon và Thánh Giuđa, Tông Đồ - 28 Tháng 10

Các bài đọc trích sách: -  Êphêsô 2,19-22; - Thánh Vịnh 19,1-4; Luca 6,12-19


Tiếng Các Ngài Vang Dội Khắp Hoàn Cầu.


Hôm nay, Giáo Hội mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa
mà tên các ngài được thánh luật chỉ định kính nhớ vào cùng một ngày.
Có lẽ, bởi vì cả hai đấng đều được sai đi và rao giảng Tin Mừng ở
Mesopotamia (Vùng Lưỡng Hà) và Persia (Iran),
nhưng thực tế như thế nào thì chúng ta không biết rõ,
ngoài việc các đấng được tuyển chọn làm tông đồ của Đức Giêsu Kitô
và đã được các thánh sử ghi chép trong Kinh Thánh Tân Ước.


Thánh Simon Tông Đồ, Tử Đạo:
·        sinh tại Cana hoặc Canaan.
·        chết năm 65 hoặc 107 sau Công Nguyên.
·        được giáo hội công giáo, chính thống giáo tây phương, công giáo coptic, giáo hội công giáo chính thống đông phương, Anh giáo, Tin lành Lutheran, Hồi giáo, tôn vinh.
·        phần xương thánh chính được lưu giữ tại nhiều nơi, kể cả Toulouse (Pháp), Đền Thánh Phêrô (Rôma).
·        lễ mừng kính:  28 tháng 10 (Kitô giáo tây phương), 10 tháng 5 (công giáo coptic).
·        biểu hiệu: thuyền, thập giá và cái cưa, con cá (hoặc 2 con cá); cây lao, người bị cưa đôi theo chiều dọc, tay chèo.
·        đấng bảo trợ cho thợ cưa xẻ, thợ thuộc gia.

     Simon được gọi bằng những tên như Simon Zelotes, Simon the Zealot thuộc nhóm qúa khích (Luca 6,15) và (Công Vụ Tông Đồ 1,13), và Simon Kananaos hay Simon Cananeus, là một trong các tông đồ ít tiếng tăm nhất.  Thông tin về Người rất giới hạn, ngoài tên của Người.
Thánh Tông Đồ Simon Nhiệt Thành
     Tên Simon xuất hiện trong tất cả bốn Tin Mừng nhất lãm và sách Công Vụ Tông Đồ, nhưng không ghi chép thêm chi tiết (Luca 6,14-16).

     Truyền thuyết chính thống giáo tây phương cho rằng tiệc cưới của Simon tại Cana (Galillê) có Đức Kitô và các môn đệ của người tham dự, nơi ấy Đức Giêsu đã biến nước trong sáu chiếc chum đầy thành rượu.  Simon được gọi là qúa khích/nhiệt thành là vì khi thấy phép lạ của Đức Giêsu, Người từ bỏ nhà cửa, cha mẹ, và nàng dâu để đi theo Đức Kitô.  Truyền thuyết rằng, sau lễ Ngũ Tuần, Người được sai đi và rao giảng Tin Mừng ở Mauretania (cổ Libya, nay là Marốc và tây Algeria, bắc Phi Châu).  Nhưng một nguồn tin khác rằng, Người là Simon, giám mục thứ hai thành Giêrusalem, mặc dù Người sinh tại Galillê.

Thánh Tông Đồ Simon Nhiệt Thành
     Truyền thuyết gần nhất rằng, Simon thường gắn bó với thánh Giuđa như một nhóm rao giảng Tin Mừng; nên ngày mừng kính vào cùng ngày 28 tháng 10.  Nhiều nguồn tin cho biết, sau khi rao giảng ở Ả Rập, Simon liên hiệp với Giuđa tại Persia (Iran), Armenia hoặc Beirut (Libanon), nơi cả hai đấng bị tử đạo vào năm 65 sau Công Nguyên.  Có lẽ, Người chịu tử đạo vì là giám mục thành Giêrusalem. Tuy nhiên, còn nhiều tin tức khác biệt nhau về cuộc đời rao giảng và về cái chết của Người. 

Thánh Giuđa Tông Đồ, Tử Đạo:
·        -  sinh vào thế kỷ thứ I, sau Công Nguyên, tại tỉnh thuộc Galilê, đế quốc Rôma.
·        -  chết vào thế kỷ thứ I sau Công Nguyên.
·    -  được Giáo Hội công giáo, chính thống giáo phương Đông-Tây-Á châu, cộng đồng  Anh giáo, Luthêran, Hồi giáo, giáo hội Aglipayan (Phi luật tân) tôn kính.
·        -  được phong thánh thời tiền tôn giáo hội (Giáo Hội hiện tại).
·   - thánh tích quan trọng được lưu giữ tại đền thánh Phêrô, Rôma, Reims. Toulouse (Pháp).
·        -  các biểu hiệu: rìu, cây côn, thuyền, tay chèo, huy chương.
·        -  các nơi nhận làm đấng bổn mạng: xứ Armenia (những trường hợp bị tổn hại, thất vọng, bệnh xá), St. Peterburg (nga), Floria, Philuậttân, nha cảnh sát Chicago (Mỹ), …
·        -  Thánh Giuđa là tác giả một lá thư ngắn được ghép trong Kinh Thánh Tân Ước.

Thánh Tông Đồ Giuđa Tadêô
     Giuđa là một trong số 12 tông đồ của Đức Giêsu. Giuđa chính là Tadêô, một tên đệm, cũng có thể là một biệt danh, được ghi trong Tin Mừng, Mátthêu (10,3) và Máccô (3,18), trong khi Luca kêu đích danh Giuđa (Luca 6,16), (Công Vụ Tông Đồ 1,13) và Gioan 14,22).

     Người còn được gọi bằng những tên khác như Giuđa Giacôbê, Giuđa Tadêô, hoặc Giuđa Tadêô hay Lebbaeus.  Đôi khi tên Người bị lẫn là Giuđa (anh em họ hàng Đức Giêsu), nhưng hoàn toàn khác hẳn với Giuđa Iscariot, một Giuđa bội phản Đức Giêsu.
  
     Giáo hội tông toà Armenian tôn kính Tadêô và thánh Batôlômêô như các vị thánh bổn mạng.  Giáo hội công giáo tôn kính Người như thánh bảo trợ trong các trường hợp tuyệt vọng và bị tổn hại.

     Biểu hiệu của thánh Giuđa là cây côn.  Người cũng thường được mô tả qua tượng ảnh với ngọn lửa bốc cháy quanh đầu. Điều này diễn tả sự hiện diện của Người tại buổi lễ Ngũ Tuần, lúc Người cùng với các tông đồ khác đón nhận Thánh Linh. Giuđa là một tên rất phổ thông đối với người Do Thái thời bấy giờ.

     Truyền thuyết cho rằng thánh Giuđa rao giảng Tin Mừng ở xứ Giuđêa, Samari, Idumaea (nam Giuđêa), Syria, Mesopotamia và Libya.  Được biết, Người cũng đặt chân đến Beirut.

     Truyền thuyết rằng, thánh Giuđa sinh trong một gia đình Do Thái, tại một thị trấn thuộc xứ Galilê; sau này, khi những người Rôma tái thiết xong đổi tên là Caesarea Philippi.  Giuđa nói được tiếng Hy lạp và Aramaic, giống như hầu hết những người đồng thời trong vùng ấy, là tá điền buôn bán nông phẩm. 

Thánh Tông Đồ Giuđa Tadêô
     Cũng theo truyền thuyết, thánh Giuđa là con trai của Clêopas và Maria (chị em với Đức Trinh Nữ Maria).  Truyền thuyết rằng Cleôpas đã bị mưu sát chỉ vì tính tình ngay thẳng và hăng say loan truyền sự sống lại của Đức Kitô. Sau khi Maria qua đời, bà đã làm nhiều phép lạ cho những ai kêu xin.

     Người dân Armênia tin rằng Giuđa và Batôlomêo là những vị đầu tiên đem Tin Mừng đến cho họ, nên dân chúng đã xây Thánh Đường các Tông Đồ tại Armenia để vinh danh các Đấng.

     Dân Armenia kể rằng thánh Giuđa đã chịu tử đạo tại Beirut (thuộc xứ Syria, dưới quyền thống trị của đế quốc Rôma) vào khoảng năm 65 sau Công Nguyên, cùng với tông đồ Simon (nhiệt thành/qúa khích); hai Đấng thường liên kết chặt chẽ với nhau.

     Sau khi đã chết một thời gian, di hài thánh Giuđa được chuyển từ Beirut tới Rôma và đặt tại hầm mộ Đền Thờ Thánh Phêrô, để các tín hữu kính viếng.  Hiện nay xương thánh Giuđa được lưu giữ trong cùng ngôi mộ có di hài tông đồ Simon (nhiệt thành/qúa khích), nằm ở cánh trái Đền Thờ Thánh Phêrô, phần dưới bàn thờ chính của thánh Giuse.
     Thánh Giuđa và thánh Simon, cầu cho chúng con.  Amen.

     Đứng trước những quyết định quan trọng cần phải cầu nguyện thật nhiều.
     Qủa thật, trước khi tuyển chọn và chỉ định 12 người làm tông đồ, Đức Giêsu đã phải cầu nguyện với Chúa Cha suốt một đêm.  Chúng ta không biết Đức Giêsu cầu xin và đàm đạo với Chúa Cha như thế nào đối với quyết định quan trọng như vậy. 

     Nhưng có một điều đáng ghi nhận là những người được Đức Giêsu chỉ định làm tông đồ không ai nổi danh, không ai giầu có, không ai tài cao học rộng, đặc biệt là không ai có khả năng thiên phú.

     Nếu trao cho chúng ta tuyển chọn 12 người mà Đức Giêsu đã chỉ định, thì chắc chắn không ai có thể được liệt kê ưu tiên trong danh sách xếp hạng của chúng ta. Chúng ta thường quan tâm nhiều tới tài đức, qúa khứ, gia phả, học vấn, sức khỏe, vân…vân…

     Đức Giêsu coi những yếu tố nêu trên không có giá trị trong việc tuyển chọn các tông đồ! Các ông là những người thuộc thành phần vô danh tiểu tốt, thất học, tầm thường.  Nhưng Đức Giêsu đã chuyến hóan các ông thành những tông đồ can đảm, hăng say và nhiệt thành rao giảng sứ điệp đời sống mới và Tin Mừng.
 
     Giống như các tông đồ, chúng ta cũng được sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả những người chúng ta gặp gỡ.  Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình chứ không bằng lời nói.  Có thể, vì chúng ta xấu hổ, do dự, rụt rè trong việc chia sẻ với người khác về niềm hy vọng của mình. 

     Hôm nay, chúng ta có thể xin thánh Simon cũng như thánh Giuđa cầu cùng Chúa ban cho tất cả mọi người trong chúng ta ơn trở thành chứng nhân và sẵn sàng tham gia vào việc rao truyền Tin Mừng của Chúa. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khuyên nhủ mọi người hãy sốt sắng thi hành ơn gọi tông đồ và rao giảng của mình trong  nỗ lực loan truyền lời Chúa:

không kể đến vấn đề tuyệt vời ra sao, thì cuối cùng chứng nhân cũng trở nên vô hiệu, nhưng ý nghĩa của Tin Mừng đã được làm sáng tỏ -  điều mà thánh Phêrô gọi là việc tính sổ ’’cho niềm hy vọng ở nơi bạn’’.  Ý nghĩa của kẻ làm chứng cho một người sẽ được làm sáng tỏ, đó là việc rao giảng Đức Giêsu cách minh bạch và rõ ràng. Tin Mừng được chúng ta rao giảng sớm muộn sẽ được người đời nhắc tới.  Chẳng có Phúc Âm chính thực, nếu tên, Vương quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazaréth, Con Thiên Chúa, không được rao giảng. (evangelii nuntiandi 22).
’’Lạy Chúa Cha,
Chúa tỏ mình ra cho chúng con
qua việc rao giảng của các
tông đồ Simon và Giuđa. 
Nhờ lời cầu bầu của các Đấng,
xin ban cho Giáo Hội Chúa mỗi ngày
càng phát triển và thêm nhiều người
 tin yêu Chúa. Amen.’’ 

Chúa Nhật XXX Thường Niên - Năm B

Các bài đọc trích sách: - Giêrêmia 31,7-9; - Thánh Vịnh 126,1-6; - Do Thái 5,1-6; - Máccô 10,46-52



Lòng Tin Của Anh Đã Cứu Anh


     Người hành khất mù lòa Bartimê dậy chúng ta cách nhìn.  Giống như anh mù, chúng ta cũng cần đức tin của mình lớn mạnh trước khi có thể thực sự nhìn thấy.
  
     Thoạt đầu, chúng ta cũng có những lời nói về Đức Giêsu, giống như anh mù Batimê đã tuyên xưng Người là Đấng Messiah, Con Vua Đavít.
 
     Qua đến bước thứ hai, thì đức tin của chúng ta lại trở thành vấn đề cá nhân.  Đó là lúc chúng ta nhận biết mình yếu đuối, nên cần tới một nhu cầu chính đáng.  Và đó cũng là lúc chúng ta phải xác tín, Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, có thể chữa lành chúng ta và đem đến cho chúng ta một cuộc sống mới. 

     Đang đắm chìm trong tội lỗi và tâm hồn trống vắng, nếu chúng ta gặp gỡ Đức Giêsu và được Người đụng chạm tới đời sống của chúng ta, lúc bấy giờ chúng ta sẽ có thể bắt đầu cuộc hành trình trên con đường làm môn đệ Người, giống như anh mù Bartimê vậy.

     Bao lâu chúng ta chưa gặp gỡ Đức Giêsu và chưa trở thành môn đệ Người thì chúng ta vẫn là kẻ mù lòa.  Trên lãnh vực này hay lãnh vực khác, cặp mắt của mỗi người trong chúng ta vẫn chưa mở ra, và chính vì thế, chúng ta rất cần được Đức Giêsu chữa lành, hầu chúng ta có thể trưởng thành như các môn đệ của Người.

     Có lẽ chúng ta nên nhìn thẳng vào chính mình bằng một thái độ chân thành.   Chúng ta nên nhìn nhận tội lỗi của mình dưới một luồng ánh sáng rõ ràng hơn.  Hoặc có lẽ chúng ta phải cần tới một nhu cầu khẩn thiết như những người con được Chúa rất yêu thương và thành tâm kêu xin Người cứu giúp.

     Thiên Chúa luôn ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành phúc lộc, nhưng nhiều người trong chúng ta không bao giờ có thể nhận ra điều đó. Để có thể nhìn thấy chính mình một cách rõ ràng, chúng ta cần lập lại lời của người hành khất mù lòa Bartimê:  ’’Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được.’’

     Hoặc có lẽ chúng ta cần mở cặp mắt sáng hơn để nhìn thấy rõ ràng những ngang trái, lừa đảo, gian dối, đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng chúng ta cần nhìn các sự việc kia bằng một thái độ lạc quan. Hay nói cách khác, chúng ta nên nhìn mọi người chung quanh bằng một nhãn giới chính trực. 

     Nếu bị mù loà, chỉ vì ích kỷ, tự ái, danh lợi riêng tư, thì chúng ta không thể nhìn người khác như anh chị em của mình được; và dĩ nhiên, chúng ta cũng không thể nhìn thấy Đức Kitô đang hiện diện trong họ. ’’Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được.’’

     Nếu chúng ta có thể nhìn được chính mình, ngoại cảnh và những người chung quanh bằng cặp mắt đức tin, thì chúng ta mới có thể buớc gần gũi Đức Giêsu hơn trên con đường làm môn đệ của Người.  Bartimê ném áo choàng và để các dụng cụ ăn xin lại trên vỉa hè.
  
     Bây giờ anh mù đã có thể nhìn thấy và nhận ra Đức Giêsu, nên anh có thể bỏ lại phía sau tất cả cuộc đời cũ của mình.  Anh giã biệt tất cả những gì đã từng níu kéo anh lại đằng sau.  Anh chỉ còn một ý định duy nhất là theo Đức Giêsu suốt chặng đường thương khó của Người.
  
     Bartimê đã học được qua cuộc đời khổ cực; và vì đã gặp gỡ Đức Giêsu rồi, nên anh không còn sợ hãi gì khi được đồng hành với Người và đụng chạm với những khổ đau trên con đường làm môn đệ. 
''Lạy Đức Giêsu,
xin mở cặp mắt cho con,
 để con nhìn thấy Chúa.
Xin ban cho con nguồn sáng của Chúa,
hầu con có thể đồng hành với Chúa
trên con đường làm môn đệ Chúa.  Amen.''

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

’’Cửa Đức Tin – Porta Fidei’’

Năm Đức Tin
(11.10.2012 – 24.11.2013)


’’Cửa Đức Tin – Porta Fidei’’

*  (Phaolô và Banaba) … tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông, và việc Người đã mở cửa … đức tin…’’ (Công Vụ Tông Đồ 14,27).

[’Cửa đức tin’ (Công Vụ Tông Đồ 14: 27) luôn luôn mở, để dẫn đưa chúng ta  
vào cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa
tháp nhập vào trong Giáo Hội của Người.] ---
Lời mở đầu tông thư Porta Fidei (Cửa Đức Tin)
của Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, nhân dịp Năm Đức Tin.

Năm Đức Tin Là Gì?
     Ở vào một thời điểm nào đó trong lịch sử Giáo Hội, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các tín hữu cố gắng đào sâu sự hiểu biết của mình trong lãnh vực Đức Tin.  Năm 1967, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã công bố một năm Đức Tin để tưởng niệm 19 thế kỷ sau ngày tử đạo của hai thánh Phêrô và Phaolô.  Năm Đức Tin năm 1967 nhắc Giáo Hội nhớ tới các hành vi tuyệt hảo mà hai vị thánh đã làm, bằng cách chết vì đạo để làm chứng cho Chúa, hầu có thể gây cảm hứng cho Giáo Hội ngày nay, tập thể cũng như cá nhân, sẵn sàng tuyên xưng cho thế gian biết một đức tin chân thành.

     Năm Đức Tin 2012 – 2013 do Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI công bố’’lời mời gọi hoán cải và chuyển đổi thiết thực đối với Chúa, Đấng Cứu Chuộc thế gian’’ (Porta Fidei 6).  Nói cách khác, Năm Đức Tin là một dịp để người công giáo trải nghiệm một cuộc hoán cải, hầu trở lại  với Đức Giêsu và dấn thân hơn nữa vào mối tương quan với Người.  Đức Giáo Hoàng đã diễn tả cuộc đổi mới này như việc mở ’’cửa đức tin’’ (xem Sách Công Vụ Tông Đồ 14,27).  ’’Cửa đức tin’’ đã mở cho cá nhân đón nhận Bí Tích Rửa tội, nhưng trong năm nay, Giáo Hội mời gọi người công giáo mở lại cửa ấy, bước qua, và tái khám phá cũng như cải tiến sự tương quan với Chúa và Giáo Hội.

Tại Sao Năm Đức Tin Lại Là Năm Nay?
     Với Tông Thư ’’Porta Fidei’’ đề ngày 11 tháng 10 năm 2011, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã tuyên bố: "Năm Đức Tin" bắt đầu vào ngày 11 tháng Mười năm 2012, và kết thúc vào ngày 24 Tháng Mười Một 2013.  11 tháng Mười năm 2012, ngày đầu tiên Năm Đức Tin là kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công  Đồng Vatican II, và cũng là kỷ niệm 20 năm ngày phát hành Cuốn Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo.  Trong Năm Đức Tin, Giáo Hội kêu gọi người Công giáo hãy học hỏi và suy niệm các tài liệu liên quan tới Công Đồng Vatican II, cũng như giáo lý, để mọi người có thể đào sâu kiến ​​thức đức tin của mình.

Năm Đức Tin Bắt Đầu Vào Tháng Mười Với Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm Hóa.  Thượng Hội Đồng Giám Mục Là Gì?
     Một Thượng Hội Đồng Giám Mục là một tập hợp các giám mục, được chọn lựa từ các miền khác nhau trên thế giới, gặp gỡ Đức Giáo Hoàng để thảo luận các vấn nạn liên quan tới sinh hoạt của Giáo Hội toàn cầu.  Cuộc họp này của các giám mục giúp thắt chặt hơn sự liên kết giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng, đồng thời cung cấp cho Đức Giáo Hoàng nguồn tư vấn. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI ấn định ngày Tân Phúc Âm Hóa được Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm họp từ ngày 7 đến 28 tháng Mười năm 2012 vào buổi khai mạc Năm Đức Tin, ngày 11 tháng 10 năm 2012.

Năm Đức Tin Và Tân Phúc Âm Hóa Liên Kết Với Nhau Như Thế Nào?
     Tân Phúc Âm Hóa là lời mời gọi tất cả mọi người Công giáo đào sâu đức tin của mình hơn nữa và đặt thêm niềm tin tưởng vào Tin Mừng, đồng thời sẵn sàng chia sẻ Tin Mừng cho người khác.  Tân Phúc Âm Hóa, trước tiên là một cuộc gặp gỡ thân tình với Đức Giêsu Kitô; Đó là lời mời gọi gia tăng sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô.  Đó còn là lời mời gọi mỗi cá nhân hãy chia sẻ niềm tin cho cả những người khác nữa.  Năm Đức Tin, cũng giống như Tân Phúc Âm Hóa, kêu mời người giáo dân công giáo đổi mới hầu liên kết mật thiết với Đức Kitô và chia sẻ sự tương quan ấy với mọi người.

Năm Đức Tin Ảnh Hưởng Ra Sao Đối Với Người Công Giáo Bình Thường?
     Mỗi người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thông qua Bí Tích Rửa Tội, được mời gọi trở nên môn đệ Đức Kitô và rao giảng Tin Mừng.  Năm Đức Tin là một dịp để mỗi người và mọi người công giáo canh tân ơn gọi Rửa tội của mình bằng cách tuyên xưng đức tin, đức cậy, đức mến của mình từng giây phút trong cuộc sống hằng ngày.  Nhân chứng hằng ngày trong việc rao truyền Tin Mừng cho gia đình, bạn hữu, láng giềng và xã hội là điều cần thiết.  Để làm nhân chứng cho Tin Mừng, sức mạnh của người công giáo phải đươc củng cố qua việc tham dự cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật hằng tuần và Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội).

     Các linh mục có trách nhiệm khuyến khích và cung cấp cho giáo dân trong cộng đoàn, giáo xứ của mình tạo cơ hội gia tăng đào sâu đức tin suốt Năm Đức Tin.

The official Year of Faith logo (CNS)

     Lấy một thí dụ rất cụ thể:  như một người muốn làm sạch thửa đất, ngoài thiện chí là là sự đam mê, lòng muốn, trước nhất cần có những dụng cụ cơ bản như cuốc, xẻng, sau đó mới có thể trồng cây.  Giả sử cây đã trồng, nhưng hầu như gần đổ, ta phải đào đất sâu hơn để rễ cây có đủ chỗ bám víu.

     Dụng cụ cần có để đào sâu cho cây Đức Tin đâm rễ vững chắc và phát triển lâu bền, mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, giáo xứ ’’rất’’ cần có sẵn nhân lực (đội ngũ giảng thuyết và huấn luyện kinh nghiệm, đầy đủ kiến thức), các tài liệu học hỏi, nghiên cứu và các thực hành sau đây:

·   Kinh Thánh Cựu Ước Và Tân Ước. (để học hỏi và nghiên        cứu)
·   Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. (để học hỏi và nghiên cứu)
·   Học hiểu các Văn Kiện được Công Đồng Vatican II chuẩn nhận.
·   Xét mình thường xuyên và xưng tội (Bí Tích hòa giải)
·   Năng viếng Mình Thánh Chúa.
·   Thường xuyên đi đàng thánh giá.
·   Hành hương, nếu hội đủ điều kiện.
·   Tham dự các buổi tĩnh tâm và các lễ nghi đặc biệt.
·   Tham dự các buổi giảng thuyết về đề tài Năm Đức Tin.
·   Thường xuyên tham dự thánh lễ, đặc biệt các Chúa Nhật và Lễ Trọng.
·   Làm việc bác ái, từ thiện, đặc biệt hơn là ’’làm hòa với kẻ thù nghịch’’.
·  Tích cực tham dự các sinh hoạt do giáo xứ, cộng đồng tổ chức.
·   Tìm đọc các bài viết liên quan tới Năm Đức Tin, tới Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…









































   















Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

Ơn Toàn Xá Trong Năm Đức Tin


ƠN TOÀN XÁ TRONG NĂM ĐỨC TIN

The official Year of Faith logo (CNS)
Năm Đức Tin (2012-2013
 
     Theo sắc lệnh … ban hành ngày 5 tháng 10 năm 2012, do Đức Hồng Y Manuel Monteino và Đức Giám Mục Krzysztof Nyhiel, nhiếp chánh và chánh tòa Ân Giải tối cao (Penitenzieria Apostolica) ký, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI ban Ơn Toàn Xá cho các tín hữu nhân dịp Năm Đức Tin.  Ơn Toàn Xá có hiệu lực kể từ ngày khai mạc Năm Đức Tin, 11 tháng Mười 2012 cho đến ngày bế mạc, 24 tháng Mười Một năm 2013.

     Bản văn ghi chép:  ’’Kỷ niệm ngày long trọng khai mạc Công Đồng Vatican II cách nay 50 năm’’, Đức Thánh Cha Bênêđíctô đã ban hành sắc lệnh khai mạc một Năm đặc biệt dành cho việc tuyên xưng đức tin thiết thực và miêu tả ý nghĩa cách chính xác, qua việc đọc – hoặc sốt sắng suy niệm – các văn kiện của Công Đồng và các phần mục Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo.’’
     ’’Mục đích tối thượng là làm cho đời sống thánh thiện mỗi ngày một tăng triển hơn ở đời này, và từ đó tâm hồn có thể tiến tới mức độ thuần khiết nhất nhờ Ân Xá, do quyền năng của Đức Kitô trao tới Giáo Hội, để ban phát cho tất cả những ai tuân thủ và thi hành các qui tắc đã ấn định.’’
     ’’Suốt trong Năm Đức Tin, kéo dài từ 11 tháng Mười năm 2012 đến 24 tháng Mười Một năm 2013, Ơn Toàn Xá tha thứ tất cả các hình phạt tạm do tội lỗi của người tín hữu gây nên, nhờ lòng thương xót của Chúa, họ cũng có thể nhường Ơn Toàn Xá cho các linh hồn đã qua đời, với điều kiện là phải thật lòng ăn năn thống hối, xưng tội, rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng.''

[Ơn Toàn Xá tha thứ tất cả các hình phạt tạm do tội lỗi của người tín hữu gây nên, nhờ lòng thương xót của Chúa, họ cũng có thể nhường Ơn Toàn Xá cho các linh hồn đã qua đời, với điều kiện là phải thật lòng ăn năn thống hối, xưng tội, rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng.]

(A)  Được Ơn Toàn Xá, mỗi lần người tín hữu phải tham dự ít  nhất 3 bài giảng trong các kỳ Đại Phúc (Sứ Vụ Thánh), hoặc ít nhất là tham dự 3 bài học về các văn kiện của Công Đồng hoặc những phần mục Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, tại thánh đường hay bất cứ vị trí thích hợp nào khác.              

(B)  Được Ơn Toàn Xá, mỗi lần người tín hữu thăm viếng, dưới hình thức hành hương, một vương cung thánh đường giáo hoàng, một hang toại đạo Kitô giáo, một nhà thờ chính tòa hay một địa điểm thánh do đấng bản quyền địa phương chỉ định cho Năm Đức Tin (thí dụ, các tiểu vương cung thánh đường và các đền đài dâng kính Đức Trinh Nữ Maria, các Thánh Tông Đồ hoặc các thánh bổn mạng), hay tham dự một lễ nghi thánh, hoặc ít nhất ở lại một khoảng thời gian ngắn cầu nguyện và sốt sắng suy niệm, kết thúc bằng Kinh Lạy Cha, Tuyên Xưng Đức Tin dưới bất cứ hình thức nào chính đáng, và cầu khẩn Đức Trinh Nữ Maria, và tùy theo mỗi trường hợp, các Thánh Tông Đồ và các thánh bổn mạng.

(C)  Được Ơn Toàn Xá, mỗi lần người tín hữu tham dự Thánh Lễ trọng thể hay các Giờ Kinh Phụng Vụ vào các ngày do đấng bản quyền địa phương ấn định cho Năm Đức Tin, tại bất cứ địa điểm thánh nào, kèm theo việc Tuyên Xưng Đức Tin dưới bất cứ hình thức thích nghi nào.

(D)  Người tín hữu tự ý chọn một ngày trong Năm Đức Tin, kính viếng giếng rửa tội, hoặc nơi nào khác mà họ đã lãnh nhận Bí Tích Rửa tội, và lập lại các lời hứa lúc chịu phép Rửa tội dưới bất cứ hình nào chính đáng.’’    

 

 

 

 

 

 

 
 
 

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Tôi Tin Kính Đức Chúa Trời, Là Cha......

Nhân dịp Năm Đức Tin (2012 – 2013)
các giám mục Bắc Âu sẽ lần lượt gửi các suy tư của mình đến giáo dân.
Suy tư I của Đức Cha Anders Aborelius, giám mục Thụy Điển - chuyển sang Việt ngữ :

    Tôi Tin Kính Đức Chúa Trời
     Là Cha Phép Tắc Vô Cùng
     Dựng Nên Trời Đất

    Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo mọi sự.  Là Đấng hằng sống, Người cho các vật sáng tạo hoàn hảo vận chuyển điều hòa trong không gian và thời gian. 
Năm Đức Tin (2012 - 2013)
     Toàn thể các tạo vật chứng minh thiện tâm và vẻ kiều diễm của Thiên Chúa trên trời. Chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của Thiên Chúa này ở khắp mọi nơi trên toàn cầu.
 
    Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa; Chúng ta được tạo dựng để nhận biết Người, và sống trong sự hiệp thông liên tục với Người, Thiên Chúa Ba Ngôi.
 
     Thiên Chúa là nguồn tình yêu liên hợp vĩnh cửu giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.
 
     Chúng ta luôn khao khát quay về trong sự kết hợp tình yêu với Thiên Chúa – dù ý thức hay vô thức.  Chúng ta được sáng tạo thành vật biết  yêu mến, bởi vì chính Thiên Chúa là tình yêu.

    Trong Ba Ngôi, Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, mà không tự tạo thành. Trong Người, Chúa Con được sinh ra từ trước muôn đời. Chúa Cha không bao giờ không có Chúa Con, và Chúa Con không bao giờ không có Chúa Cha.  Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con và các Đấng liên kết với nhau trong tình yêu. 
 
     Vì qúa yêu thương, Thiên Chúa sáng tạo mọi vật trên thế gian này, như chúng ta đã biết, và ở trên trời, mục tiêu cuối cùng của chúng ta.
 
     Chúng ta tin Thiên Chúa toàn năng, Đấng nắm giữ toàn thể vũ trụ trong bàn tay yêu thương của Người.  Chúng ta luôn an nghỉ với Cha trên trời. Bất cứ sự gì đến trong bàn tay chúng ta trên trái đất này, chúng ta biết, Người nhìn tới chúng ta bằng tấm lòng thương xót của Người và ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần. 

     Khi Chúa Cha sai Con của Người đến với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô thì tất cả mọi sự đều trở nên hiển nhiên đối với chúng ta. Đức Giêsu luôn nói về Cha Người và Cha chúng ta. 
 
     Trong các dụ ngôn, Đức Giêsu cố gắng giải thích cho chúng ta biết tình yêu vô biên nơi trái tim Chúa Cha. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, thông qua Người Con, và được mời gọi để hiệp thông với Chúa Cha.
 
     Chúa Thánh Thần luôn nhắc nhở chúng ta điều ấy.  Cuộc sống trần thế của chúng ta sẽ được cứu độ và giải thoát khỏi tất cả mọi sự ác, ngăn cản chúng ta trong việc hiệp thông với Chúa.  Chúa Cha muốn, thông qua Người Con, chúng ta trở nên ’’con cái trong Người Con’’, như lời các giáo phụ của Giáo Hội mô tả, những con cái yêu dấu của Người.
 
     Chúng ta nghe đi nghe lại trong các bài Phúc Âm, Đức Giêsu cố gắng giải thích cho chúng ta biết Chúa Cha mong muốn chúng ta như thế nào, không kể chúng ta là ai hoặc chúng ta đã hành động ra sao. Dụ ngôn người con hoang đàng muốn diễn tả lòng thương xót Chúa Cha, chỉ ước ao tha thứ tội lỗi và sai lầm của chúng ta.             
    Cùng lúc, Đức Giêsu nói rằng, chúng ta phải nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.  Vì chúng ta được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải cố phấn đấu để nên giống Chúa mỗi ngày một hơn.
 
     Sự tốt lành và công chính vô biên của Người phải được thể hiện trong và qua chúng ta.  Chúng ta có trách nhiệm quản lý đời sống trần thế của mình, nhân danh Chúa Cha.  Qua lối sống của mình, chúng ta có thể loan truyền lòng tốt và hay thương xót của Thiên Chúa.
 
     Trần gian tràn đầy vinh quang Thiên Chúa, và chúng ta có trách nhiệm chăm sóc các vật sáng tạo, Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta quản trị. 
 
     Chúng ta phải liên tục rà xét lương tâm và nếp sống của mình, để cuộc sống của chúng ta xứng hợp với lòng tin, quyền năng và sự tốt lành mà Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta. 
     Trong cầu nguyện, chúng ta tìm thấy sức mạnh đổi mới và niềm vui đối với tác vụ trần thế, sẽ dẫn chúng ta tới mục tiêu nước trời.  Vì thế, Đức Giêsu dậy chúng ta cầu xin Cha chúng ta - Kinh Lậy Cha -.  Qua đó chúng ta cải tiến việc hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha.     


Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012

Chúa Nhật XXIX Thường Niên - Năm B

Các bài đọc trích sách: - Isaia 53,10-11; - Thánh Vịnh 33,4-5.18-20.22; - Do Thái 4,14-16; - Máccô 10,35-45

 
Người Làm Đầu Phải Hầu Hạ

 
    Không việc làm nào quái dị hơn khi gia đình xum họp, rồi cãi vã, và sau đó quyết định thiết đặt một chế độ quản trị lẫn nhau. Sự kiện ấy được kể là bất thường và xem ra có vẻ chướng tai gai mắt! 

     Cũng vậy, khi biết Giacôbê và Gioan đến xin Đức Giêsu ban cho các ông những điều các ông muốn là, người này sẽ ngồi bên hữu, người kia sẽ ngồi bên tả Đức Giêsu, thì các môn đệ khác tỏ ra khó chịu và tức giận; đó là phản ứng tất nhiên.  Có lẽ, đa số trong chúng ta đều đồng cảm với sự phẫn nộ ấy.

     Hai môn đệ kia nói với Đức Giêsu rằng: ’’xin Thầy cho chúng con một ân huệ.’’  Lời van xin ấy xét ra tầm thường và nặng phần trần tục qúa, khó có thể chấp nhận được, bởi vì, như thế, chẳng khác nào chúng ta yêu cầu ’’Chúa hãy làm điều chúng con muốn.’’. 

     Khi đặt để điều chúng ta muốn, chúng ta ước ao, chúng ta khao khát, lên hàng ưu tiên số một, thì chúng ta đã không thực hiện đúng tấm gương tự quên mình của Đức Giêsu!  Nếu chỉ để ý tới những nhu cầu cho riêng mình, thì chúng ta không bao giờ còn thì giờ và cơ hội nghĩ tới nhu cầu của người khác nữa.

     Nếu cho rằng những điều mình nghĩ tới phải được ưu tiên đáp ứng, thì chúng ta đã quên là, mọi sự chúng ta có đều đến từ Thiên Chúa; và chúng ta cũng quên rằng, cốt lõi trong các lời cầu nguyện đích thực phải là:  ’’Ý Chúa được thể hiện…’’

     Thỉnh nguyện của Giacôbê và Gioan phát sinh từ sự hiểu lầm nội dung Tin Mừng của Đức Kitô Giêsu.  Có lẽ, các ông đang mộng tưởng được tiến vào một vương quốc với tràn đầy vinh quang, mà trong đó tất cả mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống đã được thiết bị sẵn sàng.  Các ông hình dung ra các chức vụ cao trọng, sáng giá.  Nói tóm lại, các ông đang săn đuổi ’’những việc làm dành cho tuổi trẻ nông nổi.’’ 

     Tuy nhiên, chúng ta không nên nặng lời phàn nàn, trách móc, bởi vì, kể cả chúng ta, nếu có cơ hội, chưa chắc chúng ta đã không hành động như hai môn đệ kia. 

     Chỉ vì muốn trở thành một nhân vật ấn tượng trong thế gian, nên chúng ta bất chấp việc dấn thân của mình có thể gây ảnh hưởng tới an ninh bình thường của quốc gia, dân tộc, nơi mình đang có liên hệ.  Chỉ vì nghĩ rằng, bổn phận của chúng ta là bảo tồn phẩm cách của mình và cảm thấy có trách nhiệm đối với xã hội chúng ta đang có liên hệ, nên chúng ta gắng công tranh giành, nắm bắt quyền lực, chiếm đoạt các chức vụ danh dự, bất chấp việc dấn thân của chúng ta có thể gây thiệt hại tới đời sống người khác. 

     Muốn được người đời tôn trọng và ngưỡng mộ, nhiều chức sắc trong Giáo Hội, dù đã được huấn luyện chu đáo về luân lý, cũng vẫn nuôi dưỡng cùng một tham vọng và hành động tương tự!

     Biết các môn đệ ứng xử sai lầm, nhưng Đức Giêsu vẵn lắng nghe các ông nói.  Điều Đức Giêsu muốn trắc nghiệm nơi các ông và hỏi: ’’Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép Rửa Thầy sắp chịu không.’’ (Máccô 10,38)  Danh dự và địa vị trong Vương quốc Thiên Chúa vô cùng đắt giá. 

     Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tự nguyện từ bỏ tất cả.  Cuộc sống với Đức Giêsu không phải là cuộc sống tìm kiếm địa vị để chiếm đọat và thu hút những cặp mắt thiển cận trần gian.  Tấm gương tự hiến mạng sống mình vì yêu thương của Đức Giêsu, giúp chúng ta can đảm dấn thân phục vụ vì lợi ích nhân loại. 

     Là con cái Chúa, được Chúa Cha yêu thương, nên chúng ta cần hiểu rằng, không ơn gọi nào cao trọng hơn những gì chúng ta đang sở hữu, và chính vì thế, chúng ta chẳng còn cần một địa vị nào khác nữa. 

     Chúng ta có một gương mẫu, một thần tượng, là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã đến trong thế gian, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ.
’’Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã hiến mạng sống
 vì yêu thương con.
Xin Chúa giúp con biết đáp trả
 tình yêu của Chúa
bằng việc tự hiến thân
phục vụ Chúa và tha nhân.’’