Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật III Thường Niên  -  Năm Lẻ
Các bài đọc trích sách: - Do Thái 10,32-39; - Thánh Vịnh 37,3-6.23-34.39-40; - Máccô 4,26-34


Bài ĐọcDo Thái 10,32-39  -     Anh Em Phải Kiên Nhẫn


Nhìn lại qúa khứ với thái độ trân trọng, chúng ta nhận thấy rõ, cha ông chúng ta là những người rất can đảm, đã hy sinh tính mạng vì Đức Kitô và Giáo Hội cũng như tha nhân.  Các ngài là những đội quân nòng cốt đã góp phần xây dựng Giáo Hội, khiến chúng ta không thể mau chóng quên lãng.  Những người Kitô hữu tiên khởi là chứng minh hùng hồn cho lời nói tiêu biểu của Tertullian:  ‘’Máu tử đạo là hạt giống của Giáo Hội.’’  Hạt giống các ngài trồng trên nền tảng vững chắc, sâu xa và kín đáo.

Thư gửi tín hữu Do Thái nhắc chúng ta nhớ tới những bách hại khủng khiếp mà các tín hữu tiên khởi phải hứng chịu (Do Thái 10,32).  Nhưng các ngài đã giữ vững lập trường trước mặt đối phương.  Mặc dù chịu bách hại, khổ đau, các ngài vẫn tỏ ra vui tươi, thoái mái; mặc dù trải qua thử thách cam go, các ngài luôn vững tin có bàn tay Chúa che chở cuộc sống của mình.  Các ngài trông cậy vào Chúa, mỗi khi gặp khó khăn, thử thách.  Nhờ vững tin, các ngài đã không thất bại. 

Từ trước tới nay, đức tin vẫn được kể là nền văn hóa đối nghịch trần gian.  Tuy nhiên, là những người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận bảo vệ và phát triển giá trị truyền thống đức tin của các tín hữu tiên khởi.  Chúng ta nên vui tươi, mặc dù gặp bất trắc trong cuộc sống, và vững lòng tin vào ơn phù trợ của Thiên Chúa – can đảm chống chọi với sóng gió, giông bão

Người Kitô hữu ngày nay phải trở nên nhân chứng, nghĩa là người không bao giờ mất niềm tin, là người sẵn lòng đón nhận chê cười, nhạo báng, vu khống và hiểu lầm chua cay.  Nhưng, làm cách nào chúng ta có thề sống với các bất trắc nêu trên?  Những điều căn bản nào cần có trong cuộc sống làm nhân chứng đích thực của Đức Kitô và Tin Mừng?
 
Chúng ta cần noi theo lối sống của các tín hữu Do Thái thuộc Giáo Hội sơ khai, và hơn một trăm thánh tử đạo Việt Nam.  Các ngài luôn hướng tới một cuộc sống ở bên kia thế giới hiện tại, nghĩa là các ngài có một tầm nhìn và suy tư về những sự trên trời.  Các ngài hướng tới một thế giới trường cửu, tốt đẹp và hạnh phúc nhất.  Đó là Nước Trời, nơi Đức Kitô sẽ thống trị muôn đời.

Chúng ta đang sống giữa một xã hội với những xung đột tinh thần, nên cần phải chiến đấu vì ích lợi cho linh hồn mình. Hằng ngày, chúng ta phải đối đầu với kẻ thù, vững tâm theo Đức Kitô, vượt qua mọi cám dỗ và sống một cuộc đời trong Chúa Thánh Thần. 

Gioan Don Boscô là một trong số các vị thánh có nhiều kinh nghiệm về trận chiến tinh thần, do đó người luôn sống một cuộc đời chứng nhân như kẻ được tràn đầy Thánh Thần.  Dưới đây là đôi lời nhắn bảo của thánh nhân:

’'Khi bị cám dỗ, bạn hãy kêu cầu thiên thần của bạn.  Người ao ước giúp đỡ bạn hơn là bạn muốn giúp đỡ!  Đừng quan tâm tới ma qủi là kẻ thù, và cũng đừng sợ hãi y.  Y sẽ run sợ và cao bay xa chạy khỏi tầm nhìn của thiên thần bản mệnh của bạn’’
(Thánh Gioan Don Boscô)

Tin MừngMáccô 4,26-34  -      Nước Thiên Chúa Giống Như Hạt Cải










Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Thánh (Gioan) Don Bosco, Linh Mục, Nhà Giáo Dục Giới Trẻ

Thánh (Gioan) Don Boscô

Sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại Castelnuovo d’Asti, Piedmont,
Qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 (hưởng thọ 72 tuổi), tại Turin (Ý).
Được Giáo Hội Công Giáo và các cộng đồng Tin Lành tôn kính.
Đức Giáo Hoàng Piô XI phong Á thánh ngày 2 tháng 6 năm 1929, tại Rôma.
Đức Giáo Hoàng Piô XI phong hiển thánh ngày 1 tháng 4 năm 1934, tại Rôma.
Thánh tích lưu giữ tại mộ thánh Gioan Don Bosco
và Đền thánh Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu, tại Turin (Ý).
Ngày kính nhớ:  31 tháng 1 hằng năm.
Quan thầy các tập sự viên, biên tập viên,
các nhà xuất bản, học sinh, giới trẻ, các nhà ảo thuật  

Tổng Quát.-
     Gioan Boscô, tên tiếng Ý là Giovanni Melchiorre Boscô, và được biết đến với tên Don Boscô, có lẽ vì Người sinh tại Castelnuovo Don Bosco thuộc thị trấn Asti.




Thánh Don Bosco Và Nhóm Trai Trẻ

     Don Bosco là một linh mục công giáo, người Ý, và là nhà giáo dục kiêm văn sĩ thế kỷ XIX, Don Boscô đã thể hiện niềm tin tôn giáo của mình, và cống hiến cuộc đời cho việc cải thiện và giáo dục trẻ em đường phố, các phạm nhân vị thành niên, cũng như giới trẻ có hoàn cảnh khó khăn; Don Boscô đã sử dụng phương pháp giáo dục đặt trên nền tảng tình yêu, thay vì trừng phạt; một thể thức được kể là theo Tổ Chức Phòng Bị Salêdiêng (Salesian Preventive System) - tức là những người sống theo tôn chỉ của thánh Phanxicô Salêsiô.

     Là môn đệ chịu ảnh hưởng về tâm linh và triết lý của thánh Phanxicô Salêsiô, Don Boscô đã dâng hiến các việc làm của mình cho thánh Phanxicô Salêsiô khi Người thành lập Tu Hội Don Boscô Đoàn Sủng Salêdiêng (Salesians of Don Bosco). 

    Cùng với Maria Domenica Mazzarello 9/5.1837 – 14/5.1881), Don Boscô thành lập Viện Nữ Tử Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu, một Tu Hội Nữ tận hiến cho việc chăm sóc và giáo dục các thiếu nữ nghèo.

     Năm 1876, Don Boscô thành lập một phong trào giáo dân tên là Hiệp Hội Liên Hợp Đoàn Sủng Salêdiêng (Association of Salesian Cooperators), mang cùng sứ vụ giáo dục giới bần hàn. 

     Năm 1875, Don Boscô phát hành Bản Tin Salêdiêng (Salesian Bulletin), và cho đến nay, Bản Tin vẫn còn tiếp tục với 50 ấn bản khác nhau bằng 30 ngôn ngữ.  Don Boscô thiết lập một mạng lưới các tổ chức và trung tâm để hoàn tất các tác vụ liên hệ.  Sau khi được tôn phong Á thánh vào năm 1929, Don Boscô lại được Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng lên bậc hiển thánh vào năm 1934.

Đời Sống.-
     Don Boscô sinh vào buổi chiều ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại Becchi (miền Bắc nước Ý).  Don Boscô là con trai út ông Francesco Boscô (1784-1817) và bà Margherita Occhiena Boscô (1/4.1788-25/11.1856), một phụ nữ công giáo gương mẫu, đã trợ giúp thánh Don Boscô trong mọi công việc, và đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tôn phong Á thánh ngày 23 tháng 10 năm 2006.  Don Boscô có hai người anh trai, tên là Antôniô và Giuseppe (1813-1862).  Gia đình Don Boscô xuất thân từ nông dân.  Don Boscô sinh ra vào thời điểm rất túng thiếu, và nạn đói diễn ra  khắp miền quê Piedmotese, tiếp nối là cảnh tàn phá do cuộc chiến Napôlêôn gây nên, và hạn hán xẩy ra vào năm 1817.

     Margherita, thân mẫu Don Boscô, đã đóng một vai trò lớn trong việc đào luyện và tạo nên cá tính đặc thù của Don Boscô; đồng thời bà là người đầu tiên nâng đỡ các ý tưởng siêu việt của con trai mình. Khi còn trẻ, Don Boscô đã chứng minh khả năng qua các trò ảo thuật, nhẩy múa, nhào lộn, với lời cầu nguyện trước và sau khi trình diễn.

     Lúc 9 tuổi, vào năm 1825,  Don Boscô đã có một giấc mơ đầu tiên là sẽ đóng một vai trò tạo nhiều ảnh hưởng nhờ ước vọng và nỗ lực hành động.  Hồi ký của Don Boscô viết:  ’’Giấc mơ đầu tiên để lại cho tôi một ấn tượng sâu đậm trong suốt cuộc đời’’.  Don Boscô trông thấy rõ một người đàn ông ’’xuất hiện, phục sức sang trọng, vóc dáng đầy nam tính với vẻ oai phong’’.  Người đàn ông nói với Don Boscô:  ’’Bạn sẽ phải chiến thắng các bạn hữu của bạn, không bằng võ lực, nhưng bằng lối sống hiền dịu và hào hiệp.  Vậy bắt đầu ngay từ bây giờ hãy chứng tỏ cho họ biết tội lỗi là xấu xa, tiết nghĩa thì đẹp’’.

     Nghèo đã làm cản trở hoàn toàn việc Don Boscô cắp sách đến trường.  Vì thế, người ta nghĩ rằng tư tưởng trở thành một linh mục chớm nở ngay từ những kinh nghiệm tuổi niên thiếu của Don Boscô.  Vào thời ấy, linh mục thường được coi như một nghề dành riêng cho tầng lớp có đặc quyền, chứ không cho nông dân, mặc dù việc đó không phải là không ai biết đến. Một số nhà viết danh nhân tiểu sử cho rằng anh của Don Boscô, Antoni là người chính yếu làm trở ngại tham vọng tiến thân, qua việc học của Don Boscô, khi nói rằng Don Boscô cũng ’’chỉ là một nông dân như chúng tôi mà thôi.’’  

     Tuy nhiên, Margaret đã hết lòng ủng hộ Don Boscô, nhưng cuối cùng, vào tháng Hai năm 1828, lúc 12 tuổi, Don Boscô đã phải rời bỏ nhà lên đường với ý niệm tha phương cầu thực.  Trực diện với cuộc sống vào lúc tuổi còn trẻ như vậy, nên Don Boscô đã có thể phát triển sự đồng cảm của mình, hầu sau này tạo cơ hội giúp đỡ các thiếu niên bị đời bỏ rơi.  Xin làm việc không được, Don Boscô đành cầu cứu, để được độ thân tại trại sản xuất rượu của dòng họ Louis Moglia.  Dù thế, Don Boscô vẫn cố gắng tiếp tục nghiên cứu, trong thời gian 2 năm, một số đề mục, mà trước kia Người không thể thực hiện được ở nhà trường. 

     Năm 1830, Don Boscô gặp Giuseppe Cafasso (15/1.1811- 23/6.1860), một linh mục đang giữ trọng trách cải cách xã hội thời đầu thế kỷ 19 tại Turin (Ý) đã khám phá được tài năng thiên phú của Don Boscô, và ủng hộ Người học hành trong thời gian đầu.

Chức Linh Mục và Công Việc Mục Vụ Đầu Tiên.-
     Don Boscô bắt đầu làm tuyên úy cho trường nữ nội trú (Rifugio) do hầu tước phu nhân Guilia di Barolo thành lập tại Turin, nhưng bên cạnh đó, Don Boscô còn đảm trách thêm nhiều công việc mục vụ khác như thăm viếng tù nhân, dậy giáo lý và giúp các giáo xứ lân cận.  

     Dần dà một nhóm thanh niên cũng đến Rifugio chơi và học giáo lý vào các Chúa Nhật và những dịp lễ trọng, vì họ là những người qúa tuổi, không thể hòa đồng với các em thiếu nhi trong giờ học giáo lý định kỳ tại giáo xứ.  Nhờ thế Nhóm Hùng Biện theo đường hướng của thánh Phanxicô Salêsiô bắt đầu hoạt động.  Don Boscô và Nhóm Hùng Biện di chuyển quanh thành phố trong nhiều năm, khiến nhiều nơi học hỏi và tiếp nối công việc của họ.  Hoạt động tại nhà thờ thánh Martin mới chỉ được hai tháng, thì toàn thể lối xóm khiếu nại về việc các trai trẻ chơi đùa gây ồn ào, náo động, nhưng duy nhất chỉ có một khiếu nại chính thức gửi lên tòa thị trấn địa phương. Tin đồn lan ra khắp vùng rằng, những buổi họp mặt của các trai trẻ do linh mục điều động và hướng dẫn là nguy hiểm, vì các cuộc vui chơi, giải trí của họ có thể biến thành một cuộc cách mạng chống đối chính quyền. Do đó, nhóm này đã bị trục xuất. 
 
Vương Cung Thánh Đường Don Boscô Ở Asti
     Năm 1846, Don Boscô thuê một chái nhà kho của ông Pinardi, trong khu Tân Valdocco, giáp ranh miền cực bắc thành phố. Chỗ này được coi như căn nhà mới của Nhóm.  Thân mẫu Don Boscô cũng di chuyển tới ở với Người và đến năm 1844, ’’Mamma Margherita’’ bắt đầu tiếp nhận trẻ mồ côi.

     Ngay trước khi việc này xảy ra, Don Boscô đã từng giúp một số bạn hữu thuộc Nhóm Hùng Biện, trong ấy có cả Joseph Cafasso và Borel, cũng như các trẻ trai lớn tuổi hơn như Giuseppe Buzzetti, Michael Rua (tên tiếng Ý là Michele Rua), (9/6.1837-6/4.1910), một linh mục công giáo người Ý, cũng là nhà hoạt động xã hội, một người bạn và đồng sáng lập viên Tu Hội Don Bosco Salêdiêng với Don Bosco, đó là Givanni Cagliero, SDB (11/1.1838-28/2.1926) một hồng y người Ý, từng là khâm mạng tòa thánh Rôma ở Nicaraqua từ 1908, đến khi nhậm chức hồng y vào năm 1915; và Carlo Gastini.

     Một người bạn có tầm ảnh hưởng lớn xuất thân từ Piedmortese, Bộ Trưởng Tư Pháp,  Urbano Pio Francesco Rattazzi (29/6.1808-5/6.1873); mặc dù là một nhân vật thuộc thành phần chống giáo sĩ, nhưng ông cũng đã thừa nhận một số tác vụ của Don Bosco.  Trong khi Ratazzi làm một bản dự luật thông qua hệ thống tư pháp Sardinia với dụng ý bài trừ các Tu Hội, nhưng ông lại chỉ bảo Don Boscô cách thức có thể, dựa theo luật pháp, thành lập một Tu Hội hầu Nhóm Hùng Biện vẫn có thể tiếp tục hoạt động sau khi vị sáng lập qua đời.  Don Bosco suy nghĩ rất kỹ vấn đề này và dần dần tìm cách tổ chức đưa những người trợ tá vào Tu Hội Thánh Phanxicô Salêsiô (Congregation of St. Francis de Sale) đang hoạt động quá lỏng lẻo.  Người huấn luyện việc tuyển chọn các trai trẻ lớn tuổi hơn vào chức linh mục.  Thêm một nhân vật ủng hộ lý tưởng của Tu Hội chính là Giáo Hoàng đương nhiệm, Đức Chân Phước Piô IX (13/5.1792-7/2.1878), tên thật là Givanni Maria Mastai-Ferretti, một Giáo Hoàng tại nhiệm lâu dài nhất trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo - từ 16/6.1846 cho đến khi Người qua đời, tức 32 năm -.  Trong ngôi vị Giáo Hoàng , Người đã triệu tập Công Đồng Vaticanô I vào năm 1869, trong đó Người đã công bố sắc lệnh không sai lầm của Đức Thánh Cha và một số sắc lệnh cũng như tín điều khác.

     Don Boscô không thích những lý tưởng đã được sử dụng trong cuộc cách mạng Pháp, mà nòng cốt xuất phát từ hai nhà lãnh đạo khó tin tưởng, thiếu thiện cảm với Công Giáo, đó là nhà văn, triết gia Jean-Jacques Rousseau (28/6.1712-2/7.1778) và nhà văn, sử gia kiêm triết gia Francois-Maria Arouet, được biết đến với tên Voltair (21/11.1694-30/5.1778), tuy nhiên họ vẫn không phủ nhận quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng.

     Năm 1854, khi vương quốc Sardine thông qua đạo luật đàn áp các Tu Hội và tịch biên tất cả tài sản của Giáo Hội, Don Bosco tiết lộ một loạt các giấc mơ liên hệ tới những ’’đám tang của triều đình’’, ám chỉ các chính trị gia và thành viên triều đình Savoy. 

     Tháng 11 năm 1854, Don Bosco gửi một lá thư lên quốc vương Victor Emmanuel II (tên thật là Vittorio Emmanuele Maria Alberto Eugenio Ferdinando Tommaso, 14/3.1820-9/1.1878), khuyên nhủ nhà vua lên tiếng phản kháng việc tịch thu tài sản Giáo Hội và dẹp bỏ các Tu Hội, nhưng quốc vương không phúc đáp. 

     Các việc làm của Don Boscô được sử gia Ý Erberto Petoia diễn tả như là cách ’’biểu lộ những răn đe’’; và đã kết thúc sau khi được sự can thiệp của Thủ Tưởng Camillo Paopo Filippo Guilio Benso, bá tước của Cavour, Isolabelle và Leri; (10/8.181-6/6.1861).

     Vì bất chấp những lời chỉ trích, thực tế, bạt hạnh xảy ra là, một số cá nhân thuộc vương gia đã bị tử vong.  Từ tháng giêng năm 1855, mẹ vua chết lúc 54 tuổi, vợ vua chết lúc 32 tuổi, con trai còn sơ sinh (Vittorio Emanuele, bá tước của Genoa) chết lúc gần 4 tháng tuổi, và người em trai duy nhất chết lúc 32 tuổi.  Nghĩa là tất cả đều chết.

Thánh Ảo Thuật Don Bosco Và Nhóm Trẻ
     Don Bosco và việc làm của Người bị chống đối từ tứ phía.  Thành phần giáo sĩ theo truyền thống quốc gia tố cáo Người là đã ăn cắp nhiều trai trẻ và giới trưởng thành từ các giáo xứ của họ đem đi.  Thành phần quốc dân chính trị gia (kể cả vài ba giáo sĩ) cho rằng việc mấy trăm trai trẻ được Don Bosco tuyển chọn chỉ với mục đích làm cách mạng.  Marquis de Cavour, cảnh sát trưởng Turin, coi những buổi học giáo lý ngoài trời nhuốm mầu sắc chính trị cách công khai, và là một đe dọa đối với quốc gia, tạo nên sự nghi ngờ là có sự trợ giúp của Đức Thánh Cha.  Don Bosco bị thẩm vấn nhiều lần, nhưng không bị buộc tội.  Cuối cùng, vua ban lệnh hủy bỏ lệnh cấm đoán, nên Don Bosco không còn bị quấy phá nữa.

     Năm bẩy biến cố đáng tiếc xẩy ra trong cuộc đời của Don Bosco, trong đó cần kể tới việc có kẻ dùng dao, kiếm và súng, toan tính đâm, chém và bắn Người. Các danh nhân sử gia đầu tiên cố tình để các vụ việc này chìm xuồng, lắng dịu, hầu một Phong Trào Kitô giáo bắt nguồn tại Lyon (Pháp), vào cuối năm 1170 với các tên gọi như Waldensian, Waldenses, Vallenses hoặc Vaudois tạo thêm ảnh hưởng trong việc chống đối các giáo sĩ công giáo.

Thành Lập Dòng Don Bosco Salêdiêng.-
      Năm 1859, Don Bosco chọn một linh mục có kinh nghiệm, Vittorio Alasonatti, 15 chủng sinh và một trai trẻ cấp trung học để hình thành Tu Hội Thánh Phanxicô Salêsiô (Society of the St. Francis de Sales).  Đây là các nhân tố của Salêdiêng (đệ tử thánh Salêsiô), một Dòng sẽ tiếp nối sứ vụ của Don Boscô. Đến phiên họp kế tiếp, tất cả bầu cử Joseph Rossi, một hội viên giáo dân, làm tu sĩ Salêdiêng tiên khởi. Dòng Salêdiêng được chia thành giới linh mục, giới chủng sinh và giới tu sĩ, thuộc thành phần giáo dân (coadjutors).

     Kế đến, Don Bosco hợp tác với Mary Mazzarello và một nhóm phụ nữ ở thị trấn đồi Mornese. Năm 1871, Don Boscô thành lập một đoàn sủng nữ tử để hoạt động cho nữ giới, giống như các Salêdiêng đang làm cho nam giới. Tu Hội này mang tên là ’’Nữ Tử Đức Bà Phù Hộ Giáo Dân’’ (Daughters of Mary Help of Christians).  Năm 1874, Don Bosco còn thành lập thêm một nhóm khác, gọi là ’’Các Cộng Sự Viên Salêdiêng’’ (Salesian Cooperators); thành phần này hầu hết là giáo dân, dấn thân phục vụ giới trẻ, giống như các Nữ Tử và các Salêdiêng, nhưng không thuộc về bất cứ một Tu Hội nào.

     Các Salêdiêng đầu tiên đến Hoa Kỳ năm 1875.  Sau khi chịu chức, Don Bosco thân chinh trở thành một nhà truyền giáo; dù không là giám đốc của Don Boscô, Jeseph Cafasso, cũng phản đối ý kiến ấy.  Tuy nhiên, Don Bosco vẫn hăng say đọc ấn bản Biên Niên Sử Truyền Bá Đức Tin bằng tiếng Ý, và sử dụng tạp chí này để giải thích tác vụ của mình trên Cattolico Provveduto (1853) và các Sổ Biên Tháng Năm (1858).

     Khi Don Bosco thành lập Tu Hội Salêdiêng, ý tưởng liên hệ tới việc truyền giáo vẫn còn ám ảnh Người, mặc dù vào thời điểm ấy, Người hoàn toàn thiếu phương tiện tài chánh.  Don Bosco nói rằng, Người có thêm một giấc mơ cho biết, Người đang ở trên một cánh đồng bao la, dân cư chất phác, chỉ dùng thì giờ vào việc săn bắn thú vật hoặc bắn giết lẫn nhau, hay chống lại các binh lính mang đồng phục Âu châu.  Cùng lúc một đoàn thuộc hội truyền giáo cũng đặt chân tới, nhưng tất cả đều bị tàn sát.  Nhóm thứ hai xuất hiện, tức thì Don Bosco tổ chức thành các Salêdiêng.  Ngạc nhiên thay, Người nhận xét có một sự thay đổi bất ngờ, khi thấy những con người hung hãn man rợ buông súng và lắng tai nghe các nhà truyền giáo.  Giấc mơ gây ấn tượng lớn trong Don Boscô, và sau đó, Người cố gắng, trong suốt ba năm, thu góp tin tức về nhiều nước khác nhau, hy vọng có thể xác định rõ đám đàn ông cũng như quốc gia liên quan đến giấc mơ.

     Do thỉnh cầu đến từ Argentina, khiến Don Bosco quan tâm tới những người Mọi Da Đỏ (Indians) ở Patagonia, một địa danh nằm về phía Nam Mỹ, là điểm chung nối liền giữa Argentina và Chí Lợi; nh việc nghiên cứu sắc dân đó, Don Boscô xác định được quốc gia và dân cư liên hệ tới các chi tiết trong giấc mơ của mình.

     Đến cuối năm 1874, Don Bosco nhận được một số thư đến từ Viên Lãnh Sự Argentina tại Savona, yêu cầu Người nhận một giáo xứ gốc Ý tại Buenos Aires và một trường học dành cho các trai trẻ ở San Nicolas de los Arroyos.

     Don Bosco coi đó như một dấu chỉ về việc đã tiên liệu, và chuẩn bị một tác vụ truyền giáo. Tiếp nhận con đường Phúc Âm hóa, mà không muốn để các nhà truyền giáo của Người phải đến với các bộ lạc hoang dã, man rợ, Don Bosco đề xuất việc thiết lập những căn cứ điểm an toàn làm nơi xuất phát và cư ngụ cho các nhà truyền giáo. Các cuộc thương nghị bắt đầu, sau khi Đức Aneiros, Tổng Giám Mục Buenos Aires công bố là Người rất vui mừng tiếp đón các Salêdiêng. 

     Trong một buổi lễ tổ chức vào ngày 29 tháng Giêng năm 1875, Don Bosco đã chuyển đạt các tin tức quan trọng đến các Nhóm Hùng Biện (Oratory). Đến ngày 5 tháng 2, Don Boscô loan báo cho các Salêdiêng diễn tiến vấn đề trên bản thông tư, yêu cầu tình nguyện viên viết đơn tham dự.  Don Bosco dự liệu, nhóm truyền giáo đầu tiên sẽ khởi hành vào tháng Mười.  Có khá nhiều tình nguyện viên tham dự.

Phương Pháp Phòng Bị.-
     Don Boscô có khả năng thu hút nhiều trai trẻ và những người trợ giúp tham gia ’’Hệ Thống Giáo Dục Theo Phương Pháp Phòng Bị’’ (Preventive System of Education). Don Boscô tin rằng, giáo dục là một ’’vấn đề của con tim’’, và Người nói, các trai trẻ không phải chỉ được yêu mà thôi, mà họ còn cần biết rằng họ được yêu. Người cũng nhấn mạnh tới ba yếu tố làm nên Hệ Thống Phòng Bị: ’’Lương Tri’’ (= trí hiểu biết về bên hay, bên tốt của con người, để tiếp nhận những sự hay sự tốt từ ngoài vào; một trong ba chất của thiên lương:  Người biết việc tham nhũng, gian nịnh là ô nhục mà vẫn làm, đó là người có lương tri, nhưng thiếu lương tâm); ’’Tôn Giáo’’, và ’’Hảo Tâm’’ (= lòng tốt, tính tốt, hảo ý, tánh tử tế, ân cần; lòng thảo lảo - tốt bụng, hay chia sớt miếng ăn; tánh người thảo lảo:  Mấy ai là kẻ hảo tâm, nắng toan giúp nón, mưa dầm giúp tơi.)  Âm nhạc và trò chơi cũng nên pha trộn hài hòa.

     Don Boscô sớm nổi tiếng là người thánh thiện và làm những việc mang tính cách thần diệu.  Vì lý do trên, Michael Rua, Giuseppe Buzzetti, Giovanni Cagliero và một số người khác đã ghi vào niên sử các lời Don Boscô nói và những việc Người làm.  Tất cả đều được bảo quản trong văn khố Salêdiêng. Sau đó, đóng chung lại thành 77 cuốn điểm báo (= tạp ghi những bài cắt từ báo chí…) với những lời cung khai miệng và các bút ký của chính Don Boscô về Nhóm Hùng Biện.  Mục đích của Người là viết tiểu sử một danh nhân cách chi tiết. Dự án này có thể trở thành một tài liệu gồm 19 cuốn sách, do Don Boscô và hai tác giả khác thực hiện. Những cuốn sách này gọi là ’’Các bút ký về danh nhân’’ (Biographical Memoirs).

Chết và Di Tặng.-
     Don Boscô qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888.  Hàng ngàn người tham dự lễ an táng của Don Boscô.  Chẳng bao lâu, sau ngày Don Boscô qua đời, dân chúng xin Giáo Hội phong thánh cho Người.  Đức Tổng Giám Mục Turin điều tra và kêu gọi các nhân chứng cho ý kiến, Don Boscô có xứng đáng là một vị thánh không. Lời cung khai của các Salêdiêng, các Nữ Đệ Tử và các Cộng Sự Viên rất có thế giá; nhưng một số người vẫn còn nhớ tới những cuộc tranh biện (controversia), vào năm 1870, giữa Don Boscô và Đức Tổng Giám Mục Gastadi, cũng như vài ba chức sắc cao cấp khác thuộc giáo quyền, nên họ nghĩ rằng Don Boscô là một ’’cây súng đại bác dãn lỏng’’ và là một ’’tay-buôn-lãng-tử’’.  Trong tiến trình phong thánh, có những lời chứng quanh việc Don Boscô đã đến với Gastadi như thế nào, để một số đệ tử của Don Boscô được thụ phong linh mục, và tình trạng thiếu chuẩn bị về chuyên môn, cũng như tu đức và phụng vụ của các cá nhân liên hệ. Các bộ phim hoạt hoạ chính trị (political cartoons) từ năm 1860 và sau này trình chiếu việc Don Boscô ’’rút’’ tiền từ túi các bà già hoặc đến Hoa Kỳ cùng mục đích. Có lẽ người ta chưa quên những bộ phim hoạt hoạ này.  Địch thủ của Don Boscô có cả một số hồng y, là thành phần ngăn cản án phong thánh cho Người; khiến nhiều Salêdiêng, vào năm 1925, sợ rằng việc chống đối của các vị có thể sẽ thành tựu.

     Đức Giáo Hoàng Piô XI (31.05.1857-10.02.1939, tên thật là Ambrogio Damiano Achille Ratti) biết Don Boscô và đẩy việc tố giác và kiện thưa về đàng sau, vì thế Don Boscô được phong Á thánh năm 1929, và được phong hiển thánh vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1934, cùng lúc được tôn vinh danh hiệu: ''Cha và Thày của giới trẻ’’.

     Đang khi Don Boscô trở nên rất nổi tiếng với tước vị là đấng phù hộ (quan thày) các nhà ảo tưởng (illusionists), thì ngày 30 tháng Giêng năm 2002, Silvio Mantelli, (một linh mục công giáo Salêdiêng, sinh ngày 22/5.1944 tại Turin – Ý - xuất hiện với tác vụ chính trong việc rao truyền Phúc Âm là dùng ảo thuật.  Diễn đài của người mang tên ’’Mago Sales.’’. Hiện ngay người là giám đốc ’’Qũy Mago Sales’’ - - Foundazione Mago Sales -.  Người đi khắp Âu châu và tới Đệ Tam Thế Giới để trình diễn ảo thuật cho giới trẻ), đệ đơn thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng chính thức công bố thánh Gioan Don Boscô là Quan Thày (Đấng Phù Hộ) Diễn Đài các Thuật Sĩ (Magicians). Các Thuật Sĩ Diễn Đài Công Giáo sử dụng phương thức ảo thuật tự do của thánh Don Boscô trong các màn trình diễn đặc biệt dành cho giới trẻ vào ngày lễ kính nhớ Người.
     Sứ vụ của Don Boscô được các đệ tử, các cộng sự viên tiên khởi và đồng bạn - Michele Rua -, được Đức Thánh Cha Leô XII (2/3.1810-20/7.1930, tên thật là Vincenzo Giachino Raffaele Luigi Pecci, giáo hoàng thứ 256), bổ nhiệm làm linh mục trưởng Tu Hội Salêsiêng vào năm 1888.

Huy Hiệu (Logo) Tu Hội Salêdiêng Don Bosco

Gồm hai loại hình nổi đè lên nhau.
Hình nổi mầu đỏ đậm chính yếu đan quyện vào nhau tạo thành ba mũi tên
mô tả Don Boscô và các Salêdiêng đồng hành với giới trẻ trên thế giới.
Hình nổi mầu đỏ nhạt là nền, diễn tả hoàn vũ tạo thành con đường hình chữ S
mời gọi các Salêdiêng tiến thân đến mọi nơi với tư cách là những nhà truyền giáo.
  








   



                       

            

            

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  -  Năm Lẻ

Các bài đọc trích sách: - Do Thái 10,19-25; - Thánh Vịnh 24,1-6; - Máccô 4,21-25

Bài ĐọcDo Thái 10,19-25  -     Đây Là Chốn Ta Nghỉ Ngơi
                                     Đến Muôn Đời



Cựu Ước gồm một số điều khoản hạn chế và cấm đoán.  Người Do Thái không được phép vào cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện -  máu thú vật dùng làm của lễ hiến tế không thể thanh tẩy tội lỗi. 

Mặc dù có thầy Cả và của lễ hiến tế, nhưng dân chúng vẫn cảm thấy không được gần gũi nhan Thiên Chúa.  Trái lại, Đức Giêsu chết trên thập giá, và máu châu báu của Người đổ ra, hoàn toàn làm thay đổi cục diện thế giới và nhân loại.

Bây giờ chúng ta có thể tin chắc rằng, chúng ta vào được cung thánh – tức là gian cực thánh - bằng và nhờ Máu Đức Giêsu Kitô.  Vị Thượng Tế hoàn hảo đã dâng lễ tế cũng hoàn hảo, và trả trọn giá vì tội lỗi thế gian.
 
Cựu Ước phân định rõ vị trí thờ tự, nghĩa là một tấm màn trướng phân chia Cung Thánh (là nơi Thượng Tế có thể vào được) và Nơi Cực Thánh (nơi không ai được phép vào, ngoại trừ Thượng Tế, nhưng chỉ Ngày Xá Tội – Yom Kippur - mới được vào.

Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ là một biểu tượng, nhưng chính là một hiện thực.  Khi Đức Giêsu tử nạn, thân xác Người giống như bức màn trướng ‘’trong Đền Thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới’’ (Máccô 15,38), làm thành một con đường, hầu ‘’chúng ta mạnh dạn bước vào cung thánh, nhờ máu Đức Giêsu.  Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sinh động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người’’ (Do Thái 10,19).

Đức Giêsu là Thượng Tế Tối Cao của chúng ta, và qua Người, chúng ta có thể tiến đến gần Thiên Chúa.  Trái tim chúng ta có thể nhận thức rõ, Người đã làm những gì cho chúng ta.  Khi làm việc thờ phượng và tôn vinh, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy tâm hồn chúng ta. 

Cầu nguyện, suy niệm và rước Thánh Thể là những phương thế giúp chúng ta tiến lại gần thánh nhan Thiên Chúa.  Đó là gia nghiệp, là quyền thừa hưởng, và là ân sủng dành riêng cho những người Kitô hữu chúng ta vậy!

Tác giả thư này muốn nhắn bảo chúng ta điều gì?  Trước tiên, Người khuyên chúng ta ‘’hãy tiến lại gần Thiên Chúa’’ (câu 22), hầu chúng ta có thể vui mừng chiêm ngưỡng gương mặt thân thương của Chúa.  Chúng ta không nên lãnh đạm hoặc làm ngơ hay mặc cảm, vì Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tiến lại gần Người.
 
Kế đến là, ‘’chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng’' (Do Thái 10,23).  Đó không chỉ là một lý thuyết xuông hay một ý tưởng trừu tượng, nhưng chính là một thực tế sinh động – là niềm hy vọng chói sáng trong nếp sống mới cụ thể.

‘’Lạy Đức Giêsu, Người đã mở ra cho con một lối đi vào thành đô của Thiên Chúa sống động, tới ngôi Thánh Đường trên đỉnh núi Sion, và tới với những tên tuổi đã được khắc ghi trên các tầng trời.  Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài.  Amen.’’

Tin MừngMáccô 4,21-25  -      Hãy Để Ý Tới Điều Anh Em Nghe  





Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  - Năm Lẻ

Các bài đọc trích sách: - Do Thái 10,11-18; - Thánh Vịnh 110,1.2.3.4; - Máccô 4,1-20


Bài Đ ọcDo Th ái 10,11-18  -  Muôn Thuở… Con Là Thượng Tế

Muôn Thuở, Con Là Tượng Tế

Đức Giêsu là vị Tân Thượng Tế đến muôn đời.  Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái nhấn mạnh tới sứ vụ đặc biệt của Đức Giêsu.  Thánh Phaolô cho chúng ta biết, vai trò của Đức Giêsu khác hẳn với các tư tế trong Đền Thờ, hằng ngày phải đứng gần bàn thờ để chu toàn chức vụ của mình, là hiến dâng các của lễ vật chất, chứ không xóa bỏ được tội lỗi.

Các tư tế không bao giờ có thể chu toàn nhiệm vụ, còn công cuộc cứu chuộc của Đức Kitô Giêsu thì đã hoàn tất, là vì vị Thượng Tế này đã đổ chính máu mình ra để đền tội nhân loại.  Không còn lễ hiến tế nào hoàn hảo hơn.  Chỉ lễ hiến tế toàn thiện mới là của lễ hiến tế cuối cùng, và có khả năng giải thoát nhân loại ra khỏi quyền lực tội lỗi.  Khi thi hành bổn phận tự hiến tế xong, Người lên ngồi bên hữu Chúa Cha. 

Tác giả thư phác họa một hình ảnh khác biệt giữa thế đứng và ngồi.  Trên thập giá, Đức Giêsu nói:  ‘’Thế là đã hoàn tất’’ (Gioan 19,30). Đức Giêsu nhập thể làm người để giúp chúng ta nên thánh.  Người đã thực hiện việc này nhờ sức mạnh thập giá.  Và cũng chính sức mạnh thập giá đã giải thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi.  Đức Giêsu tự hiến dâng mình một lần và cho tất cả mọi thụ tạo.
   
Tuy nhiên, hằng ngày, Đức Giêsu Kitô còn tự treo trên thập giá cùng với những kẻ nguy nan, khổ hạnh. Và hằng ngày, chúng ta vẫn tái đóng đinh Người trên thập giá, mỗi lần chúng ta phạm tội.  Nhưng, Người không ngừng tha thứ tội lỗi nhân loại và ôm chặt chúng ta để chia sẻ tình yêu và sự sống của Người cho chúng ta một cách vô vị lợi, đặc biệt trong phép Thánh Thể.
   
Thập giá dẫn chúng ta tiến sâu vào mầu nhiệm khổ hình và tử nạn của Đức Giêsu Kitô.  Muốn thực sự thông phần mầu nhiệm này, chúng ta phải hưởng ứng lời kêu gọi của Chúa với thái độ nào?  Câu trả lời có lẽ nằm ở nơi bộ lễ phục màu đỏ do các linh mục, thay mặt Đức Kitô, mặc trong phụng vụ ngày Chúa Nhật, diễn tả cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.  Màu đỏ tượng trưng sự hiến tế, nhưng cũng là biểu hiệu của Thánh Thần (tức tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, tạo nên cuộc sống mới, thấm nhập vào các mảnh xương khô cằn và mệt mỏi của chúng ta, để tất cả được chuyển hóa thành thực thể năng dụng).

Vì Đức Giêsu ước ao làm đẹp ý Chúa Cha, nên Ngýời luôn che chở, nâng đỡ và an ủi những kẻ mệt mỏi hoặc lầm đường lạc lối.  Nhờ sức mạnh của Chúa Cha, Người đón nhận tất cả những vu khống, lăng mạ, đánh đập, sỉ vả, gục ngã, chịu đóng đinh nhục nhã và chết thảm sầu trên thập giá, vì biết rằng sức mạnh tình yêu của Chúa Cha có thể biến đổi tâm hồn nhân loại.  Thập giá Đức Kitô và vị Thượng Tế vĩnh cửu chính là Đấng đã chiến thắng sự dữ. 

Phục vụ cho đến chết cách khủng khiếp trên thập giá, nên Đức Kitô đã toàn thắng, bất chấp đau khổ cùng cực, đồng thời vẫn không ngừng tha thứ và làm hòa với nhân loại.  Lòng nhân từ của Đức Kitô Giêsu được biểu lộ bằng lời cầu nguyện rất xúc động sau đây:  ‘’Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm’’ (Luca 23,34).  Và cũng vì tình yêu, Đức Giêsu đã thể hiện bằng lời, khi nói với tên trộm thống hối:  ‘’Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng’’ (Luca 23,43). 
   
‘’Lạy Đức Kitô, nhiều người hiện đang giam mình trên thập giá dưới các hình thức: bị bệnh tật, bị cướp đoạt, bị ruồng bỏ hoặc bị hắt hủi, hay sống trong cảnh bần cùng túng nghèo. Xin Chúa chọ họ hiểu rằng, tình yêu Chúa luôn ở bên cạnh để an ủi và vỗ về họ.  Xin Chúa dẫn họ ra khỏi vùng đen tối và đưa họ đi trong ánh sáng vinh quang  của Chúa.  Amen.’’


Tin MừngMáccô 4,1-20   -       Người Gieo Giống Đi Ra Gieo Giống

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  -  Năm Lẻ

Các bài đọc trích sách: - Do Thái 10,1-10; - Thánh Vịnh 40,2+4ab.7-8a.10.11; - Máccô 3,31-35


Bài ĐọcDo Thái 10,1-10  -       Lạy Chúa… Con Đến 
                                          Để Thực Thi Ý Ngài.


Thật khó có thể kể hết các hậu qủa tai hại do loài người đã gây nên từ cuộc nổi loạn đầy tội lỗi chống lại Thiên Chúa tại Vườn Địa Đàng.  Tội lỗi làm cho nhân loại mất sự liên hệ gần gũi với Đấng Tạo Hóa tốt lành.  Khi phạm tội, Ađam cũng như Evà đã cố gắng lẩn trốn vào một nơi thật kín đáo để không còn giáp mặt Thiên Chúa nữa, nhưng Người tìm kiếm và kêu gọi họ:  ‘’Người ở đâu?’’ (Sáng Thế 3,9). 

Kết qủa của tội lỗi vẫn liên tục diễn ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta.  Cảnh dã man và tàn bạo không ngừng tiếp nối trong thế gian, tạo nên biết bao tang thương và khổ nhục cho nhân loại, nhất là hơn một thế kỷ vừa qua.  Từ khởi thủy, Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra là Đấng Công Chính, là Đấng Tốt Lành; Người sáng tạo mọi vật cách hoàn hảo, vì thế, Thiên Chúa không thể sai lầm, cũng không lừa dối; bất cứ điều gì Người nói hay hành động đều đúng.

Thiên Chúa ban cho con người sự sống và Người tự tỏ mình ra là nguồn mạch sự sống; do đó, khi con người phản nghịch Thiên Chúa bằng cách bất tuân phục mệnh lệnh của Người, thì con người phải đón nhận hậu qủa khốc liệt là sự chết.  Mặc dù chưa bị Thiên Chúa ruồng bỏ hoàn toàn, nhưng hiện nay chúng ta chỉ còn là những bóng mờ giữa muôn vật tuyệt vời do chính tay Người tạo dựng mà thôi.
 
Tách rời khỏi nguồn mạch sự sống, chắc chắn chúng ta không còn giống Đấng Sáng Tạo tốt lành nữa, và chính vì thế chúng ta không thể yêu mến Người cũng như yêu thương đồng loại cách nhiệt tình được nữa. Hiện nay chúng ta trở thành nô lệ của một bản thể không có sự sống do Đấng Tạo Dựng đã ban cho chúng ta lúc khởi đầu.  Khi tâm linh đã chết thì chúng ta chỉ luôn tìm kiếm những gì làm thỏa mãn dục vọng đầy tràn khuynh hướng tội lỗi, tức là giây phút chúng ta vượt xa hẳn nguồn ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Lề Luật trong Cựu Ước đòi hỏi vị thượng tế mỗi năm phải đem máu thú vật vào Đền Thờ để làm của lễ đền tội cho dân.  Nhưng tội lỗi chúng ta đã phạm phản lại lòng yêu thương của Thiên Chúa, không thể đền trả được bằng máu thú vật.  Thiên Chúa là Đấng Công Chính, nên của lễ đền tội đòi hỏi phải là một tế vật toàn hảo.  Chỉ có Thiên Chúa, trong vai trò Đấng Cứu Thế, như Lời Người đã hứa sau khi nhân loại sa ngã (Sáng Thế 3,15), mới xứng đáng là một tế vật hoàn hảo.
 
Gánh chịu tội lỗi chúng ta, Messia, Đấng tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, thay thế Ađam, con người nổi loạn bất tuân phục.  Tự hiến dâng thân mình chuộc tội nhân loại, Con Người toàn thiện làm đẹp lòng Chúa Cha trong mọi sự.  Sự tự hiến để đền tội đã hoàn tất rồi, thì không đòi phải lập lại thêm nữa, chỉ một lần là đủ.  Đối với những người có Đức Tin thì thập giá Đức Giêsu đã giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi, để nhờ thế tình yêu và sự tương giao thâm tình giữa Chúa Cha và nhân loại được tái lập.

Đây là Tin Mừng cứu độ dành cho những người sẵn lòng hướng về Đức Kitô Giêsu. Đó là nguồn hy vọng và cậy trông mà mỗi người Kitô hữu cần nuôi dưỡng trong suốt cuộc đời; đến ngày sau hết, chúng ta sẽ hoàn toàn được giải thoát khỏi vòng tù hãm của tội lỗi.

‘’Lạy Đức Giêsu, nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa nên chúng con đã được cứu thoát.  Chúa là Đấng cứu chuộc thế gian.  Amen.’’

Tin MừngMáccô 3,31-35 -       Ai Thi Hành Ý Muốn Của Thiên Chúa
                                           Người Ấy Là Anh Chị Em Tôi…


Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Thánh Tôma Aquinô, Tiến Sĩ Hội Thánh - Ngày 28 Tháng 1

Thánh Tôma Aquinô, Tiến Sĩ Hội Thánh  -  Ngày 28 Tháng 1
Các bài đọc trích sách: - 2 Samuel 12,1-7a.10-17; Máccô 4,35-41

Thánh Tôma Aquinô

Thomas Aquin (Aquinas) là tu sĩ Dòng Dôminicô.
Sinh ngày 28 tháng 1 năm 1225 tại Roccasecca gần Aquino. 
Qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại Fossanuova gần Terracina. 
Được tôn phong hiển thánh năm 1323. 
Lễ kính nhớ ngày 28 tháng giêng hằng năm.

Tôma Aquinô là một trong số các đại thánh tiến sĩ Giáo Hội thời trung cổ - nhiều người cho rằng đây là vị thánh lớn nhất – là thành viên của một gia đình đông con, thuộc dòng dõi qúi tộc, thân phụ là Landulf Aquinô.

Tôma Aquinô được các tu sĩ Dòng Bênêđictô ở Monte Cassino giáo huấn và rồi tiếp tục vào đại học tại Neapel; đến năm 1244 thì gia nhập Dòng Đôminicô.  Ý định muốn trở thành một tu sĩ khất thực, Tôma Aquinô đã làm chấn động gia đình qúi tộc của mình, buộc anh của Tôma Aquinô phải bắt cóc và nhốt Người vào một nơi riêng trong suốt một năm.  Nhưng Tôma Aquinô vẫn giữ vững quyết tâm của mình.

Khi Tôma Aquinô được giải phóng, Người đã xin theo học nơi thánh Albert Cả tại Paria (Pháp) và Köln (Đức).  Năm 1256 Tôma Aquinô được cấp văn bằng tiến sĩ thần học. 

Suốt cuộc đời ngắn ngủi còn lại , Tôma chỉ chuyên vào việc giáo huấn, giảng dậy, hơn tất cả là dồn tâm trí và thì giờ vào việc viết lách.  Tôma Aquinô đã tận dụng khả năng phong phú của mình bằng cách: rời bỏ Paris vào năm 1259 để sang Ý  dậy học, từ thị trấn này sang tỉnh khác; và từ năm 1269 đến 1272, Người lại trở về Paris; cuối cùng Người đến Neapel.  Người ta cho rằng, ’’Tôma Aquinô có được kiến thức uyên bác không chỉ do thiên phú, nhưng chủ yếu là nhờ cuộc sống cầu nguyện, suy niệm thâm sâu’’ .

Cuối năm 1273 Tômas Aquinô đưa ra một tác phẩm ’’Summa Theologica - gọi là Tổng Luận Thần Học’’ còn dang dở và công bố:  ’’Tất cả những gì tôi đã viết ra, tôi nghĩ, là đám cỏ khô thuần chất, so với những gì tôi đã thấy, và những gì tôi đã được mặc khải.’’  Tôma Aquinô đã làm cho lý tưởng của thánh Đôminicô trở thành hoa trái mầu mỡ trong chiêm niệm đối với mọi cá nhân nối tiếp. 

Khi được mời tham dự cuộc họp thường kỳ tại Lyon, Tôma Aquinô lên đường sau vài tuần lễ, đang lúc Người bị bệnh và vì thế đã chết ở dọc đường tại tu viện Fossanuove.

Thánh Tôma Aquinô đã để lại những tác phẩm thần học và triết học trứ danh nhất, có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với hậu thế, trong đó có ’’Summa contra Gentiles’’ (1259-64), một tổng luận về Thiên Chúa và các tạo vật, và ’’Summa Theologica’’ (1266-64), diễn giải thần học theo phương pháp cổ điển, một tác phẩm với khuôn mẫu và hình thức nghiên cứu công phu, khiến tác giả được trao danh hiệu tiến sĩ với quyền giảng dạy ở tất cả các trường đại học quốc tế. 

Ảnh hưởng của thánh Tôma Aquina gần bằng các vị đồng thời bấy giờ là thánh Bonaventura và thánh Albert; nhưng sau này ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô trở thành vượt trội hơn tất cả.


Năm 1567 thánh Tôma Aquinô được Đức Giáo Hoàng Piô V nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh, và sau này, trong tông thư năm 1879, Đức Thánh Cha Leô XIII khuyến khích mọi tầng lớp tín hữu nghiên cứu và học tập giáo huấn của thánh Tôma Aquinô.     

Thánh Tôma Aquinô Đang Sáng Tá
     Khi được mời tham dự cuộc họp thường kỳ tại Lyon, Tôma Aquinô lên đường, sau vài tuần lễ, đang lúc Người bị bệnh và vì thế đã chết ở dọc đường tại tu viện Fossanuove.

     Thánh Tôma Aquinô đã để lại những tác phẩm thần học và triết học trứ danh nhất và có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với hậu thế, trong đó có ’’Summa contra Gentiles’’ (1259-64), một tổng luận về Thiên Chúa và các tạo vật, và ’’Summa Theologica’’ (1266-64), tổng luận thần học theo phương pháp cổ điển, một tác phẩm với khuôn mẫu và hình thức nghiên cứu công phu, khiến tác giả được trao danh hiệu tiến sĩ với quyền giảng dạy ở tất cả các trường đại học quốc tế.

     Ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô gần như các vị đồng thời bấy giờ là thánh Bonaventura và thánh Albert; nhưng sau này ảnh hưởng của thánh Tôma Aquinô trở thành vượt trội hơn tất cả.

     Năm 1567 thánh Tôma Aquinô được Đức Giáo Hoàng Piô V nâng lên hàng tiến sĩ Hội Thánh, và sau này, trong tông thư năm 1879, Đức Thánh Cha Leô XIII khuyến khích mọi tầng lớp tín hữu nghiên cứu và học tập giáo huấn của thánh Tôma Aquinô.     

           


Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên - Năm Lẻ

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 3 Thường Niên  -  Năm Lẻ

Các bài đọc trích sách: -  Do Thái 9,15.24-28; - Thánh Vịnh 98,1-6; - Máccô 3,22-30

Bài ĐọcDo Thái 9,15.24-28  -  Chúa Đã Biểu Dương Ơn 
                                     Người Cứu Độ


Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái suy niệm sâu xa về sức mạnh nơi mầu nhiệm tử nạn của Đức Giêsu.  Tân Ước được khai mở, nhờ sự chết của Đức Giêsu Kitô.  Đức Kitô Giêsu là trung gian Tân Ước.  Qua Người và chỉ qua Người, chúng ta mới có quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa (Do Thái 9,15).  Đức Giêsu là Đấng toàn hảo, đã hoàn tất các điều Thiên Chúa hứa, qua Lề Luật và các ngôn sứ, trải dài từ nhiều thế kỷ, theo dòng lịch sử dân tộc Israel, đúng như các tương phản mà tác giả thư đề cập tới giữa Cựu Ước và Tân Ước. 

Việc thờ kính Thiên Chúa theo Cựu Ước gồm nhiều hình thức hiến tế hữu hình khác nhau, tùy theo tình cảm của các tín hữu.  Tuy nhiên, mỗi hành động hiến tế đều mang một ý nghĩa liên hệ chặt chẽ tới vấn đề tâm linh, phù hợp với đời sống cá nhân, gia đình, xã hội và quốc gia. Việc hiến tế đã được các thầy Cả thực hành ở khắp nơi, ngay từ khi hình thành lịch sử Israel.  Thầy Cả là những người được chọn để thi hành việc tế lễ (Đệ Nhị Luật 33,8-10).  Từ thời vua Giôsigia, thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, tất cả các lễ tế đều tập trung tại đền thờ Giêrusalem (2 Vua 23). 

Mục đích của các lễ tế là xin ơn tha thứ, thanh tẩy và xá tội.  Mỗi năm một lần.  Ngày Xá Tội, vị Thượng Tế đi vào cung thánh để xin ơn tha tội cho chính mình, tội của kẻ mang năng chức tế tự và tội của đại hội Israel, bằng cách lấy máu các thú vật đã đem hiến tế rẩy lên bàn thờ (Lêvi 16). 
 
Nhưng trong Tân Ước, chúng ta có Đức Giêsu, vị Thượng Tế hằng hữu đã được Thiên Chúa tự tấn phong; Người là Con Một Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Vì là Thiên Chúa thật, nên Người chỉ chấp nhận của lễ có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, Đấng vô cùng yêu thương, quảng đại và chính trực. 

Đức Giêsu vừa là Thuợng Tế vừa là lễ tế.  Để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, Đức Giêsu chỉ tự hiến tế một lần.  Việc hiến tế của Người mãi mãi làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha, vì thế Người không cần lập lại nhiều lần.  Việc Đức Giêsu tự hiến thân mình chịu chết trên thập giá là một mầu nhiệm trọng đại và vinh quang nhất đối với Thiên Chúa Cha, đồng thời phơi bầy tội lỗi thật kinh tởm và gớm ghiếc của nhân loại ra trước mặt Thiên Chúa; ngoài ra còn chứng minh cho chúng ta thấy, Thiên Chúa đã hy sinh ban Người Con yêu qúi nhất của Người cho thế gian chỉ vì yêu thương chúng ta; đồng thời nói lên tình yêu liên kết sâu đậm giữa Chúa Cha và Chúa Con; nhờ thế giờ đây chúng ta mới có thể được hưởng một cuộc sống bất diệt, không do công trạng riêng của mình, nhưng chính là do sự hiến tế của Đức Giêsu Kitô, vị Thượng Tế của chúng ta vậy.

‘’Lạy Cha, vì vinh quang của Cha, và để cứu chuộc chúng con, Cha đã tấn phong Đức Giêsu Kitô làm Thượng Tế vĩnh cửu.  Xin cho những kẻ Người Con đã đem về cho Cha nhờ máu của Người được thông phần vào sức mạnh thập giá và sự phục sinh của Người.  Amen.’’

Tin MừngMáccô 3,22-30  -      Ai Nói Phạm Đến Thánh Thần
                                     Thì Chẳng Đời Nào Được Tha.