Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Thứ Ba Sau Chúa Nhật IV Mùa Chay

Thứ Ba Sau Chúa Nhật IV Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Edêkien 47,1-9.12; - Thánh Vịnh 46,2-3.5-6.8-9; - Gioan 5,1-16


Nhập Lễ:
                 ’’Chúa phán:  Hỡi những kẻ khát nước, hãy đến uống nước; và cả những kẻ không có tiền, cũng đến mà uống vui vẻ’’ (Thánh Vịnh theo Isaia 55,1).
Bài Đọc:
’’Tôi đã thấy dòng nước từ cửa đông đền thờ tuôn ra, và tất cả những người được nước ấy thanh tẩy đều hưởng ơn cứu độ’’ (Êdêkiel 47,1-9.12).       
Đáp Ca:
 ’’Chính Chúa tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta’’ (Thánh Vịnh 45,8).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ’’ (Thánh Vịnh 50,12a+14a)
Tin Mừng:
’’Người ấy liền được khỏi bệnh’’ (Gioan 5,1-3a.5-15).
Lời Nguyện Hiệp Lễ:
Chúa chăn nuôi con, con chẳng thiếu thốn gì, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả con nằm nghỉ, tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi Người hướng dẫn con’’.

*****

Thiên Chúa Là Nơi Con Ẩn Náu

                 Cách nay tương đối lâu, Melvyn Bragg, nhân viên đài phát thanh phát hình BBC quốc tế đã phỏng vấn một nữ văn sĩ khá nổi tiếng, từng sinh hoạt trong môi trường tôn giáo, phụng vụ nơi thánh đường, cầu nguyện, chữa bệnh hoặc học hỏi Kinh Thánh, diễn ra vào các buổi tối kéo dài suốt tuần lễ.

                 Ngay từ khi còn ở tuổi thiếu niên, nữ văn sĩ đã được khuyến khích tham dự những sinh hoạt như thế, ngay cả việc đào luyện nói và thuyết giải.  Mặc dù chỉ được tham gia ở trình độ giới hạn, cô thường khám phá thêm từ những ‘’huấn lệnh’’‘’giáo điều’’, mà cô đã nghe hoặc hấp thụ được, rồi tỉ mỉ ghi chép mọi sự kiện trên giấy trắng mực đen; cô xác nhận là một số lần chữa bệnh khác nhau mà cô đã tận mắt chứng kiến diễn ra trong cùng ngôi thánh đường ấy.  Cô nói:  ‘’Tôi không biết điều gì xẩy ra, nhưng thực sự có một cái gì đó diễn biến, gây được ảnh hưởng ngay bây giờ và lâu dài.’’

Đền Thờ Trên Đồi Cao 

                 Bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới một việ chữa lành bệnh ngay bên cạnh Hồ Nước (Bethesda), địa điểm nằm ở phía bắc khu ‘’the Temple Mount’’ (đền thờ xây ở trên đồi cao) trong thành Giêrusalem, và đây không phải là nơi chữa trị bệnh tật dành riêng cho người Do Thái.  Kể từ rất lâu rồi, người ngoại giáo cũng coi địa điểm này là nơi thánh, và đôi khi còn được tiến dâng cho thần chữa trị bệnh tật cho dân ngoại, Asclepius.  

                 Lúc nước khuấy lên, có người nói đó là do Thiên Thần làm, thì chỉ người xuống nước đầu tiên mới được chữa lành bệnh tật.  Và như thế nghĩa là người thắng thế, phải có sức khỏe hơn, hoặc được bạn bè phụ giúp lanh lẹ đưa xuống nước trước. 

                 Người bệnh tật nói với Đức Giêsu tất cả những điều đã được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay và giải thích ngọn nguồn sự việc, như thế Đức Giêsu biết rõ rằng, anh ta nằm ở  chỗ ấy đã ba mươi tám năm rồi!  Điều đáng ngạc nhiên là, tại sao Đức Giêsu không chữa lành cho anh ta ngay, mà còn hỏi một câu có thể nói là qúa dư thừa: ‘’Anh có muốn khỏi bệnh không?’’ (Gioan 5,6).
 
Thực sự, Đức Giêsu không muốn phí lời.  Người có ý hỏi:  ‘’Anh có thực sự muốn mặc lấy trách nhiệm trong thế giới hôm nay không?’’ hay anh chỉ muốn ăn không ngồi rỗi, lãng phí thì giờ, tự cho mình là kẻ bất lực, thiếu tài để rồi thờ ơ, lãnh đạm trước mọi tình huống’’

 Mau mắn tuân hành lời truyền dậy của Đức Giêsu:  ‘’Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!’’,  chứng tỏ niềm tin của anh rất mạnh,  khiến anh  đi đến một quyết định thật vững chắc.

                 Lạy Chúa Giêsu, dù sao thì mỗi người trong chúng con, đều là những kẻ bệnh tật và khốn khổ, què quặt, đui mù hoặc câm điếc.  Muốn được chữa lành, chúng con cần phải, từ tận đáy lòng mình, ước ao, mong muốn.  Khi nghĩ về những yếu đuối, xấu xa trong tâm hồn, cũng như thể xác, chúng con cảm thấy qúa hổ thẹn; nguyện xin Chúa chữa trị mọi bệnh tật và nết xấu nơi chúng con.
Xin Chúa ban cho chúng con
đời sống mới trong Chúa, để chúng con
loan truyền Tin Mừng của Chúa
đền khắp tứ phương thiên hạ.  Amen.

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Thứ Hai Sau Chúa Nhật IV Mùa Chay

Thứ Hai Sau Chúa Nhật IV Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Isaia 65,17-21; - Thánh Vịnh 30,2.4-6.11-13; - Gioan 4,43-54

Nhập Lễ:
                 ’’Phần con, con tin cậy ở Chúa.  Con sẽ hân hoan mừng rỡ vì đức từ bi của Chúa, bởi Chúa đã nhìn đến nỗi đau khổ của con’’ (Thánh Vịnh 30,7-8).
Bài Đọc:
’’Sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la’’  (Isaia 65,17-21).               
Đáp Ca:
 ’’Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt’’ (Thánh Vịnh 29,2a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ, rồi anh em sẽ được sống; và Chúa sẽ ở cùng anh em’’ (Gioan 4,43-54)
Tin Mừng:
’’Ông cứ về đi, con ông sống’’ (Gioan 4,43-54).
Lời Nguyện Hiệp Lễ:
’’Chúa chăn nuôi con, con chẳng thiếu thốn gì, trên đồng cỏ xanh rì; Người thả hồn con nằm nghỉ, tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi Người hướng dẫn con’’ (Thánh Vịnh 22,1-2).

*****

Lạy Chúa, Con Xin Tán Dương Ngài.

Ông Cứ Về Đi, Con Ông Sống

                 Có phải chúng ta đã thường nghe và gật đầu tỏ vẻ ưng ý với câu ngạn ngữ:  ‘’Thấy mới Tin’’?  Tuy nhiên, Tin và Thấy là hai thế giới cách biệt nhau.  Đối với chúng ta, việc bầy tỏ niềm tin, không cần tới những chứng minh qúa cụ thể.  Chúng ta chỉ ‘’Tin’’ là đủ.  Điểm chính yếu ấy đã được người phụ nữ xứ Samarita xác tín khi nói: ‘’Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian’’, do thánh Gioan tông đồ trình thuật, trong sách Tin Mừng, chương 4; và đáp lời mời của dân làng, Người ở lại trong thành của chị hai ngày. Thực vậy, nhiều người dân thành Samaritan chấp nhận điều mặc khải niềm tin này như một gương mẫu tối cao, nhưng cũng không ít người Do Thái và Samarita đã nhìn thấy những việc kỳ điệu Đức Giêsu đã làm, mà họ vẫn một mực từ khước đón nhận sự thật.  Điều gì khiến chúng ta bất chợt tin một ai hoặc một sự việc nào đó?  đến nỗi không một động lực nào làm chúng ta có thể rời bỏ, hay cố công gắng sức tẩy xóa hay chống đối người hay điều mình đã tin.

                 Sau một khoảng thời gian ngắn xa vắng, Đức Giêsu trở về Cana, xứ Galilê, nguyên quán của Người, nơi nhắc chúng ta nhớ tới lời Người đã qủa quyết:  ‘’một ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình’’ (Gioan 4,44).  Khi tiếp cận với một viên sĩ quan cận vệ nhà vua, có người con đang bị trọng bệnh, đến xin Đức Giêsu cứu chữa, Người lạnh lùng bảo viên sĩ quan:  ‘’Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông chẳng tin đâu!’’ (Gioan 48).  Qua câu nói kia, phải chăng Đức Giêsu đang nghi ngờ lòng tin của viên sĩ quan, nghĩ là Người không thể chữa lành cho con ông được, nếu Người không đích thân đến với con trai ông?  Hoặc có ý ám chỉ phép lạ tại tiệc cưới ở Cana trước kia, mà nhiều người đã không tin là Người đã hóa nước thành rượu, vì họ chỉ nghe chứ không nhìn thấy?  Không cần hiểu rõ Đức Giêsu nói với dụng ý gì, viên sĩ quan vội vàng đứng lên, đi về nhà, với một niềm tin vững chắc.   Viên sĩ quan được tưởng thưởng với kết qủa là con ông đã hoàn toàn phục hồi, đúng vào giờ Đức Giêsu bảo ông: ‘’Con ông sống’’ (Gioan 4,53).

Con Ông Sống Rồi
                 Cả chúng ta nữa, Cana cũng đặc biệt, vì chính nơi đây, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta đã nói với gia nhân:  ‘’Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo’’ (Gioan 2,5).  Vào ngày đó, cặp hôn nhân trẻ đang qúa lo lắng, vì đã hết rượu, do đó việc làm của Đức Giêsu chính là vinh quang chiếu tỏa cho mọi người được nhìn thấy.  Trong cuộc sống, mỗi cá nhân đều trải qua những chuyện tình cờ tương tự.  Đứng trước các cám dỗ khiến chúng ta trở thành kẻ đa nghi, thất vọng, thì chúng ta hãy lắng nghe lời nhắn bảo của Đức Maria, và noi theo thái độ cương quyết của viên sĩ quan nhà vua: hết lòng tin tưởng nơi Đức Giêsu.
‘’Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin ban cho con một đức tin
kiên vững từ tận đáy lòng con,
để con sẵn sàng thực hiện trọn vẹn những
điều Đức Giêsu mong đợi.  Amen’’. 

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Chúa Nhật IV Mùa Chay - Năm A

Chúa Nhật IV Mùa Chay  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - 1 Samuel 16,1b.6-7.10-13a; - Thánh Vịnh 23,1a.3b-4.5.6; 
- Êphêsô 5,8-14; - Gioan 9,1-41

Nhập Lễ:
                 ’’Mắt tôi luôn luôn hướng nhìn về Chúa, vì chính Người gỡ chân tôi khỏi lưới dò.  Xin Chúa đoái nhìn và thương xót conm vì con cô đờn và thân con khốn khổ’’ (Thánh Vịnh 24,15-16).
Bài Đọc 1:
’’Ông Đavít được xức dầu tấn phong làm vua Israel’’ (1 Samuel) 16,1b.6.7.10-13a).                
Đáp Ca:
 ’’Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì’’ (Thánh Vịnh 22,1).
Bài Đọc 2:
                 ’’Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào!  Đức Chúa sẽ chiếu sáng ngời’’ (Êphêsô 5,8-14).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian.  Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống’’ (Gioan 8,12)
Tin Mừng:
’’Anh mù đến rửa ở hồ Silôác, và khi về thì nhìn thấy được’’ (Gian 9,1-41).
Lời Nguyện Hiệp Lễ:
’’Lạy Chúa, Chúa soi sáng mọi người sinh ra trong thế gian, chúng con nài xin Chúa dùng ánh sáng huy hoàng của Chúa, soi dẫn tâm hồn chúng con, để chúng con hằng suy tưởng những điều xứng đáng, đẹp lòng Chúa, và thành tâm yêu mến Chúa luôn.  Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.’’  Amen.

*****

Thầy Là Ánh Sáng Thế Gian


                 Người ăn xin bị mù từ thuở mới sinh, do đó ‘’công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh’’ (Gioan 9,3).  Đức Giêsu đã chữa trị cho anh, bởi vì Người muốn công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Đức Giêsu Mở Mắt Cho Người Mù

Việc chữa trị bệnh tật chính là thể hiện cách kỳ diệu các công trình ấy, vì:  ‘’xưa nay chưa hề nghe nói ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh’’ (Gioan 9,32), đồng thời tiến trình phát triển niềm tin nơi người mù cũng được tỏ hiện.  Chẳng thế mà ngay từ ban đầu, anh đã nói:  ‘’Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi’’ (Gioan an 9,11).
 
Tiếp đến, khi những người Pharisêu hỏi, anh mù liền công bố:  ‘’Người là một vị ngôn sứ’’ (Gian 9,17).  Những người Pharisêu lại chất vấn anh lần thứ hai, anh nhấn mạnh rằng, Đức Giêsu không phải là một kẻ tội lỗi, bởi vì Người thờ kính và thực hành ý muốn Thiên Chúa:  ‘’Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì’’ (Gioan 9,33).
 
Cuối cùng, sau khi anh mù bị những người Pharisêu trục xuất, Đức Giêsu lại gặp anh, anh bèn sấp mình xuống trước mặt Đức Gêsu và tuyên xưng đức tin: ‘’Thưa Ngài, tôi tin’’, và thờ lậy Ngài. (Gioan 9,38).

                 Nhờ Chúa Thánh Thần tác động, công trình của Thiên Chúa tỏ hiện và diễn biến nhịp nhàng nơi anh mù, từ trạng thái vô tín ngưỡng, thành một người mang niềm tin cứu độ trong Đức Giêsu. 

Cũng tương tự như vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống chúng ta, hầu công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi chúng ta.  Đức tin nơi chúng ta dần dần lớn mạnh, nhờ chỉ dậy của cha mẹ, các thầy cô giáo ở trường học, hoặc trong khuôn viên nhà xứ, thánh đường, lúc chúng ta còn rất trẻ, như tham dự Rước Lễ Lần Đầu, chịu phép thêm sức, sau nữa là đưa chúng ta tới niềm tin cứu độ nơi Đức Giêsu. 

Đức tin tiếp tục phát triển qua những thử thách cam go xẩy ra trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi tạo nên sự nghi ngờ hoặc thất vọng gần như mất niềm tin nơi chúng ta, chỉ vì: thất bại, bất mãn, bệnh tật hoặc chết chóc của người thân yêu… Đó là những giây phút khủng hoảng đáng sợ hãi, nhưng nếu vững tâm, can đảm chịu đựng, vượt qua; chứng tỏ niềm tin nơi chúng ta đã lớn mạnh.  Hoặc hơn nữa, qua những khủng hoảng ấy, Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta  một đức tin bền vững hơn.

                 Thiên Chúa đã tỏ hiện công trình của Người nơi người mù thế nào, thì Người cũng đã tỏ hiện công trình của Người nơi chúng ta như vậy!  Xin Đức Chúa là Thiên Chúa tiếp tục tỏ hiện công trình của Người nơi Bạn và tôi, để đức tin của chúng ta càng ngày càng vững mạnh, cho tới ‘’tình trạng con người trưởng thành’’ (Êphêsô 4,13).
‘’Lạy Thánh Thần Chúa,
con xin cảm tạ, vì Ngài đã đem đến cho
con đức tin cứu độ trong Đức Giêsu.
Xin tiếp tục tác động mạnh mẽ nơi con.
Xin làm cho đức tin của con thêm bền vững

và trưởng thành viên mãn. Amen.’’

Xác Loài Người Sẽ Sống Lại

Xác Loài Người Sẽ Sống Lại


                 Người Kitô hữu cử hành mừng kính Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết vào Ngày Lễ Phục Sinh.  Trong kinh Tin Kính, người Kitô hữu tuyên xưng:  Tôi tin ’’xác loài người sẽ sống lại’’.  Niềm tin ấy đã được tỏ hiện:


Đức Giêsu Kitô Sống Lại Từ Cõi Chết

                 Căn cứ vào sách Tinh Mừng, chúng ta biết, Đức Giêsu đã ba lần tiên báo, Người sẽ bị các kỳ mục và các thượng tế bắt, chịu khổ nhục, bị kết án tử hình, và chết trên thập giá; nhưng Người cũng cho biết trước là vào ’’ngày thứ ba’’, Người sẽ được ’’nâng lên’’ (xem Mátthêu 16,21; 17,22-23; 20,17-19). Tất cả các dự đoán đều chính xác.

                 Vừa tảng sáng, ngày thứ Nhất trong tuần, Maria Mađalêna và các phụ nữ khác, cùng với thánh Phêrô, thánh Gioan đến viếng xác Đức Giêsu, nhưng họ thấy ngôi mộ trống rỗng.  Thiên Thần công bố:  ’’Các người tìm Đức Giêsu Nazaréth, Đấng bị đóng đinh chứ gì!  Người đã trỗi dậy rồi; Người không còn ở đây nữa’’ (Máccô 16,6).  Đức Giêsu, linh hồn cũng như thể xác, đã sống lại từ cõi chết.


Ngôi Mồ Trống
                 Sau đó, Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ và nhiều người khác nữa.  Người thình lình hiện ra và biến mất và có thể ôm hôn Người được (Mátthêu 28,9).  Đức Giêsu cho các tông đồ xem dấu đinh nơi bàn tay và vết thương ở cạnh sườn  Người, cũng như Người đã bảo thánh Tôma đặt ngón tay vào cạnh sườn Người và nhìn xem tay Người  (Gioan 20,20…).  Mặc dù Đức Giêsu đã hiện ra với Maria Mađalêna (Gioan 20,11) hoặc các tông đồ ở bờ Biển Hồ thuộc miền Galilê (Gioan 21,11), nhưng không dễ gì họ đã có thể nhìn nhận được Người.  Đức Giêsu còn ngồi ăn chung với các Tông đồ (Gioan 21,9; Luca 24,36) và các môn đệ khác (Luca 23,13).
 
Hơn tất cả, Đức Giêsu xác quyết rằng Người không phải là ma hoặc một hình bóng cổ nhân nào đó trong câu chuyện ’’Đêm tối của Kẻ Chờ Chết’’ khi nói:  ’’Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? (Luca 24,38; 29).

Vi thế, thông qua sự sống lại, Chúa chúng ta đã hoàn toàn biến thể hoặc trở thành một sinh linh Vinh Quang.   Vinh Quang có nghĩa là Đức Giêsu đã hoàn toàn viên mãn, đầy tràn thần tính và vô cùng thánh thiện, nhưng không để mất đi nhân tính của mình.

Chúng ta tin chắc là cũng sẽ được thông phần Vinh Quang này.  Khi chết, linh hồn chúng ta sẽ đứng trước nhan thánh Chúa trong ngày phán xét riêng, và lúc đó chúng ta phải giải toán cuộc đời mình - tốt hoặc xấu, thiếu sót hay đầy đủ.  Đoạn Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta theo phẩm cách từng linh hồn, xứng đáng hưởng nước thiên đàng hay bị sa hỏa ngục hoặc chịu giam cầm nơi luyện tội.

Ngày tận thế  – đó là thời điểm Chúa chúng ta đến lần thứ hai, sẽ có phán xét chung -  linh hồn và thể xác chúng ta cũng sẽ cùng được sống lại.  Lúc bấy giờ, Đức Kitô sẽ biến hóa cơ thể những kẻ ngay lành nên giống thân xác Vinh Quang của chính Người.  Liên quan tới vấn đề này, Thánh Phaolô đã phát biểu: ’’Có người sẽ nói:  kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về?  Một câu hỏi có tính cách dại khờ! Những gì gieo vào lòng đất, phải chết đi rồi mới được sống. Do đó, việc kẻ chết sống lại cũng vậy. Gieo vào lòng đất thì hư nát, nhưng khi trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí’’ (1 Corintô 15,35-36; 42-44).
Biển Hồ Galilê Lúc Mặt Trời Lặn
Thân xác người tín hữu sẽ được biến dạng theo mô thể của Đức Kitô Phục Sinh.  Thần học truyền thống mô tả những thân xác vinh quang và toàn hảo này mang bản sắc, toàn vẹn và bất tử. Hơn nữa, các yếu tố kia còn có bốn ’’phẩm chất siêu việt’’ như:  ’’vô cảm’’, hoặc tránh làm điều xấu về thể lý, thản nhiên trước sự chết, bệnh tật, và đau đớn; ’’trong sạch’’, hoặc không khuyết điểm và biết phóng tỏa cái đẹp tinh thần rộng rãi ra phiá xa đằng;  ’’hoạt bát’’, nhờ đó linh hồn lay chuyển thể xác, để được tự do vận động; và ’’khôn ngoan’’, nhờ đó thân xác trở nên hoàn thiện nhờ quyền lực của linh hồn.  Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công giáo dậy rằng:  ’’Sau phán xét chung, những người công chính sẽ ngự trị muôn đời với Đức Kitô, họ được tôn vinh cả xác lẫn hồn’’ (số 1042).

Còn những thân xác của các linh hồn bị đày xuống Hỏa Ngục thì sao? Những thân xác này có bản sắc, tòan vẹn và bất tử, nhưng thiếu bốn phẩm chất siêu việt.  Họ sẽ đón nhận điều kiện cần thiết để cam chịu hình phạt đời đời nơi Hỏa ngục, nhưng không được thông phần vinh quang của Chúa như những người ở trong Thiên Đàng.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng ’’vinh quang’’ này vượt qúa khả năng hiểu biết và trí tưởng tượng của chúng ta.  Chúng ta phải tin chắc chắn điều mà Đức Kitô đã hứa về sự sống lại của thân xác: ’’vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con, và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án’’ (Gioan 5,28-29) 
 


Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bàI đọc trích sách: - Hôsê 6,1-6; . Thánh Vịnh 51,1-2.16-19; Luca 18,9-14

Nhập Lễ:
 ’’Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người, Người đã tha thứ mọi điều sai lỗi của ngươi’’ (Thánh Vịnh 102,2-3)
Bài Đọc:
’’Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ’’   (Hôsuê 6,1-6).              
Đáp Ca:
’’Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ’’ (Thánh Vịnh 50; Hôsê 6,6).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa’’ (Thánh Vịnh 94,7b.8a)  
Tin Mừng:
’’Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính, còn người Pharisêu thì không’’ (Luca 18,9-14).
Hiệp Lễ:
’’Người thu thuế đứng xa xa, đấm ngực, mà cầu nguyện rằng: Lậy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’’  (Gioan 18,9-14).

Xin Đọc Bài Đã Đăng:

***
http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/03/thu-bay-sau-chua-nhat-iii-mua-chay.html

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Hôsê 14,2-10; - Thánh Vịnh 81,5-10.13.16; Máccô 12,28b-34

Nhập Lễ:
 ’’Lạy Chúa, giữa hàng chúa tể, không ai giống như Chúa, vì Chúa cao cả và làm nên những điều kỳ diệu, duy một mình Chúa là Thiên Chúa’’ (Thánh Vịnh 85,8.10)
Bài Đọc:
’’Chúng con sẽ không gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra’’  (Hôsuê 14,2-10).  
Đáp Ca:
’’Chính Ta là Thượng Đế, Chúa ngươi: hãy nghe Ta cảnh cáo’’ (Thánh Vịnh 80,11.9a)).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần’’ (Mátthêu 4,17)  
Tin Mừng:
’’Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất; ngươi phải yêu mến Người’’ (Mácccô 12,28b-34).
Hiệp Lễ:
’’Mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình, thì hơn mọi lễ vật hy sinh’’  (theo Máccô 12,33).

Xin Đọc Bài Đã Đăng:

***
http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/03/thu-sau-sau-chua-nhat-iii-mua-chay.html



Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Thứ Năm Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Năm Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Giêrêmia 7,23-28; - Thánh Vịnh 95,1-2.6.9; - Luca 11,14-23

Nhập Lễ:
 ’’Chúa phán: Ta là phần rỗi của dân Ta. Trong bất cứ nghịch cảnh nào họ kêu cầu Ta, Ta sẽ nhậm lời họ, và Ta sẽ là Chúa của họ đến muôn đời’’.
Bài Đọc:
 ’’Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của mình’’  (Giêrêmia 7,23-28).   
Đáp Ca:
’’Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng’’ (Thánh Vịnh 94,7b.8a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Đức Chúa phán: Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu’’ (Giêrêmia 2,12-13)  
Tin Mừng:
’’Ai không đi với tôi là chống lại tôi’’ (Luca 11,14-23).
Hiệp Lễ:
’’Chúa đã ban bố những huấn lệnh, để người ta tuân giữ ân cần: nguyện cho đường lối của tôi vững chắc, để tuân giữa các thánh chỉ của Ngài’’  (Thánh Vịnh 118,4-5).

Xin Đọc Bài Đã Đăng:

***
http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/03/thu-nam-sau-chua-nhat-iii-mua-chay.html

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Thứ Tư Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Tư Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Đệ Nhị Luật 4,1.5-9; - Thánh Vịnh 147,12-13.15-16.19-20; - Mátthêu 5,17-19

Nhập Lễ:
 ’’Xin Chúa hướng dẫn con bước theo lời răn dậy của Chúa, xin đừng để điều gian ác nào thống trị trong mình con’’ (Thánh Vịnh 118,133).
Bài Đọc:
 ’’Anh em phải giữ những thánh chỉ và đem ra thực hành’’ (Đaniel 4,1.5-9).   
Đáp Ca:
’’Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa’’ (Thánh Vịnh 147,12a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.  Chúa mới có những lời dđm lại sự sống đời đời’’ (xem Gioan 6,63c,68c)  
Tin Mừng:
’’Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ đươc gọi là kẻ lớn’’ (Mátthêu 5,17-19).
Hiệp Lễ:
’’Chúa đã ban bố những huấn lệnh, để người ta tuân giữ ân cần:  nguyện cho đường lối của con vững chắc, để tuân giữa các thánh chỉ của Ngài’’  (Thánh Vịnh 118,4-5).

***

Xin Đọc Bài Đã Đăng:

http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/03/thu-tu-sau-chua-nhat-iii-mua-chay.html

Thứ Ba Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Ba Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: - Daniel 3,25.34-43; - Thánh Vịnh 25,4-9; - Mátthêu 18,21-35 

Nhập Lễ:
 ’’Lạy Chúa, con kêu van Chúa, bởi Chúa nhậm lời con, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con.  Lạy Chúa, xin gìn giữ con như con ngươi mắt Chúa, xin che chở con trong bóng cánh của Ngài’’ (Thánh Vịnh 16,6.8).
Bài Đọc:
 ’’Xin Chúa nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con’’ (Đaniel 3,25.34-43).  
Đáp Ca:
’’Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu của Ngài’’ (Thánh Vịnh 24,6a).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Đức Chúa phán:  Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu’ (Giesê 2,12-13)  
Tin Mừng:
’’Nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho anh em’’ (Mátthêu 18,21-35).
Hiệp Lễ:
’’Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong nhà tạm Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Ngài?  Người sống thanh liêm và thực thi công chính’’  (Thánh Vịnh 14,1-2).

***

Xin Đọc Bài Đã Đăng:

http://www.lorenttrankim.blogspot.dk/2013/03/thu-ba-sau-chua-nhat-iii-mua-chay.html





















































































































Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Thứ Hai Sau Chúa Nhật III Mùa Chay

Thứ Hai Sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Các bài đọc trích sách: -  2 Vua 5,1-15; - Thánh Vịnh 42,2-3; 42,3-4; - Luca 4,24-30

Nhập Lễ:
’’Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi mong vào hành lang nhà Chúa.  Tâm hồn và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến Thiên Chúa trường sinh’’ (Thánh Vịnh 83,3).
Bài Đọc:
 ’’Có nhiều người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Sirya thôi’’  (2 S ách C ác Vua 5,1-15a).              
Đáp Ca:
’’Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.  Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan’’ (Thánh Vịnh 41,3).
Tung Hô Tin Mừng:
’’Mong đợi Chúa, tôi hết lòng trông đợi, cậy trông ở lời Người; bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa’’  (xem Thánh Vịnh 129,5 & 7)  
Tin Mừng:
’’Như ông Êlia và ông Êlisa, Đức Giêsu không chỉ được sai deđ1n với người Do Thái’’ (Luca 4,24-30).
Hiệp Lễ:
’’Toàn thể dân tộc, hãy ngợi khen Chúa, vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thật là mãnh liệt’’  (Thánh Vịnh 116,1-2).

*****
     Naaman là một binh sĩ có quyền uy và thành đạt, nhưng quyền uy của ông đã không thể chữa cho ông khỏi bệnh phong hủi.  Thái độ bất mãn, khó vừa lòng là hiện trạng của một số người trong thế giới hôm nay.  Nhiều người rất giầu có và thành đạt, nhưng những khả năng tuyệt vời sẵn có không đủ để trị liệu bệnh tật và giải quyết các nhu cầu hoặc khát vọng thiết thực của chúng ta.

     Điều quan trọng nhất đối với một người mắc ’’tội’’ phong hủi là được chữa sạch, hầu tiếp nhận một cuộc sống mới phát xuất từ Đức Kitô.  Naaman cảm thấy không thú vị khi được ngôn sứ Elisa cho biết là ông phải đến tắm trong nước sông Jordan; ông cho rằng cách chữa trị ấy không xứng hợp với ông, và thầm nghĩ rằng, thà ông tắm ở nước sông quê hương của ông chẳng tốt hơn sao!

     Nhờ phái đoàn tùy tùng đã khéo léo khuyến dụ ông nuốt trửng niềm kiêu hãnh của mình mà nghe theo lời hứa của Elisa, do đó ông đã được chữa lành.  Giống như Naaman, chúng ta cũng thích chạy ngược chạy xuôi, tìm thầy lang nọ tới thầy lang kia, dùng thuốc này thuốc khác, mong được lành bệnh.

     Chúng ta có tài lực và khả năng riêng, cùng với những phương tiện tuyệt diệu trong thế giới hiện đại, nhưng tất cả đều thất bại trước sức mạnh của sự chết. Giống như Naaman, chúng ta chỉ có thể tìm được nguồn chữa trị đích thực bằng cách đi theo con đường của Chúa, không phải con đường riêng của chúng ta, và khiêm tốn tuân hành ý Người.  Người đã nói với chúng ta rằng, cách chữa lành và làm sạch này phải thông qua sự chết và sống lại của Đức Kitô.

     Có thể chúng ta không hiểu tại sao có thể xẩy ra như vậy, nhưng nếu chúng ta quay về với Đức Kitô trong sám hối, chúng ta sẽ nhận rõ sự thật này, đồng thời sẽ cảm nghiệm được niềm hân hoan của ơn tha thứ và trong cuộc sống mới.

     Phương thức chữa trị ấy tưởng như qúa dễ; chúng ta muốn tự  làm một cái gì để đền tội và tự cứu chuộc chính mình. Đức Giêsu khuyên chúng ta hãy loại bỏ tính kiêu hãnh ấy đi và chỉ cần đặt niềm tin vào Người là đủ.

     Chúng ta nên gạt tất cả nhiệt tâm, khả năng sẵn có sang một bên và dùng nước tuôn chảy từ thập giá Đức Kitô mà tẩy rửa; đoạn, chúng ta được chữa lành và nước da sẽ trở nên như trẻ thơ, giống Naaman.  Như ông, chúng ta cũng muốn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã chữa lành chúng ta, và sử sụng cuộc sống chúng ta như khí cụ của Người.  Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau đến trước nhan thánh Chúa với tấm lòng khiêm cung, ca ngợi và tôn vinh, vì Người đã ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Lạy Chúa,
chúng con cảm tạ Chúa, vì
chúng con chẳng có thể làm gì để
chiếm được ơn cứu độ, nhưng nhận
từ Chúa cách nhưng không.
Xin cho tâm hồn chúng con mở rộng
đón nhận phúc lành của Chúa, hầu
chúng con có thể đem phúc lành ấy

đến cho những người khác nữa.  Amen.’’ 

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Chúa Nhật III Mùa Chay - Năm A

Chúa Nhật III Mùa Chay  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Sách Xuất Hành 17,3-7; - Thánh Vịnh 95,1-2.6-7c.7d-9; 
- Rôma 5,1-2.5-8; - Gioan 4,5-42

Chính Người Là Thiên Chúa Ta Thờ

Nhập Lễ:
                 ’’Mắt tôi luôn luôn hướng nhìn về Chúa, vì chính Người gỡ chân tôi khỏi lưới dò.  Xin Chúa đoái nhìn và thương xót con vì con cô đơn và thân con khốn khổ’’ (Thánh Vịnh 24,15-16).
Bài Đọc 1:
’’Cho chúng tôi nước uống đi’’  (Sách Xuất Hành 17,3-7).            
Đáp Ca:
 ’’Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán:  Các ngươi chớ cứng lòng’’ (Thánh Vịnh 94,7b.8a).
Bài Đọc 2:
                 ’’Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta. (Rôma 5,1-2.5-8).
Tung Hô Tin Mừng:
Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng cứu độ trần gian, xin ban cho con nước hằng sống, để con không bao giờ khát nữa’’ (xem Gioan 4,42.25)
Tin Mừng:
’’Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’’ (Gioan 4,5-42).
Lời Nguyện Hiệp Lễ:
’’Lạy Chúa, khi chúng con lãnh nhận bảo chứng mầu nhiệm thiên quốc, và lúc còn sống ở trần gian, đã được no nê bánh bởi trời, chúng con khẩn khoản nài xin Chúa làm cho mầu nhiệm ấp ủ trong chúng con, được thực thi bằng việc làm.  Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.’’  Amen.

*****

                 Đức Giêsu ước mong người phụ nữ Samaria xin Người một chút nước uống, hầu Người ban cho chị thứ nước hằng sống (Gioan 4,10).  Làm như thế là cách Đức Giêsu thi hành ý muốn Chúa Cha, và hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó cho Người (Gioan 4,34).

Ý muốn Chúa Cha là có được những người ‘’thờ phượng đích thực’’ (Gioan 4,23).  Những người thờ phượng đích thực biết Thiên Chúa; họ biết tình yêu Chúa Cha ban cho họ (Rôma 5,5), và ơn cứu độ do Người rộng lòng thương ban cho họ trong Đức Kitô (Rôma 5,10). 

Những người thờ phượng trong thần khí là những người, Chúa Thánh Thần đã cư ngụ sẵn trong tâm hồn của họ, là những người hiệp thông mật thiết với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống tâm hồn họ thần khí, đó chính là nước hằng sống.

                 Bình thường, nước làm cho thân thể được khoan khoái, và giải thoát chúng ta khỏi cơn khát. Đó là lẽ sống của con người.  Không có nước, chúng ta sẽ chết!  Cũng vậy, nước hằng sống mà Đức Giêsu ban, cho chúng ta sự khoan khoái và hồi sinh.  Nước ấy giải cứu chúng ta từ sự chết (do tội lỗi, vô ân, phản nghịch, sống xa lìa Thiên Chúa, phải cô đơn và lẻ loi) tiến lại sự sống (nhờ giải hòa với Thiên Chúa, tha thứ, am hiểu tình yêu Thiên Chúa và sống liên kết năng động với Thiên Chúa).

                 Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa Cha trong thần khí và sự thật, nhờ tin vào Đức Giêsu:  ‘’Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’’ (Gioan 14,6). Nhờ tin Đức Giêsu, nên Người mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa (Rôma 5,2) – nghĩa là được hưởng sự tương quan sống động với Chúa Cha. 

Do đó, Đức Giêsu tìm kiếm lòng tin nơi người phụ nữ Samaria.  Nhờ tiết lộ các chi tiết trong đời sống cá nhân của người phụ nữ, Đức Giêsu đã tạo được lòng tin nơi chị, cũng như nhiều người khác trong xứ Samarita.  Chị nhận biết Đức Giêsu là ‘’Đấng cứu độ trần gian’’ (Gioan 4,42).

Đức Giêsu đã hoàn tất tác vụ Chúa Cha trao phó trong người phụ nữ, qua việc ban nước hằng sống cho chị.  Đức Giêsu muốn hoàn tất tác vụ Chúa Cha trao phó trong chúng ta, qua việc ban nước hằng sống cho chúng ta.  Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta vào hưởng ân sủng, nơi tràn ngập sự sống của Chúa Thánh Thần. 

Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Đức Giêsu ban nước hằng sống, để tâm hồn chúng ta luôn được mát dịu và hoan lạc. Với niềm tin vững chắc, hãy nài xin Đức Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha.
’Lạy Đức Giêsu,
xin ban cho con nước hằng sống,
để giải thoát cơn khát của con.
Xin ban cho con ‘’mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời’’ (Gioan 4,14).
Lạy Chúa, xin luôn ban cho

con nước hằng sống này.  Amen’’ 

Qui Luật Ăn Uống Trong Các Tôn Giáo

Qui Luật Ăn Uống Trong Các Tôn Giáo


Thức ăn được kể là ô uế hoặc thanh sạch, giữ một địa vị quan trọng trong đời sống con người, nên đã trở thành qui luật ăn uống trong các Tôn Giáo.  Gọi là ô uế hoặc thanh sạch, trong tôn giáo, không hoàn toàn có nghĩa là theo tiêu chuẩn vệ sinh y học, trái lại ô uế hoặc thanh sạch, được hiểu theo truyền thống tế tự hay phụng vụ, tạo sự gần gũi giữa con người với Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa.

Tất cả mọi tôn giáo đều khẳng định rằng, Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn trong sạch và thánh thiện; vì thế, trước khi tiếp cận với Thiên Chúa, hoặc tiến vào một nơi thánh, con người, dù sao vẫn thuộc thành phần ô uế, đều phải làm cho mình trở nên thanh sạch, tức là tẩy rửa mình cho tinh tuyền trước đã.

Dĩ nhiên, có những thứ bị xếp vào loại ô uế, con người cần xa tránh.  Ba tôn giáo độc thần: Do Thái giáo, Kitô giáoHồi giáo đều minh định, khi nào con người được kể là ô uế hay thanh sạch.  Tất cả mọi dẫn chứng đều đã được Kinh Thánh Cựu Ước minh họa, mà cả ba tôn giáo nêu trên, cho đó là nền tảng.

Do Thái giáo
                 Cựu Ước nêu lên nhiều điều khiến con người có thể trở thành ô uế, trong đó gồm có vấn đề bệnh tật, sinh đẻ và nhiều loại thực phẩm khác nhau. Từ Do Thái giáo, chúng ta biết, sách thánh đề cập tới thực phẩm, đặc biệt là máu:  ’’Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.  Bất cứ người nào, thuộc con cái Israel hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và lấy bụi đất phủ lên; vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Israel:  các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ’’ (Sách LêVi 17,12-14).

                 Người Do Thái chỉ ăn thịt thú vật đã được giết chết theo phương pháp đặc biệt, gọi là shcächtning, bảo đảm, máu bị loại ra khỏi con thú tới mức tối đa. Người đồ tể, gọi là shochet, được huấn nghệ cách riêng biệt, làm công việc Schächtning, khiến con thú hoàn toàn không kêu thét.  Ngay cả lúc chuẩn bị nấu nướng, cũng phải cố gắng loại trừ càng nhiều máu càng tốt. Món ăn đã hoàn tất biến chế và được phép xử dụng, Do Thái giáo gọi là kosher

                 Sách Sáng Thế, tại phân đoạn sáng tạo loài vật và con người (1,29) nhắn bảo:  Thiên Chúa cho phép con người được sử dụng tất cả các loài rau trái và thú vật ăn cây, cỏ, để làm lương thực:  ’’Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn’’ (Sách LêVi 11,3), nhưng thú vật ăn thịt, các động vật có vỏ cứng như tôm, cua và cá không lột bỏ vảy hay da, thì tuyệt đối cấm, không được ăn (Sách Dân Số 11,9).

                 Một trong những qui tắc quan trọng trong Do Thái giáo, được ghi nơi Sách Xuất Hành, phân đoạn 23, câu 19 như sau:  ’’Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.’’  Đoạn văn này được nhắc tới nhiều lần, và được diễn giải rằng, thịt và sữa không được nấu chung với nhau, cũng không được mời khách dùng thức ăn dưới hình thức ấy.  Không được ăn thịt chung với sữa trong cùng một bữa, hoặc khi làm thức ăn, đừng để hai thứ kia chung đụng nhau.
Hồi giáo
                 Qui luật trong Hồi giáo không qúa phức tạp như Do Thái giáo.  Thí dụ, trong Hồi giáo, cho phép ăn các động vật có vỏ cứng như tôm, cua và tất mọi loài khác ở dưới biển (Koran 5,97), nhưng máu và thịt heo thuộc loại ô uế, nên bị cấm.

’’Các ngươi không được ăn các loài thịt động vật đã chết, máu và thịt heo, cùng thịt động vật chết ngạt, bị ném đá hay dùng gậy đánh chết, té ngã chết, bị động vật khác húc bằng sừng chết, bị hoang thú gặm nhấm chết, và thịt động vật đã dâng cúng trên bàn thờ cho các ngẫu tượng’’ (Koran 5,4).

Tín hữu Hồi giáo được ăn thịt động vật do các (quán) đồ tể chuyên nghiệp halal cung cấp.  Lúc làm thịt, phải cắt đứt mạch máu ở cổ thú vật liên hệ, cùng lúc kêu tên Allah, như thế máu sẽ tuôn trào ra khỏi thú vật.  Không được để cho người ngoại giáo làm thịt thú vật, mà chỉ những đồ tể chuyên nghiệp – halal - mới được phép làm thịt thú vật mà thôi.

Không cần biết giết thú vật theo thể thức nào, nhưng điều chắc chắn, thịt heo là loại thực phẩm người tín hữu Hồi giáo (muslim) không được phép ăn. Vì thế, thật là khó đối với những người tín hữu hồi giáo định cư tại các nước Tây phương, bởi vì, hầu hết các loại thực phẩm đã biến chế, không nhiều thì ít, đều xuất phát từ thịt heo, đó là chưa kể tới một số phụ chất hoặc mỡ…, cũng xuất phát từ thịt heo, mà thường không được kê khai trong mỗi món thực phẩm biến chế.
Kitô giáo
                 Cho đến thời Đức Giêsu, các qui tắc về ăn uống vẫn áp dụng theo truyền thống Do Thái giáo.  Để Kitô giáo thực sự có những khác biệt rõ ràng giữa các tôn giáo khác, Đức Giêsu thiết lập những nguyên tắc liên quan tới sự thanh sạch.

                 Quan niệm của Kitô giáo về sự thanh sạch được mô tả trong Tin Mừng theo thánh Máccô, chương 7 như sau:  ’’… Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: ’Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:  Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được, nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.’’

                 Đức Giêsu tranh luận với những người Pharisêu và giải thích cho các môn đệ về sự thanh sạch, đoạn Người tuyên bố: ’’… bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế…, nhưng chỉ cái gì từ lòng người, phát xuất những ý định xấu mới làm cho con người ra ô uế’’.  Lời phát biểu của Đức Giêsu về sự thanh sạch đã trở thành một trong những điều khích bác nặng nề nhất đối với nền Do Thái giáo thời bấy giờ.

                 Đức Giêsu là người Do Thái, nên dân Do Thái cảm thấy thật sự khó có thể thông suốt được các nguyên tắc mới.  Trên nẻo đường đến Antiokia, Thiên Chúa truyền lệnh cho môn đệ Phêrô vào nhà một người ngoại giáo.  Ông lên sân thượng cầu nguyện.  Ông cảm thấy đói và muốn ăn.  Đang khi người ta dọn bữa, thì ông xuất thần.  Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, trong đó có mọi giống vật và đủ các loại thực phẩm.  Từ Trời, Đức Giêsu phán bảo ông:  ’’Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn.’’  Phêrô thưa:  ’’Lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.’’  Tiếp theo, lại có tiếng phán bảo Phêrô ba lần, trước khi ông thấu hiểu, rằng:  ’’Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì mọi người đều được phép ăn’’ (Công Vụ Tông Đồ 10).

                 Từ đó, con đường rộng mở, Kitô giáo trải dài khắp hoàn cầu, không chỉ giới hạn trong cộng đồng dân Do Thái.  Giữa các tông đồ cũng có những vụ tranh luận về việc dân ngoại ô uế được phép ngồi ăn chung với người Do Thái tại những cộng đoàn tín hữu (Công Vụ Tông Đồ 15).  Chính tông đồ Phaolô cũng gặp khó khăn khi được trao phó sứ vụ mở rộng Kitô giáo giữa cộng đồng người ngoại giáo.  Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Phaolô cho biết mọi sự là do Thiên Chúa tạo dựng, nên tất cả đều thanh sạch, và con người có thể ăn được.  Phaolô đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, người Do Thái được ăn chung với dân ngoại, và được phép ăn thịt đã dâng cúng cho ngẫu tượng, và bầy bán trong các đền thờ, đó là thứ thịt duy nhất mà con người được phép ăn. Tuy nhiên, Phaolô thiết tha kêu gọi những người mới gia nhập Kitô giáo không nên ăn các thực phẩm đã dâng cho ngẫu tượng, vì sợ có sự hiểu lầm đáng tiếc.  Nhưng hãy đợi một thời gian cho đến khi bỏ được các thói tục xưa cũ đã (1 Côrintô 8).
Ấn Giáo (Hinduismen) và Phật Giáo (Buddhismen)
                 Ấn giáo cũng có qui luật đề cập tới những gì người ta được ăn. Qui luật ăn uống gắn liền với bốn giai đoạn trong cuộc sống của một con người. Mỗi giai đoạn được phép ăn những loại thực phẩm riêng, và sự thanh sạch của con người tùy thuộc vào các điều khoản qui luật do mình tuân giữ.  Giáo huấn Dharmashastra qui định rõ, con người phải tuân giữ qui luật ăn uống nào trong mỗi giai đoạn trong đời sống.  Nếu ăn không đúng, ô uế có thể xâm nhiễm vào con người; hoặc nếu ăn chung với kẻ ô uế, thì mình sẽ tự trở nên lây nhiễm ô uế.

                 Phật giáo cũng có một số qui luật, cho phép người tín hữu ăn những loại thực phẩm nào.  Phật giáo không có những qui luật ăn uống qúa đặc biệt, so với các tôn giáo, nhưng gồm có năm điều khoản, trong đó người phật tử muốn đắc đạo chỉ cần tuyệt đối theo đuổi và tuân hành suốt cuộc đời một điều khoản là đủ. 

                 Điều ấy nhắn bảo người tín hữu không được sát sinh, vì thế, đa số phật tử chấp nhận ăn chay trường.  Trong một số qui luật ăn uống của Phật giáo, không cho phép bậc tu trì: ông sư, thầy chùa, bà vãi, ni cô… ăn thịt ; và sẽ bị liệt vào thành phần thiếu luân lý, nếu phật tử ăn thịt, cá do chính họ săn bắt được, ngay cả trong các dịp lễ hội lớn.