Gioan Phaolô II - Vị Giáo Hoàng Có
Khuynh Hướng Toàn Cầu,
Nay Trở Thánh Một Đấng Thánh
Kinh Thánh Gioan
Phaolô II
Thân lạy
thánh Gioan Phaolô –
từ cửa sổ
Nước Trời – xin Ngài ban phép lành cho chúng con! –
xin Ngài
ban phép lành cho Giáo Hội –
mà Ngài hằng
yêu mến - phục vụ và can đảm dẫn dắt
trên bước
đường trần gian - hầu đem Đức Giêsu đến với mọi người –
và mọi
người đến với Đức Giêsu. – xin Ngài ban phép lành cho giới trẻ -
những người
mà Ngài rất thương mến –
xin Ngài
dạy họ biết tái mộng ước - hướng nhìn lên ánh sáng –
soi dẫn
cuộc sống của họ tại trần thế này –
Xin Ngài
ban phép lành cho các gia đình – xin Ngài ban phép lành
cho từng
gia đình! - Ngài báo trước cho chúng con
biết sức tấn công
của satan
- hầu chúng con canh chừng các báu vật cần thiết tại Nước Trời –
mà Chúa đã
gây dựng ở trần gian. - Lạy thánh Gioan Phaolô II –
nhờ lời cầu
bầu của Ngài – xin gìn giữ các gia đình – và đời sống
mỗi cá nhân
– đang triển nở trong từng gia đình.-
Xin Ngài
cầu cùng Chúa cho toàn thể thế giới - vẫn sống trong
tình trạng
căng thẳng - chiến tranh khắp trần gian – và bất công.
– Ngài đã chống lại chiến tranh – dưới hình thức kêu gọi đối thoại –
và gieo rắc tình yêu – xin Ngài cầu cùng Chúa cho chúng con -
để chúng con trở nên hạt giống ươm trồng
– Ngài đã chống lại chiến tranh – dưới hình thức kêu gọi đối thoại –
và gieo rắc tình yêu – xin Ngài cầu cùng Chúa cho chúng con -
để chúng con trở nên hạt giống ươm trồng
cây hòa bình
– mà không cảm thấy mỏi mệt –
Lạy thánh
Gioan Phaolô – xin Ngài ban cho chúng con phép lành từ
cửa sổ Nước
Thiên Chúa – nơi chúng con thấy –
Ngài đang
ngồi bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria – Amen./
Biên
Soạn: Giám Mục Angelo Comastri
Người là một trong số các giáo hoàng có
thời gian trị vì
lâu dài nhất lịch sử giáo hội công giáo,
và Người
được quần chúng biết đến
nhờ truyền thống bảo thủ, khôn ngoan,
cũng như
hướng tới toàn cầu.
Khi Karol Wojtyla được bầu làm
giáo hoàng vào ngày 16 tháng 10 năm 1978 và lấy tên là Gioan Phaolô 2, Người trở
thành vị giáo hoàng không thuộc dòng giống người Ý kể từ năm 1523, đồng thời là vị giáo
hoàng duy nhất thuộc khối Indo-European (những
người dân nói thứ ngôn ngữ lai Á-Ấn-Âu, như Nga,BaLan, Tiệp…). Người tạ thế vào năm 2005, và là một trong số các
giáo hoàng có thời gian trị vì lâu dài nhất lịch sử giáo hội công giáo.
Ngay vào năm 2011 Người đã được
phong Á thánh; và được tôn phong hiển thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014, tại Công
Trường Thánh Phêrô, cùng với giáo hoàng Gioan XXIII, với sự hiện diện của hàng
trăm ngàn tín hữu công giáo từ khắp nơi đến tham dự.
Thuở Thanh Niên và Thiếu Thời
Karol Wojtyla sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại làng
Wadowice, cách Krakow 50 kilômét về hướng nam.
Thân phụ Người là một viên chức trẻ phục vụ trong quân đội Áo, thời Đệ
Nhất Thế Chiến, và sau khi chiến tranh chấm dứt, thân phụ Người phụ trách các
việc hành chánh trong quân đội BaLan. Thân
phụ Người được hưu dưỡng sớm, do đó vấn đề tài chính trong gia đình nhỏ bé trở
nên hạn hẹp. Thân mẫu và người anh rời bỏ
thế gian lúc Người còn bé, Karol phải sống lẻ loi với thân phụ mình.
Người bắt đầu học trung học tại
trường địa phương. Người tỏ ra có năng
khiếu về thể thao và kịch nghệ. Sau này
Người cùng với thân phụ di chuyến tới Krakow, rồi Karol Wojtyla được thu nhận vào
đại học thị trấn, theo học văn khoa và triết học. Cùng lúc, Người gia tăng tập luyện và hoạt động
tích cực trong ngành kịch nghệ sinh viên.
Ngoài ra, Người bắt đầu sáng tác loại thơ trữ tình.
Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục, Hồng
Y
Việc quân đội Đức chiếm đóng
BaLan năm 1939 quyết định cuộc sống của Karol Wojtyla. Các giáo sư đại học bị
trục xuất và đưa vào các tại tập trung, còn sinh viên bị cưỡng bách lao động
trong các xưởng sản xuất tại Krakow. Những
sinh viên thiếu sức khỏe được dẫn vào các trại tập trung. Nhờ tập luyện tốt Karol Wojtyla đã có thể kín
đáo tiếp tục việc học của mình.
Vào những năm hậu Đệ Nhị Thế
Chiến Wojtyla mau được tiến chức trong Giáo Hội. Người viết luận án tiến sĩ với đề tài ’’Gioan Thánh Giá, nhà huyền bí và thi sĩ
Tâybannha’’, và sau này trở thành giáo sư tại đại học Krakow, phân khoa
triết học luân lý, kiêm giáo mục phụ tá.
Vào năm 1964, Người được tiến cử làm tổng giám mục Krakow, và ba năm
sau, Người tiếp nhận ngôi vị hồng y.
Tại Công Đồng Vatican II, Người
giữ vai trò phát ngôn viên các quan điểm tự do trong lãnh vực triết học luân
lý và vấn đề nhân quyền. Cùng với
hồng y Wyszyski, vị lãnh đạo Giáo Hội công giáo BaLan, Người tham dự các cuộc đối
thoại với nhà nước cộng sản về vấn đề tự do của Giáo Hội.
![]() |
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Và Chim Hòa Bình |
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Sau khi Đức Gioan Phaolô I, vị giáo hoàng tại chức 33
ngày, qua đời, Wojtyla được bầu làm giáo hoàng với số phiếu tối đa của các hồng
y cử tri.
Với lòng nhiệt thành và tinh thần
năng động, Gioan Phaolô II đã khởi sự lèo lái con thuyền Giáo Hội với đa số là
những chuyến công du mục vụ. Trong suốt
thời gian ở ngôi vị giáo hoàng, Người đã trải qua trên 100 chuyến du hành. Người là vị giáo hoàng mang khuynh hướng toàn
cầu. Người không chỉ đánh dấu các việc làm
của mình bằng những chuyến công du mục vụ, mà còn ban hành vô số thư luân lưu,
phong thánh và á thánh cho nhiều nhân vật đạo đức-thánh thiện khắp mọi nơi trên thế
giới, cũng như thăng chức các tân hồng y, phản ảnh một Giáo Hội với tầm vóc quốc
tế và khuyếch trương bộ mặt Giáo Hội toàn cầu.
Gioan Phaolô II là con người khôn
ngoan, khéo léo và có khả năng thu hút các phương tiện truyền thông, bằng cả
hai khuynh hướng: bảo thủ cũng như cấp tiến, liên quan tới lãnh vực thần học và luân lý. Kinh nghiệm từ BaLan, Người cho rằng việc bảo
tồn Giáo Hội là nhờ biết duy trì các truyền thống tốt đẹp, hầu gia tăng sức mạnh,
để có thể đối ứng với hành động khủng bố của tập thể quân đội nazi cũng như cộng
sản, không ngừng tìm cách diệt trừ Kitô giáo.
Đối với Gioan Phaolô II, Giáo
Hội và văn hóa có những tương quan mật thiết với nhau và quyết định đời sống
xã hội. Vì thế, chúng ta không lấy làm ngạc
nhiên, khi Người dùng ảnh hưởng của mình để dẫn đưa BaLan tới con đường giải
thoát chế độ cộng sản.
Danh tiếng của Người rất lừng lẫy,
đồng thời Người cũng tạo nên những kẻ chống đối và chỉ trích ở cả bên
ngoài cũng như bên trong Giáo Hội. Người
cực lực kháng cự việc tự do phá thai, bởi vì Người muốn bảo vệ giá trị vô cùng
cao qúi của con người, đã được tạo dựng theo vaw như hình ảnh Thiên Chúa. Và Người thẳng thắn
từ chối việc thành hôn của các linh mục.
Người chống đối mạnh mẽ chủ nghĩa
duy vật và sự cách biệt sâu xa giữa những nước giầu và nghèo, nhưng người cảnh
giác các giáo sĩ tham gia trong lãnh vực thần học giải phóng, và Người đã sa thải bề trên Dòng Tên vì lý
do nêu trên. Từ đó Người bị chỉ trích là
ủng hộ phe bảo thủ - Opus Dei.
GioanPhaolô II là vị giáo hoàng duy nhất
đã quan tâm tới vấn đề khoa học, mà từ trước tới nay vẫn bị các vị tiền nhiệm kết
tội là tà thuyết. Vào năm 1983, Gioan
Phaolô II đã mời tất cả thủ lãnh các tôn giáo lớn đến Assisi để cầu nguyện
cho hòa bình thế giới.
Năm 1981, Gioan Phaolô II đã trải
qua một cuộc mưu sát khốc liệt. Trình thuật việc
Người đến thăm viếng tại nhà tù và tha thứ cho kẻ mưu sát đã được truyền tải đến
mọi nơi trên thế giới. Một chứng bệnh
run tay khởi sự hoành hành vào thập niên 1990, khiến Người trở nên suy yếu dần;
nhưng ý Người là muốn tiếp tục sứ vụ giáo hoàng ở mức độ như thế, cho đến khi nhận được lời cảnh báo của hội đồng bác sĩ, Người bèn than thở: ’’Tôi gục ngã rồi, như thế là tôi gục ngã
rồi’’ – Si crollo, crollo.
Vào năm 2005, sức lực của Đức Phaolô II
đã đến hồi kiệt quệ, và Người chết vào ngày 2 tháng 4 tại cư dinh quốc gia
Vatican. Trong buổi lễ an táng rầm rộ, dân chúng đã liên tục lớn tiếng hô to: ’’Xin hãy phong thánh cho Người’’. Hai tháng, sau khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, một
nữ tu người Pháp đã được chữa lành bệnh run tay, một cách lạ lùng, sau một thời gian cùng với các nữ tu đồng viện liên tục kêu cầu danh Người.
Sau này, một phụ nữ dân xứ
Costa Rica bị bướu não cũng được lành bệnh, vì đã kêu xin Đức Gioan Phaolô II cầu bầu
cùng Chúa cho chị.
Những phép lạ nêu trên dẫn tới
quyết định phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II.
Sau khi từ giã cõi trần, một nhân vật đã làm phép lạ đầu tiên, sẽ được các
chuyên gia điều tra kỹ lưỡng và thẩm định cách chính xác, rồi mới được phong lên
hàng á thánh; và được giáo hoàng tại chức phong lên bậc hiển thánh, nếu phép lạ
thứ hai được giáo hội thừa nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét