Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

Chúa Nhật 28 Thường Niên - Năm A

Chúa Nhật 28 Thường Niên  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Isaia 25,6-10a; - Thánh Vịnh 23,1-6; 
- Phillípphê 4,12-14.19-20; - Mátthêu 22,1-14

Chúa Đưa Tôi Tới Dòng Nước Trong Lành

Gặp Ai, Anh Em Cũng Mời Hết Vào Tiệc Cưới

                 Dụ ngôn Tiệc Cưới của Hoàng Gia mang ba ý nghĩa: 1.) Nghĩa đen; 2.) Nghĩa biểu tượng; 3.) Nghĩa thần bí.

                 1.)  Nghĩa đen:  Đức Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời tới dự tiệc, nhưng họ viện dẫn nhiều lý do khác nhau, để từ khước và không đến.  Đức Vua lại sai đầy tớ khác đi mời.  Có những người tỏ ra lạnh lùng.  Có những người bắt bớ đầy tớ của Đức Vua mà nhục mạ, đánh đập cho đến chết.  Hành động này khiến Đức Vua nổi cơn thịnh nộ, và ra lệnh cho binh lính tru diệt bọn sát nhân, đồng thời thiêu hủy thành phố của họ.  Cuối cùng, Đức vua sai đầy tớ ra ngoài đường, gặp bất cứ ai, không kể tốt xấu, qui tụ lại, cho đến khi phòng tiệc chật ních.  Tuy nhiên, có một người ngồi tại bàn tiệc mà không mặc y phục lễ cưới, liền bị Đức Vua phát giác, và ra lệnh tống vào ngục.

2.)  Nghĩa biểu tượng:  Đức Vua biểu hiệu Thiên Chúa.  Hoàng Tử biểu hiệu Đức Giêsu.  Lời mời từ nhóm đầy tớ đầu tiên – là các ngôn sứ - đã bị từ khước.  Lời mời từ nhóm đầy tớ thứ hai – là thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu – thì phải đương đầu với thái độ lạnh lùng và bị ngược đãi, cuối cùng đón nhận sự chết.  Khi đọc trình thuật này của Mátthêu, các đọc giả đầu tiên đã hiểu ngay, sự kiện những kẻ giết các Đầy Tớ, và thành phố bị phá hủy, ám chỉ quân lực Rôma xâm chiếm Giêrusalem, vào năm thứ 70 trước Công Nguyên.  Khi thành phần lãnh đạo Do Thái giáo công khai từ khước lời Thiên Chúa mời gọi, thì Người ra lệnh kêu mời tất cả mọi hạng người, kể cả nhóm thu thuế và phường đĩ điếm.  Không phải tất cả những người nhận lời mời đều đưc phép dự Bữa Tiệc sang trọng này.  Theo qui luật Nhà Vua, khách dự tiệc phải mặc y phục đàng hoàng, tươm tất.  Kẻ không tuân hành, nói lên thái độ ương ngạnh, bướng bỉnh, sẽ bị trừng phát nặng nề.

3.) Nghĩa Thần Bí:  Khi nghe bài Tin Mừng này, tâm hồn chúng ta cảm thấy xót xa, đau đớn.  Tất cả chúng ta đều được kêu mời đi vào Nước Thiên Chúa. Để kết hợp trong Đức Kitô, mỗi người đều nhận được ơn tha tội, ơn cứu chuộc, một phần là do những việc tốt lành mình đã làm khi còn ở trần gian, và được hưởng sự sống bất diệt với Chúa. Tuy nhiên, chúng ta có thể tự hỏi:  cuộc sống của ‘’tôi’’ có xứng với lòng thương xót của Chúa không?  Thay vì yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và hân hoan đi vào sống trong vương quốc Đức Kitô Giêsu; tôi đã hăng say dấn thân thực hiện những việc theo ý riêng mình, đồng thời còn tỏ ra thù nghịch, lừng khừng, lãnh đạm và lạnh lùng, trước lời mời gọi của Thiên Chúa - qua các thừa tác viên (đầy t) của Giáo Hội, bạn bè, hay những người thân quen?  Mời gọi đi vào sống trong vương quốc Thiên Chúa là tiếng kêu cầu hoán cải tâm hồn, từ căn bản cuộc sống, tức là một cuộc trở về đích thực với Đức Kitô Giêsu, là một cuộc sống qui phục Thiên Chúa, tức là ưu tiên dành thì giờ cầu nguyện mỗi ngày; đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa; cũng như sốt sắng tham dự thánh lễ và rước Mình Thánh; đồng thời thực hiện các công tác cụ thể, bầy tỏ tình yêu năng động và chân thành với tha nhân.
               ‘’Lạy Chúa, con không muốn tiếp tục dâng lên Chúa những việc làm nơi đầu môi chót lưỡi.  Xin giúp con loại bỏ thái độ thờ ơ, lãnh đạm, trước lời mời gọi của Chúa.  Xin giúp con mau mắn đáp trả lời răn dậy của Chúa: là tham gia công tác rèn luyện tâm linh, và làm việc thiện.  Xin ban cho con một trái tim tràn đầy lửa yêu mến của Chúa.  Amen.’’  

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 3,22-29; - Thánh Vịnh 105,2-3.4-5.6-7; - Luca 11,27-28


Hãy Tự Hào Vì Danh Thánh Chúa

Nhờ Đức Tin, Anh Em Đều Là Con Cái Thiên Chúa

                Ngày kia, có một nhóm thú vật cùng nhau mở buổi tranh luận, để tìm hiểu loại thú vật nào có những giá trị tuyệt vời nhất.  Một giống beo nhỏ giới thiệu là có bộ chân chạy rất nhanh; rắn khoe là có thể trườn ra trườn vào các bụi cây rậm rạp mà chẳng ai để ý, vì không gây tiếng động mạnh; chuột chũi rất hãnh diện với khả năng sống dưới cống rãnh; còn voi thì cảm thấy có thể sử dụng sức mạnh trong bất cứ tình huống nào; chim thì nghĩ là mình thuộc loại tuyệt vời, vì có thể bay lượn trong không trung… và số thú vật còn lại tiếp tục kể lể.  Rồi tất cả các thú vật đưa mắt khăng khăng nhìn nhau, lặp đi lặp lại đặc tính riêng của mình, mãi đến khi con ốc bưu lên tiếng mới bịt được miệng cả nhóm:  ‘’Tôi có cái không bạn nào nói đến – khá khác biệt đấy – Cái khả năng mỗi bạn có, chẳng giá trị chút nào, cái mà tôi có thì tuyệt vời – Tôi có Thời Gian.’’

                 Đức Tin – đó là chủ đề mà Phaolô muốn nói với tín hữu Galát – cũng là vấn đề cần tới thời gian, mới có thể tiết lộ hoặc khám phá được.  Ngay cả phần chú giải các đoạn Kinh Thánh cũng cho biết, đức tin, vào một lúc nào đó mới có thể được tiết lộ hoặc bật mí - dưới khía cạnh lề luật. Trong cuộc sống đời thường, cũng giống như thế, cái hay, cái tốt thường được thể hiện từ nơi chúng ta, sau một thời gian trải qua nhiều sai lầm.
   
Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn nghe thầy giáo nói về ‘’sự phát triển trễ’’ của các học sinh ưu tú.  Chúng ta cũng thường tìm ra các kho báu nơi một số bạn bè, sau nhiều năm gần gũi, giao du thân mật, chứ không phải là đã có ngay từ lúc mới găp gỡ lần đầu.  Cùng một chiều hướng ấy, ơn gọi triển nở nơi các cá nhân, mà Thiên Chúa đã dành riêng cho họ, cũng như cộng đồng.

Đức Tin là một sự kiện – Tin ở nơi Thiên Chúa, tin vào chính mình và tin nơi đức tin của Thiên Chúa.  Tất cả đều cần thời gian; và cũng cần cầu nguyện.  Điều này đòi hỏi một sự lớn lên trong tương quan mở rộng và lắng nghe, cũng như tin tưởng. 

                 Phaolô khuyến khích và nhắn bảo tín hữu Galát rằng, họ đã có đức tin.  Đức Kitô đã đem chúng ta vào trong gia đình Thiên Chúa, và qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta đã đặt mọi sự vào bàn tay Đức Kitô.  Chúng ta là một tấm bánh, một thân thể trong Đức Kitô, nếu chúng ta tiếp nhận sứ điệp Tin Mừng bình an, hiệp nhất và coi mọi người ngang hàng với mình và như nhau.  Lịch sử cứu chuộc cũng cần tới thời gian mới đạt tới  sự hiểu biết này, nhưng thời gian là một trong các ơn mà qua đó Thiên Chúa, vì lòng thương xót, đã cứu chuộc thế gian ra khỏi quyền lực sự dữ.

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu rõ giá trị của thời gian, và biết sử dụng thời gian cách khôn ngoan và khéo léo, để làm vinh danh Chúa.  Chúng con nguyện xin, thời gian mà Chúa ban cho chúng con tại trần thế này sẽ giúp chúng đức tin của chúng con lớn dần, để nhờ thế chúng con càng thêm gần gũi Chúa.’’  

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 3,7-14; - Thánh Vịnh 111,1-2.3-4.5-6; - Luca 11,15-26


Sự Nghiệp Chúa Oai Phong Hiển Hách

Kẻ Dựa Vào Đức Tin Thì Được Chúc Phúc

                 Đức Giêsu, Đấng chẳng có tội lỗi gì, nhưng đã gánh tội lỗi chúng ta.  Thực là một điều phi thường; nhưng qua đoạn sách hôm nay, trích từ thư gửi tín hữu Galát, Phaolô đã dùng những ngôn từ khá mạnh.  Phaolô nhắc đọc gỉa của ngài nhớ rằng, Đức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì lề luật, ‘’đã trở thành một sự nguyền rủa vì chúng ta’’ bằng cách treo trên cây gổ! (Galát 3,13).

                 Theo Phaolô thì lịch sử cứu chuộc của Đức Kitô có liên quan mật thiết tới đức tin của Abraham và lời Thiên Chúa đã hứa.  Nói tới ơn gọi của Abraham là nói đến quyền năng, vì lời hứa của Thiên Chúa đánh động và tạo phấn khởi trong tâm hồn Abraham, khiến lòng tin nơi ông trào dâng, đặc biệt là sau một thời gian dài mong đợi, ngưòi con trai của ông là Isaac đã vào đời; tiếp theo, Thiên Chúa đã thử thách ông, bằng cách yêu cầu ông hiến tế người con trai duy nhất ấy.
  
Trước khi biến cố bi thảm kia xảy ra, Abraham đã thật sự bối rối, dường như khó có thể dám đón nhận lới hứa vô cùng trọng đại từ Thiên Chúa, nghĩa là Abraham phải gánh một trách nhiệm to lớn, với muôn vàn sợ hãi.

                 Lời hứa trong Kinh Thánh, khởi từ Abraham cho đến sau này, hoàn toàn ứng nghiệm, qua rất nhiều thí dụ điển hình, diễn tả việc con người sa ngã phạm tội, từ  thế này sang thế hệ khác.  Lợi dụng truyền thống sẵn có, Phaolô nêu cao ảnh hưởng của đức tin, và bãi bỏ việc câu nệ lề luật. 

Phaolô giải thích, nhờ Đức Kitô, lời hứa đã hoàn tất nơi Abraham sẽ được chuyển tải tới các Dân Ngoại.  Phúc lành Thiên Chúa dành cho Abraham, cũng sẽ đến với họ, như thế họ có thể nhận được ơn mà Thiên Chúa đã hứa, tức là Thần Linh, nhờ ân sủng đức tin, được thừa hưởng từ Abraham.

                 Phaolô đánh giá truyền thống -  Ngài đã thấm nhuần điều được coi là tốt và cao qúi nhất – tức là ngài không bị trói buộc vào lề luật Do Thái (Torah). Phaolô hiểu, Đức Giêsu đến, không phải là để loại bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn.  Lề luật thì tốt, đúng và phải lẽ - không có lề luật, thế sự dễ trở thành nhiễu nhương (đời cũng như đạo).

                 Chúng ta được lề luật thần trí hướng dẫn và thống trị, chứ không phải là thứ lề luật ‘’chữ viết’’ .  Chúng ta được mời gọi để giữ gìn linh hồn của lề luật, có khả năng dẫn tới tự do và bình an.  Chúng ta được mời gọi sống cuộc đời trong Thần Linh, để chống lại những gì gọi là vô kỷ cương – không có vấn đề giới hạn, khi chúng ta yêu thương, hiền hòa, tử tế, quảng đại, chịu đựng và nhẫn nhục.

                 ‘’Lạy Chúa, con xin cảm tạ, vì Chúa đã ban cho con ân sủng đức tin.  Từ đó, xin ban cho chúng con ơn can đảm trên đường hợp tác phục vụ Hội Thánh, vương quốc Chúa ở trên trần gian này.’’  

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  - Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 3,1-5; - Luca 1,69-70.71-71.73-75; - Luca 11,5-13


Chúa Cứu Ta Thoát Khỏi Địch Thù

Anh Em Đã Nhận Được Thần Khí

                Một thầy giáo giỏi sẽ truyền đạt sự hiểu biết của mình đến học viên, và tìm cách hữu hiệu nhất để cùng khai thác các đề tài đã loan tải.  Một thầy giáo được ghi nhận là tuyệt vời, không chỉ là nhà giáo dục có khả năng làm cho học viên tin tưởng vào sự hướng dẫn của mình, mà còn cố gắng giúp họ hiểu thấu đáo những thông tin đã nhận được, cho đến khi tư tưởng và ý kiến ấy trở thành như của riêng họ. 

Từ đó, sự hiểu biết mỗi ngày càng lớn lên theo năm tháng, trí tuệ thêm minh mẫn.  Giảng dậy và học hỏi luôn gắn liền với nhau trên mọi lãnh vực – tri thức và trí dục.  Căn cứ vào sự phân tích này, thì Phaolô đúng là một thầy giáo ưu tú, nhưng tiếc thay, Phaolô đã có một lớp học viên tại Galát, dường như mau quên những điều mình giảng dậy. 

Phaolô phân biệt giữa việc ‘’tuân hành lề luật’’‘’nghe với niềm tin’’.  Phaolô không thể nào hiểu, tại sao các tín hữu Galát đã đón nhận Thần Linh và tòng giáo, thế mà hình như họ vẫn còn muốn tạo sự hiểu biết riêng cho cá nhân, bằng cách quay trở về sống với lề luật xưa cũ.  Nhận lãnh các dấu lạ của Thiên Chúa chưa đủ - chúng ta còn cần thừa nhận những việc làm kỳ diệu này là do quyền năng Chúa Thánh Thần.

Một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong một môi trường kiểm tra chặt chẽ và kỷ luật khắt khe, sẽ lớn lên trong trạng thái luôn sợ hãi, thiếu óc sáng tạo, dễ tức giận, cáu kỉnh với mọi người, và với xã hội chung quanh. 

Mặc dù lề luật có một điểm lợi là dễ quản thúc, vì trong đó người ta chỉ được hưởng tự do với một giới hạn qui định, hầu tránh tình trạng hỗn loạn trong tập thể; như thế chưa hẳn đã tốt đẹp mọi bề.  Một điều chắc chắn là nơi ấy sẽ trở thành lạnh lẽo, gần giống như hoang địa.

                 Hãy tưởng tượng, một người muốn băng qua một con suối rộng, người đó lấy những phiến gỗ lát thành một chiếc cầu, lấy thừng mắc hai bên làm tay vịn.  Những dây thừng hai bên là lề luật; chúng vừa là kim chỉ nam hướng dẫn, vừa giúp chúng ta đi lại trên cầu được an toàn, phòng giữ chúng ta khỏi bị ngã xuống suối.  Biết rõ những thứ đó, chúng ta an lòng, bước qua cầu cách tương đối tự do, hướng tầm mắt nhìn về phía trước, mà không sợ hãi gì, vui vẻ đồng hành với đoàn lữ khách.
 
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào những dây thừng, chúng ta sẽ mất đi các mối liên hệ thực sự cần thiết khác, đặc biệt và trước hết, là nhóm người đang đồng hành với mình và với Thiên Chúa tình yêu, suốt đoạn đường nước chảy xiết ở dưới suối, rất nguy hiểm.  Như một cơn cám dỗ, thúc đẩy chúng ta bám chặt lấy chuỗi dây thừng, và không ngừng tính toán để ước lượng, còn bao xa nữa cuộc hành trình vượt qua chặng đường hiểm trở này, mà không bị ngã xuống sông.  Đó chính là cách lợi dụng lề luật để sống, chứ không vì một lý do cao cả nào khác.

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp con kính trọng, chứ đừng tôn thờ lề luật.  Xin giúp con đừng bao giờ đánh giá lề luật cao trọng hơn hành động của Thần Linh Chúa, trong đời sống của con.’’  

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Tư Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 2,1-2.7-14; - Thánh Vịnh 117,1-2; Luca 11,1-4


Muôn Nước Hỡi, Nào Ca Ngợi Chúa

Tông Đồ Nhận Ra Ân Huệ Thiên Chúa
             Đoạn Kinh Thánh hôm nay được kể là vắn tắt, nhưng giữ một địa vị rất quan trọng trong lịch sử Kitô giáo.  Tại Galát 2,9, chúng ta được biết, Phêrô, Giacôbê và Gioan đã giơ ‘’cánh tay phải tình bằng hữu ra’’ – ngôn ngữ thông dụng gọi là bắt tay Phaolô, khi ông đến thăm viếng Giêrusalem.
  
Buồn thay - vì không hội đủ chi tiết biến cố này, nên chúng ta có thể tưởng tượng là mình được hân hạnh tọa lạc trong một căn phòng, nơi các ngư phủ chất phác, thật thà xứ Galilê, đang đối mặt với Phaolô, người có học vấn và trí thức, cũng còn là một nhân vật trước kia đã từng bắt bớ và hành hạ các tín hữu Kitô giáo.

Chúng ta không có bản ghi nhận chi tiết diễn tiến trong đầu óc mỗi tham dự viên, khi nhìn vào mặt nhau như thế nào. Có thể, tất cả các tham dự viên đều tỏ ra lúng túng đối với lối sinh hoạt mới, mà Thiên Chúa dường như muốn xử dụng để hoàn tất kế hoạch của Người.

Phêrô có lẽ cảm thấy rất hạnh phúc, vì ông đã tạo dịp để mọi người tỏ lộ tình bằng hữu với nhau, đồng thời còn là cơ hội giúp một người đã thề hứa, sẵn sàng chọn lối ‘’sống mới’’ với tư cách là môn đệ Đức Giêsu.  Các tham vự viên đều cảm thấy lo âu, không ai dám mở đầu lên tiếng, vì họ là những người có tính nhút nhát.

Nhưng việc sẽ đến phải đến – đó là tất cả các tông đồ đã từng đồng hành với Đức Giêsu ngay từ buổi đầu, nhất tâm chấp nhận Phaolô gia nhập tông đồ đoàn; coi ngài tương đồng và ngang hàng với các tông đồ khác, mặc dù Phaolô giữ một trọng trách riêng từ Thiên Chúa là đem Tin Mừng đến cho thế giới Dân Ngoại.

Bắt tay là dấu chỉ hữu hình việc các tông đồ ưng thuận trao bài sai (ủy nhiệm thư) cho Phaolô và các giáo huấn do ngài giảng dậy – ơn cứu độ là nhờ tin vào Đức Giêsu, chứ không phải là việc tuân hành lề luật Do Thái - chỉ có tính cách bề ngoài và trên văn bản.

Người ta nghĩ rằng, mặc dù, thói quen cũ đã chết ngộp, nhưng chắc chắn, vì các tông đồ là những người đã thấm nhuần truyền thống Do Thái, nên vẫn không quên mang theo, cùng với hành trang lên đường thi hành sứ vụ rao truyền Tin Mừng tại Palesitne; như thế có nghĩa là các ngài cũng đang bị cám dỗ trở về với con đường lề luật xưa cũ. 

Từ đó, tạo nên chuỗi gặp gỡ - mặt đối mặt - ngượng ngùng giữa Phaolô và Phêro sau này tại Antiôchia.  Chúng ta không thể giúp gì được, nhưng cần thông cảm Phêrô, vì đã phải đối diện với một con người khéo thuyết phục và lý luận như Phaolô, ngay cả khi ngài sai lầm. 

Tuy nhiên, điều quan trọng, thiết thực mà Phaolô biết, đó là sứ điệp Tin Mừng phải sớm được loan truyền trên khắp toàn cầu.  Tin Mừng cứu độ là một Tin Mừng hướng tới tự do, chứ không dẫn con người rơi vào trạng thái nô lệ lề luật.

‘’Con cám ơn Cha, đã ban ơn cứu độ cho con, nhờ tin vào Con Cha.  Xin giúp con loan truyền sứ điệp tình yêu và tự do của Cha tới mọi người trên tràn gian này.’’  

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 1,13-24; - Thánh Vịnh 139,1-3.13-14.15; - Luca 10,38-42


Con Nghĩ Tưởng Gì, Ngài Thấu Suốt Từ Xa

Thiên Chúa Đã Mặc Khải Con Của Người Cho Tôi

                 Qua nội dung đoạn Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể nhận thấy giọng nói của Phaolô phảng phất một nỗi buồn thê thảm.  Lúc này, với tư cách là một tông đồ, có lẽ trong tay Phaolô đang cầm một tấm bài sai (ủy nhiệm thư), chứng minh việc ra đi rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại là hợp lệ.  

Phaolô cho biết, cũng như mọi người, ông đã từng là một tín hữu rất hăng say và nhiệt tình, suốt cuộc đời, triệt để tuân hành lề luật chính thống giáo Giuđa, nhưng bây giờ ông trở thành một chiến sĩ loan báo Tin Mừng cứu độ, nhờ lòng tin, chứ không do việc tuân hành lề luật.

Chúng ta không biết chắc chắn lý do nào đã làm cho Phaolô phải phiền lòng, vì xuyên qua các thư của Phaolô, chúng ta có cảm tưởng như cuộc điện đàm chỉ có một người nói ở đầu giây bên này.  Tuy nhiên, chúng ta có thể đoán chừng được rằng, trong thời gian Phaolô vắng mặt, một số tín hữu cộng đồng Galát đã xúi giục nhau trở lại thực hành đạo chính thống, và dường như Phaolô nhất định ‘’đổ nước vào’’ lề luật Giuđa, vì lợi ích của Dân Ngoại. 

Hơn nữa, hình như họ còn muốn hạ thấp quyền hạn của Phaolô xuống, bằng cách nói rằng, sứ điệp của ông không được các tông đồ khác cho phép loan tải, bởi vì Phaolô không cùng đi với Đức Giêsu, ngay từ buổi đầu tiên, như họ.  Đó là một lối dụng binh hay dèm pha rất ác độc, và vì thế chúng ta có thể thông cảm với nỗi buồn nản của Phaolô. 

Thánh Phaolô được mô tả là một nhà thần học tuyệt vời, và Người đã tự chứng minh mình, qua các thư đã viết, là một nhân vật tài trí khác thường. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, không phải vì khả năng tuyệt vời hay tài hùng biện và lý luận sắc bén, mà Phaolô đã trở thành một nhân vật có thế lực, nhưng chính là mối tương giao cá nhân giữa Người và Đức Giêsu. 

Cảm nhận của Phaolô về Đức Giêsu Phục Sinh khởi sự từ biến cố bất ngờ xảy ra trên con đường đến Đamacus (Syrie), và liên tục – chúng ta có thể tưởng tượng ra được – ở một trạng thái êm đềm hơn, trong thinh lặng cầu nguyện, vào những năm ẩn dật, trước khi bắt đầu các cuộc hành trình truyền giáo.  Đó là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi vì, cầu nguyện là quan hệ mật thiết với Đức Kitô, và như thế cũng có giá trị như quan hệ mật thiết với các tông đồ khác. 

Thực vậy, Tin Mừng kể cho chúng ta biết tiến trình nhận thức chậm chạp, mà các tông đồ đã trải qua, từ những ngày cùng với Ðức Giêsu lê býớc trên những con ðýờng xứ Palestine bụi mù, trýớc khi thật sự nhận rõ Người là ai. 

                 Do đó, dường như Phaolô qúa lo lắng, nên muốn nhấn mạnh tới điểm này, để chúng ta có thể hiểu rõ tình yêu của Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh, giống như Phaolô đã hiểu, mặc dù chúng ta chưa từng được thân chinh đồng hành với Người.

                 ‘’Lạy Chúa, xin giúp con có được cảm nhận tiếp cận tình yêu Chúa và vui hưởng sự hiện diện của Chúa.’’  

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Hai Sau Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Galát 1,6-12; - Thánh Vịnh 111,1-2.7-8.9+10c; - Luca 10,25-37


Con Xin Hết Lòng Cảm Tạ Chúa

Tin Mừng Do Chính Đức Kitô Mặc Khải

              Khi đọc thư Phaolô, nhiều tín hữu Galát cảm thấy tâm hồn mình chùng xuống.  Phaolô không muốn dài dòng, mất thì giờ, mà đi thẳng vào vấn đề.  Cộng đồng tín hữu Galát đã ‘’mắc mưu’’ kẻ rao giảng sai lạc.  Do đó, tín hữu Galát đã loại bỏ giáo huấn của Phaolô, mà nghe theo lời một số thầy dậy khác đến thay thế, khi tông đồ rời Galát, để tiếp tục cuộc hành trình thực hiện sứ vụ truyền giáo.
  
Dựa vào những lời công kích trong nội dung thư của Phaolô, chúng ta có thể đoan chắc rằng, các thầy dậy này có những gắn bó nặng nề với lề luật và truyền thống Do Thái, khác với Tin Mừng mà Phaolô rao giảng là ơn cứu độ, qua việc đặt niềm tin vào Đức Giêsu. 

Nguyên nhân những việc làm của họ rất mờ ám.  Họ cho rằng lề luật và truyền thống Do Thái sẽ giúp Giáo Hội Galát dễ dàng ‘’hoà nhập’’ với cộng đồng Do Thái, và như thế, trên phương diện pháp lý, tín hữu cảm thấy thoải mái khi thực hiện bổn phận của một người có tôn giáo. 

Họ còn cho rằng tuân theo lề luật sẽ dễ dàng trong việc cử hành các lễ nghi phụng vụ và tham dự những buổi chay tịnh theo phương pháp huấn luyện, hơn là chỉ có một việc đổi mới con tim, trí óc, phù hợp với toàn bộ triết lý sống của mỗi người.

Các tín hữu Galát đã lầm đường lạc lối thì cho rằng, tuân hành lề luật Do Thái quan trọng hơn là tin vào Đức Giêsu, Đấng ban ơn cứu độ.  Việc làm này giống in như thái độ của nhóm Pharisêu, những kẻ đã từng làm băng họai tôn giáo và khiêu khích Đức Giêsu, khiến Người phải nặng lời khiển trách.
 
Hợp thức hóa giáo hội dưới hình thức như thế là tin vào khả năng cá nhân táo bạo kiêu căng, nỗ lực hoàn thành ơn cứu chuộc.  Nội dung sứ điệp của Phaolô nghiêm chỉnh chống đối – vì con người không thể thi hành đúng lề luật được, nhưng, tin vào Đức Giêsu và liên kết với Người, thì sẽ được cứu độ, cách nhưng không.

                 Trên một số lãnh vực nào đó, người Kitô hữu hiện đại cũng gặp những loại áp lực tương tự, như việc tuân giữ các giới luật dễ thực hiện và quan sát, là đến nhà thờ dự lễ, đọc kinh. Nhưng chính vì thế mà chúng ta có thể cảm thấy tự mãn, và cho rằng mình là kẻ đạo đức, đã tuân hành ‘’lề luật’’ cách trọn vẹn. 

Tuy nhiên, nếu con tim không xác định mình là kẻ tội lỗi, và rất cần tới Đức lòng thương xót của Đức Giêsu, thì có thể chúng ta là những kẻ mang cùng  trạng thái người Pharisêu, trái tim đang ở rất xa tình yêu Thiên Chúa. 

                 ‘’Lạy Thiên Chúa Cha, xin giúp nhận biết dấu hiệu nguy nan là đang tự cho rằng mình là người qúa đạo đức, và nhớ rằng đó là ước vọng tội lỗi lặn sâu trong con.  Tuy nhiên, tình yêu Chúa còn sâu đậm hơn.    

Chúa Nhật 27 Thường Niên - Năm A

Chúa Nhật 27 Thường Niên  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Isaia 5,1-7; Thánh Vịnh 80,8.12-16.19-20; - Philipphê 4,6-8; - Mátthêu 21,33-43


Lạy Chúa Là Chúa Tể Càn Khôn

Nào Ta Giết Quách Nó Đi

               Ông chủ nhà sai người làm sạch sẽ vườn nho, rào giậu chung quanh, và đặt một tháp canh, trồng nho và khóet một bồn đập nho.  Đoạn ông trao cho tá điền canh tác để thu hoa lợi.

                 Thay vì thi hành các điều như đã thỏa thuận, bọn tá điền bắt giữ các đầy tớ và chính người con trai của ông chủ, người đã đối xử công bình với họ dưới hình thức cung cấp kế sinh nhai, hầu bảo đảm cuộc sống của họ:  ‘’Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi chẳng làm?’’ (Isaia 5,4).

                 Vì ghen tương và tham lam, các tá điền đã hành động cách dã man, và đối xử bất công với ông chủ, là người đã cho họ mọi sự, chỉ vì yêu thương họ.  Và cũng vì lòng nhân từ, yêu mến và thương xót, Chúa Cha đã đem chúng ta vào Nước Thiên Chúa, hầu chúng ta có thể sống một cuộc đời nơi vương quốc.

                 Cuộc đời nơi vương quốc, trước tiên, đòi chúng ta phải biết đền trả công bình với ơn huệ Thiên Chúa đã đưa chúng ta vào Nước của Người; thứ đến là việc tỏ lòng biết ơn và cảm tạ Chúa; cuối cùng là hết lòng yêu mến Chúa, vì các ơn Người đã ban cho chúng ta.

                 Chúng ta phải đền trả cách xứng đáng và công bình, vì biết rõ, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta các ơn nơi Đức Kitô – nghĩa là cho chúng ta được giao hòa với chính Thiên Chúa, nhờ đã tha thứ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, và nhận chúng ta làm con cái Người, đồng thời ban cho chúng ta ơn cứu độ và Thánh Thần, để gìn giữ chúng ta trong suốt cuộc đời này; ngoài ra, còn chuẩn bị đón chúng ta vào hưởng sự sống đời sau:  ‘’để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai.  Gia tài này dành ở trên trời cho anh em.’’

                 Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta mọi sự, mặc dù chúng ta là những kẻ tội lỗi, không xứng đáng được hưởng các ơn của Người:  ‘’Qủa vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ; đây không phải sức anh em mà là một ân huệ của Thiên Chúa’’ (Êphêsô 2,8).

                 Thứ đến, là việc tỏ lòng biết ơn và cảm tạ Chúa đã không ngừng tuôn đổ muôn vàn ơn xuống cho chúng ta.  Cuối cùng là hết lòng yêu mến Chúa và tha nhân, tức là tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Chúa, hầu chúng ta ‘’tạo được hoa trái của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ’’ (Galát 5,22-23).

‘’Lạy Cha nhân từ, trong Đức Kitô, Chúa đã ban cho chúng con tất cả mọi ơn lành.  Chẳng có gì mà Chúa chưa làm cho chúng con.  Xin cho trái tim  con không ngừng gắn liền với trái tim Chúa, để cảm tạ Chúa, hầu con tạo được hoa trái tốt lành. Amen.’’

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Gióp 42,1-3.5-6.12-17; - Thánh Vịnh 119,66.71.75.91.125.130; 
- Luca 10,17-24


Đau Khổ Qủa Là Điều Hữu Ích

Giờ Đây, Chính Con Mắt Con Chứng Kiến

              Chúng ta thường nói:  ‘’Trong thấy thì tin’’.  Có một sự khác biệt giữa nghe và trải nghiệm điều gì đó, là bước đầu tiên.  Gióp nói với Thiên Chúa,:  ‘’Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến’’ (Gióp 42,5). 

Phải, trước kia Gióp đã nghe người ta nói tới Thiên Chúa, với những cách mô tả khác nhau về quyền năng và sức mạnh của Người, nhưng khi ông thân chinh gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, thì ông mới thấy có một sự khác biệt rõ ràng.  Bây giờ thì ông đã thấy một Thiên Chúa vĩ đại, và nhận ra tình trạng dốt nát và khờ dại của mình. 

Phản ứng của ông sau khi gặp gỡ Thiên Chúa là khinh bỉ chính mình, rồi hết lòng sám hối về tính tự phụ của mình.  Nếu gặp gỡ Chúa, chúng ta cũng sẽ có cảm nhận là mình yếu đuối và tội lỗi.  Khi Isaia có một thị kiến về Thiên Chúa, ông hốt hoảng nói:  ‘’Khốn thân tôi, tôi chết mất!  Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!’’ (Isaia 6,5).  Khi Đức Giêsu đã giúp Simon Phêrô bắt được một mẻ cá kỳ diệu, Phêrô ‘’sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi’’ (Luca 5,8).

                 Chúng ta thường có những cuộc gặp gỡ Thiên Chúa cách thâm sâu hơn cả Gióp, vì chúng ta có thể thấy Người trong Lời nói cũng như việc làm của Đức Giêsu Kitô.  Đó không phải là cuộc gặp gỡ chỉ dành cho những người đã diện kiến Đức Giêsu lúc Người còn ở trần gian, nhưng tất cả chúng ta đều có thể tiếp cận với Đức Giêsu, qua việc tác động của Thần Linh, trong tâm hồn chúng ta.
 
Và Thần Linh sẽ hướng dẫn chúng ta để có cùng một phản ứng như Gióp, Isaia và Phêrô. Thần Linh sẽ tỏ lộ cho chúng ta biết sự thánh thiện của Chúa và tội lỗi của mình.  Khi Gióp tự hạ mình xuống và ăn năn thống hối, thì Thiên Chúa ban ơn, thêm sức cho ông nhiều hơn những đau khổ ông đã phải chịu trước kia.  Khi thực lòng sám hối, tức là chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận vô vàn ân sủng Chúa dành sẵn cho chúng ta vậy! 

Ân sủng mà Gióp đã nhận được, dưới hình thức một gia đình đông đúc và một tài sản to lớn.  Mặc dù Thiên Chúa ban cho chúng ta của cải đời này, nhưng ân sủng đích thực mà chúng ta mong ước, chính là đời sống tâm linh, để nhận biết tình yêu và ơn tha thứ, cũng như sự bình an của Chúa, trong tâm hồn mỗi người.

                 ‘’Lạy Chúa, chúng con biết tất cả chúng con là những kẻ vô dụng và dơ bẩn trước nhan thánh Chúa.  Nhờ Thần Linh Chúa, chúng con đã có đuợc một cuộc gặp gỡ thâm sâu với Chúa, và giúp chúng con thật lòng sám hối, nhờ thế chúng con mới trở thành những kẻ mà Chúa mong muốn.’’  

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Sáu Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Gióp 38,1.12-21.40,3-5; - Thánh Vịnh 139,1-3.7-8.9-10.13-14b; 
- Luca 10,13-16


Tạ Ơn Chúa Đã Dựng Nên Con Cách Lạ Lùng

Vâng. Lạy Chúa Con Đây Tầm Thường Bé Nhỏ 


Ở phần trước sách Gióp, bạn bè ông Gióp ước mong Thiên Chúa lên tiếng:  ‘’Phải chi Thiên Chúa lên tiếng để trực tiếp ngỏ lời với anh.  Phải chi Người cho anh được biết bao nhiêu bí ẩn của lẽ khôn ngoan!’’ (Gióp 11,5-6).  Họ tin là Thiên Chúa sẽ ủng hộ quan điểm của họ là Gióp bị trừng phạt vì tội lỗi ông. 

Dĩ nhiên Gióp có quyền giữ vững tình trạng vô tội của mình để chống lại những lời cáo buộc ấy, nhưng ông sẽ phiền trách Thiên Chúa về vận xấu của mình và coi rẻ Đấng Tạo Hóa là sai lầm.

Khi Thiên Chúa lên tiếng nói, Người không ủng hộ bất cứ điều nào của họ, nhưng nhắc cho Gióp biết, Người là Đấng tuyệt đối Siêu Việt.  Chúa không cần biện giải cho mình, hay tham dự một cuộc tranh luận với Gióp:  Người là Đấng Sáng Tạo tất cả mọi sự, và có quyền làm bất cứ điều gì theo ý  Người muốn. 

Bạn bè của Gióp tin là họ biết rõ tư tưởng của Thiên Chúa, và họ nghĩ là Thiên Chúa sẽ nói như họ, nhưng Thiên Chúa bảo chúng ta rằng: ‘’Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy’’ (Isaia 55,8-9).

Trong ngôn ngữ thi văn linh hoạt, Thiên Chúa hỏi Gióp xem có hiểu biết mầu nhiệm sáng tạo không? Gióp có biết ánh sáng và bóng tối từ đâu đến không?  Gióp có biết chiều sâu của biển là bao nhiêu không, hoặc cái gì nằm ở phía bên ngoài sự chết?  Gióp thú nhận rằng, trước mặt Thiên Chúa, ông là kẻ thật dốt nát và bất lực, thế rồi ông ăn năn, thống hối vì bấy lâu nay, đã kiêu căng, tự đắc. 

Chúng ta được kêu gọi để bắt chước sự khiêm tốn của Gióp.  Khi chúng ta thực sự gặp Thiên Chúa, như Gióp, thì chúng ta chỉ có một cách đáp lời kêu gọi của Thiên Chúa là nhận ra sự yếu đuối và tội lỗi của mình, rồi hết lòng xin ơn tha thứ.

May thay, chúng ta có thể biết Thiên Chúa đã bầy tỏ tình yêu và lòng thương xót của Người đối với chúng ta, qua Người Con là Đức Giêsu Kitô.  Nhờ sự chết và sống lại, Đức Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hầu giúp chúng ta có thể giao hòa với Thiên Chúa.
 
Muốn thực tâm sám hối tội lỗi, thì chúng ta phải tự hạ mình xuống trước mặt Chúa.  Chúng ta phải nhìn nhận Người là Đấng Tạo Hóa và chúng ta là các tạo vật của Người, nhưng đã phản nghịch cùng Chúa.  Đoạn chúng ta sẽ nhận thấy, như Gióp đã cảm nghiệm rằng, sám hối là con đường dẫn chúng ta tới sự bình an, và đón nhận ân sủng từ Thiên Chúa.

‘’Lạy Thiên Chúa Cha toàn năng, Chúa đã tạo dựng mọi loài và Chúa vẫn hằng gìn giữ chúng con như hiện nay.  Xin Chúa tha thứ mọi kiêu căng và ương ngạnh của chúng con.  Khi chúng con sám hối, xin Chúa giúp chúng con biết hưởng niềm vui trong ơn tha thứ của Chúa, và biết tôn vinh tất cả những công trình tuyệt vời mà Chúa đã làm cho chúng con.’’ 

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Năm Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Gióp 19-,21-27; - Thánh Vịnh 27,7-8a.8b-9c.13-14; - Luca 10,1-12


Lạy Chúa, Con Tìm Thánh Nhan Ngài

Đấng Bênh Vực Tôi Vẫn Sống

                Bạn bè ông Gióp nghĩ là nếu ông Gióp chịu đau khổ, thì thế nào ông cũng sẽ than phiền, trách móc; và chắc chắn là ông đã phạm một vài tội lỗi, vì vậy Thiên Chúa trừng phạt ông.  Nhưng ông biết rõ, lương tâm ông trong sạch, và do đó ông không thuận theo lời phán đoán của bạn hữu.  

Họ coi ông như kẻ đang lăng nhục Thiên Chúa, bởi vì, để tự vệ, chắc ông sẽ nói, Thiên Chúa gieo bất hạnh cho một kẻ vô tội. Ông Gióp không thể giải thích việc này, nhưng giữ vững những gì ông cho là đúng sự thật.
 
Lý luận của bạn bè ông thật là ngây thơ; họ tin vào một thế giới, trong đó Thiên Chúa trừng phạt kẻ hung ác, và cứu giúp người tốt lành, và như thế, qua nhãn quan của họ, ông Gióp đúng là một kẻ tội lỗi, dù ông có nói gì đi chăng nữa. 

Nhưng, trên thực tế, trong cuộc đời này, không gì có thể diễn tiến một cách tuyệt hảo, trơn tru: nhiều người tốt mà phải chịu đau khổ tột mực, trong khi người hung ác thường lại thành công.
 
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, dưới hình thức nào đó, Thiên Chúa cư xử với con người một cách bừa bãi; nhưng thực sự, chúng ta hoàn toàn không hiểu thế nào là mầu nhiệm đau khổ.

Vì vậy, thái độ của ông Gióp có vẻ thâm sâu hơn những người tỏ lòng an ủi ông.  Ông không cố gắng tìm một lời giải thích dễ hiểu về đau khổ của mình.  Ông đối đầu với thực trạng, và nói rằng, mặc dù ông không hiểu rõ ngọn ngành, nhưng ông vẫn đặt niềm tin nơi Thiên Chúa.
      
                 Là người Kitô hữu, chúng ta đừng nghĩ là Thiên Chúa sẽ che chở chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ.  Thiên Chúa không nói là chúng ta sẽ không phải chịu đau khổ, nhưng Người hứa là sẽ ở cùng chúng ta trong những khi chúng ta gặp đau khổ, và thêm sức mạnh để chúng ta cam chịu cho nên.  Ông Gióp thâm tín rằng, ông có một Đấng Cứu Độ, và ngay cả sau khi chết, Thiên Chúa vẫn không bỏ ông.
 
                 Chúng ta biết rằng, Đấng Cứu Độ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đau khổ vì chúng ta, và đã ra đi để chuẩn bị cho chúng ta một chỗ ở trên Thiên Đàng.  Chúng ta có thể công bố, với niềm tin chắc chắn rằng: ‘’Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta’’ (Rôma 8,38-39).

                 ‘’Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng chấp nhận đau khổ vì chúng con, hầu chúng con tìm được sự sống trong Chúa.  Xin Chúa giúp chúng con nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ của chúng con, và đặt trọn tin tưởng vào Chúa, trong mọi tình huống, cho đến khi Chúa đem chúng con về quê Trời với Chúa.’’    
                 

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Ba Sau Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Gióp 3,1-3.11-17.20-23; - Thánh Vịnh 88,2-3.4-5.6-7.7-8; - Luca 9,51-56


Lạy Chúa Là Thiên Chúa Cứu Độ Con

Sao Lại Ban Ánh Sáng Cho Kẻ Khốn Cùng

                 Một bài thơ cổ điển có câu:  ‘’Người sinh ra hôm nay, và chết ngày mai, mất đi giây phút hưởng lạc, nhưng không phải chịu những tháng ngày sầu muộn.’’… Nhà thơ cổ điển Hy Lạp tên là Sophocles viết:  ‘’Tốt nhất là đừng sinh ra đời… và tốt thứ nhì là càng chết sớm càng tốt, ngay vào lúc mới sinh!...’’ 

                Ông Gióp tán thành việc thẩm định cuộc đời cách bi quan như trên.  Ông Gióp muốn là đừng bao giờ sinh ông vào đời, hoặc cho ông chết ngay lúc mới sinh thì rất tốt.  Và ông phàn nàn là sao trời không cho những người không muốn sống nữa chết đi cho rồi. 

                 Chúng ta có thể thông cảm thái độ của ông Gióp, bởi vì ông đã phải gánh chịu rất nhiều tai ương, hoạn nạn.  Nhưng, Thiên Chúa có một kế hoạch riêng cho ông, và sau này Người đã lại ban cho ông mọi sự tốt đẹp hơn lúc trước.

              Tuy có những bất hạnh xảy đến trong cuộc đời, nhưng chúng ta nên đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng hằng yêu mến chúng ta.  Ông Gióp có một sai lầm là ông muốn đừng sinh ông vào đời, và ông còn nguyền rủa ngày sinh của ông nữa.   Nếu chúng ta hối tiếc, mình đã sinh ra đời, tức là chúng ta đang từ chối món qùa qúi báu Chúa ban cho chúng ta.

                 Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta, và dành cho mỗi người chúng ta một chương trình riêng.  Mỗi khi gặp khó khăn, nếu chúng ta nghi ngờ lòng thương xót Chúa, hoặc cảm thấy khó chịu, thì nên hướng lòng tới Chúa nhiều hơn. 

                 Nhiều vị thánh đã từng chịu đau khổ, điển hình là thánh nữ trẻ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, qua đời lúc mới 24 tuổi.  Kể từ ngày Têrêxa qua đời đến nay đã có hàng triệu tâm hồn đến kính viếng và cầu nguyện với thánh nữ.  Lúc sinh thời, thánh nữ Têrêxa đã chịu nhiều đau khổ, nhất là quãng cuối cuộc đời.  Tuy nhiên, thánh nữ không óan trách cuộc đời, chỉ ước ao được chết theo ý Chúa, đồng thời chấp nhận đau khổ vì lòng tin.  Thánh nữ viết:  ‘’Tôi muốn chịu bệnh tật suốt cả cuộc đời của tôi; nếu việc này đẹp lòng Chúa, và sẵn lòng chịu như thế mãi, bao lâu Chúa muốn, chỉ với một tâm hồn yêu mến mà thôi.’’


                 ‘’Lạy Chúa, con nài xin Chúa ban cho con và cho tất cả những người thân yêu của con ơn luôn luôn làm mọi việc hoàn toàn theo thánh ý Chúa, và biết vui lòng đón nhận niềm vui, cũng như nỗi buồn, trong cuộc sống tại trần gian này, hầu ngày sau chúng con được kết hợp với Chúa trên Nước hằng sống.  Amen.’’ 

Ngày Mai, Thứ Tư 01-10
Kính Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Xin Đọc Bài Đã Đăng Cùng Ngày, Năm 2013  

Chúa Nhật 26 Thường Niên - Năm A

Chúa Nhật 26 Thường Niên  -  Năm A
Các bài đọc trích sách: - Êdêkien 18,25-28; - Thánh Vịnh 25,4-9; - Philipphê 2,1-11; Mátthêu 21,28-32

Chúa Là Đấng Từ Bi Chính Trực

Thưa Ngài, Con Đây

                Giống như các thầy dậy, các nhà giảng thuyết khác (và dĩ nhiên cả các bà mẹ!), Đức Giêsu cũng giảng dậy, nhưng Người dùng dụ ngôn, tức là các câu truyện để thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ.  Nội dung dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm này đề cập tới hai người con trai. 

Người thứ nhất, trẻ tuổi, ương ngạnh, ngang ngược!  Mặc dù chống lại một trong các yêu sách của thân phụ, người con trai này vẫn không bị liệt vào thành phần gây nên tội ác; nhưng, nếu là một thanh niên Do Thái đang sống ở kỷ nguyên đồng thời với Đức Giêsu, thì không bao giờ anh dám nghĩ tới việc ‘’từ chối’’ lời yêu cầu của thân phụ mình.  Chúng ta có thể đặt trọng tâm vào thái độ bất tuân phục lúc ban đầu của người con trai, nhưng cũng cần lưu ý đến sự thay đổi nơi trái tim anh.

Trái lại, người con trai thứ hai là một mẫu thanh niên lý tưởng; anh mau mắn vâng lời thân phụ, gật đầu dạ dạ, vâng vâng.  Thái độ của anh thật đáng khen ngợi; nhưng anh lại không thi hành ý định lúc ban đầu của mình.

Lời khiển trách sau đây là hậu qủa do kẻ quyết định từ chối lời kêu gọi của Đức Giêsu:  ‘’Tại sao anh em gọi Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa, mà anh em không làm điều Thầy dậy’’  (Luca 6,46).  Đức Giêsu và những người nghe dụ ngôn này đều đồng ý rằng, người con trai thứ nhất đáng được khen thưởng, khi buổi chiều tà đến!

Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ tự coi mình là những người kính sợ Thiên Chúa, và tuyệt đối tuân hành lề luật Torah.  Nhưng, mặc dù là những người thi hành tỉ mỉ các điều lệ và qui tắc, nhưng tim óc họ đặt không đúng chỗ.  Họ kêu cầu:  ‘’Lạy Chúa, lạy Chúa’’, nhưng họ không tìm kiếm và vâng phục ý Chúa.  Họ hiểu Kinh Thánh, nhưng không biết Chúa; họ tuân hành lề luật, nhưng không yêu mến Chúa và tha nhân.

Mặc dù các viên thuế vụ và phường đĩ điếm đi lạc đường đến với Chúa, nhưng họ biết quay trở về.  Do đó, Chúa không còn nhớ tội lỗi của họ nữa (xin đọc thêm câu 21-22, đoạn 21, sách ngôn sứ Êdêkien), nên đã mời họ vào hưởng Nước Trời.

Chúng ta có thể kiểm điểm cuộc sống của chính mình để biết:  Khi tham dự thánh lễ và rước Thánh Thể, khi đọc Kinh Thánh, khi nghe Lời Chúa, khi cầu nguyện, chúng ta đã hành động với thái độ nào?  Vì thói quen trần tục?  Hay vì yêu mến và triệt để tuân hành lời khuyên dậy của Chúa?

Trong cuộc sống hằng ngày:  tất cả các việc chúng ta làm, các điều chúng ta suy nghĩ, những lời chúng ta nói, với người thân yêu, với những người chúng ta gặp gỡ thường xuyên, trên đường phố, tại sở làm, có biểu lộ sự kiên nhẫn, quảng đại, hiền hoà và yếu mến không?  Tìm hiểu và thi hành ý Chúa là điều không thể thiếu trong cuộc sống đời thường của mỗi người Kitô hữu.

               ‘’Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con muôn vàn ơn lành, phúc lộc.  Mỗi khi con ương ngạnh, sa ngã, nhưng biết quay về, Chúa quảng đại tha thứ, và mở rộng vòng tay đón nhận con vào Nhà Chúa. Amen’’


Ngày Mai - Thứ Hai - Lễ Kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae
Xin Tìm Đọc Bài Đã Đăng, Cùng Ngày, Năm 2013

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên - Năm Chẵn

Thứ Bảy Sau Chúa Nhật 25 Thường Niên  -  Năm Chẵn
Các bài đọc trích sách: - Giảng Viên 11,9-12,8; - Thánh Vịnh 90,3-6.12-14.17; - Luca 9-43b-45


Lạy Chúa, Xin Trở Lại

Đừng Chờ Tới Ngày Tai Ương Ập Đến

                 Người ta bảo rằng, một người lạc quan và thực tế thì hướng mắt tới tòa nhà trọc trời, trong khi kẻ bi quan lại nhìn vào lỗ hổng!  Có lẽ chúng ta nên thêm rằng, người thực tế thấy cả tòa nhà cao lẫn lỗ hổng!

                 Nhà ‘’giảng thuyết’’ trong sách Giảng Viên là một người thực tế.  Ông ta nhìn thấy nguồn vui cũng như những đau khổ trong cuộc sống.   Đoạn sách hôm nay bắt nguồn bằng lời kêu gọi, đặc biệt giới trẻ, tiến vào hưởng mọi thú vui ở trần gian: ‘’Này bạn thanh niên, cứ vui hưởng tuổi xuân của bạn… (Gảng Viên 11,9).

Thánh Irênêus, ở vào thế thứ hai qủa quyết: ‘’Vinh quang Thiên Chúa là một nhân vật hòan toàn sống động!’’  Chúng ta nên vui hưởng cuộc đời, tuổi xuân, sức lực, tài trí…, và vân…vân…, đồng thời biết nhìn nhận:  ‘’Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú’’ (Giacôbê 1,17).
 
Vui hưởng cuộc sống, nhưng chúng ta đừng mù quáng trước sự thật.  Từ câu 1 đến câu 6 trong đoạn sách hôm nay, tạo thành một bức tranh ngoạn mục, chứ không phải là lời than trách tuổi già và sự chết, mà bất cứ ai cũng một lần trải qua, không sao tránh khỏi.  Tuy nhiên, giữa cảnh oái oăm, nhưng rất thực tế là sự chết, chúng ta vẫn có lý do để vui hưởng cuộc sống, chớ ‘’đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về bụi đất’’ (Giảng Viên 12,7).
 
Sách Giảng Viên được tưới gội bằng một từ ngữ thật phong phú: ‘’phù vân’’ (Giảng Viên 11,10 và 12,8) – nghĩa là ‘’vô dụng’’, hoặc ‘’trống rỗng’’, hay ‘’vô ích’’.  Tuy nhiên, điều mà chúng ta sở hữu hiện nay, không phải là một cái nhún vai hay một tiếng thở dài vô vọng, nhưng là một sự xác tín rằng, mọi sự ở trên đời này chỉ là tạm thời, và ngay cả những gì tốt đẹp và thành đạt nhất trong cuộc sống cũng đang bay qua thật nhanh; đúng như thánh Giacôbê thẩm định: ‘’Cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao.  Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi’’ (Giacôbê 4,14).

Nhà Giảng Thuyết không tán đồng khẩu hiệu: ‘’… mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’’ (Luca 12,19); tuy nhiên, ông không đề nghị các bạn trẻ lúc nào cũng mang trên mình tấm áo lòng bò, hớt tóc chỉ để lại trên đỉnh đầu một mớ tựa lưng ngựa.  Thay vào đó, ông ủng hộ những bạn trẻ hưởng vui bằng lương tâm trách nhiệm với Thiên Chúa, cân bằng cuộc sống, nhất là biết rung cảm trước nỗi đau của một xã hội chỉ hướng tới cực lạc.

Nội dung bài đọc hôm nay khuyến khích chúng ta vui hưởng cuộc sống, và ‘’sống dồi dào’’ (Gioan 10,10).  Nên biết rằng, ân sủng Bí Tích Rửa Tội và sức mạnh Chúa Thánh Thần luôn ở trong chúng ta và lời kêu gọi cao qúi, tước vị trọng đại nhất của chúng ta là sống cuộc đời trong Thần Linh.  Thánh Irênêus dậy rằng, vinh quang Thiên Chúa là một nhân vật hoàn toàn con người và luôn luôn sống động – đó là lời mời gọi diễn đạt số mệnh của chúng ta.

                 ‘’Lạy Thiên Chúa Cha, xin giúp con biết tôn vinh Chúa bằng cách vui hưởng trọn vẹn ân sủng cao qúi mà Chúa đã ban cho con là sự sống ở đời này.’’